Cơn Bão Đã Đến Chương 9
Nhà máy Xi măng của Sấm lại bị bắt thêm hai người. Cơ sở Máy tơ của Xim cũng bị bắt một chị, bạn của Xim, sắp được tổ chức. Bác thợ có tuổi cùng với Xim tham gia ban lãnh đạo cuộc đình công tháng năm, chỉ bị tình nghi gọi lên Sở mật thám tra hỏi mấy ngày rồi cũng bị trục xuất khỏi Hải Phòng với mấy anh nữa trong nhà máy. Máy chỉ, sở Carông sửa chữa máy móc và nhà máy điện cũng bị mật thám giam giữ hàng chục người. Và hơn hai chục chính trị phạm cũ quản thúc ở các huyện bên Kiến An, Quảng Yên lại bị đòi hỏi giam giữ ở Sở mật thám hàng nửa tháng rồi giải lên Hà Nội để chuẩn bị đi trại giam tập trung.
Những anh chị em công nhân trên đây bị Sở mật thám bắt, giam giữ, tra hỏi, trục xuất hay tống lao, tư tòa đều không phải vì cơ sở bị vỡ, bị lộ. Toàn bị tình nghi. Có những anh chị em lại bị chúng nó lục ở những hồ sơ lập từ 1936 - 1937 móc ra những việc như đọc sách báo Dân chúng, Tin tức, Vấn đề dân cày, Ngục Kông Tum, Mười ngày chấn động hoàn cầu v.v... để chúng kết tội đã tuyên truyền cho Đệ tam quốc tế và hoạt động phá rối cuộc trị an. Thậm chí, những người mà chúng nó cho là ở trong tổ chức và có liên lạc với Thành ủy, bị tra tấn chết đi sống lại, thì chỉ là những quần chúng có cảm tình hay những quần chúng thường. Có mấy anh chị em thật ở trong tổ chức và là những cơ sở quan trọng, thì chỉ bị đánh vài trận, hay dọa đánh và bắt khai qua loa thôi!
Khoảng ba tháng, tháng năm tháng sáu và tháng bảy 1940, Sở mật thám và đề lao Hải Phòng giam giữ người đông gần bằng những thời kỳ khủng bố 1930 - 1931. Trong đề lao, trại tù chính trị vẫn là trại cũ.
Tô và Sấm không được ở trại chung với anh em. Chúng giam mỗi người một xà lim, cả hai vẫn bị cùm, ngoài cửa xà lim đề chữ phấn rất to: isolê (1). Hàng tháng bị cùm như thế cho đến ngày ra tòa xử án. Tô bị bảy năm. Sấm bị ba năm. Nhưng lúc tòa tuyên án xong, bọn lính sắp dong bọn Tô ra xe ô tô về đề lao, cả tên chưởng lý và dự thẩm đều hất hàm bảo bọn Tô:
----
[1] Giam riêng.
- Tòa án Hải Phòng chúng tao làm án bọn mày như thế là khoan hồng lắm! Bọn mày có thích chống án lên Hà Nội thì cứ chống án. Chúng tao truyền đời báo danh cho bọn chúng mày biết, thế nào tòa Thượng thẩm Hà Nội cũng không đồng ý với bản án Hải Phòng xử đâu. Họ sẽ kết án bọn mày thằng nhẹ tội nhất cũng mười năm. Mười năm... ha ha, mười năm! Cũng đủ thì giờ để bọn mày nhìn thấy chủ nghĩa cộng sản tốt đẹp thiêng liêng, cao quý, lý tưởng của chúng mày thực hiện không những trên đất thánh Nga Xô viết mà ở cả Đông Dương này chứ?!...
Thằng chưởng lý già hói trán phất cái tay áo chùng thâm rộng ống nói đoạn cười khẩy một tiếng rồi bước qua mặt bọn Tô đi ra ngoài.
Tô và Sấm bị xử án rồi mà vẫn cứ ở xà lim và phạt cùm. Hai người phải tuyệt thực để phản đối. Ngoài trại anh em tuyên bố cũng sẽ tuyệt thực để ủng hộ. Bọn sếp ngục phải gọi têlêphôn cho cả Sở mật thám và tòa án hỏi ý kiến, cuối cùng chúng đành phải "cho" Tô và Sấm ra ở ngoài trại với mọi người. Hôm phiên tòa, từ xà lim ra ô tô, Tô cũng phải để Sấm cõng. Mấy lần Tô đòi Sấm để Tô xuống đi, nhưng Tô chỉ lê được vài bước rồi lại khuỵu cả hai đầu gối, bàn chân Tô càng chói không thể nào chịu được. Ở trại, lúc Tô men mén mép sàn, lúc bíu bíu tay anh em; ra chơi ngoài sân thì Tô vịn tường vịn gốc cây lần lần từng bước. Nhiều lúc Tô buông tay vịn, đi như trẻ nhỏ tênh tênh chập chững ấy. Anh em lại reo lên, thấy Tô bước hẳn hai ba bước mới chịu ngồi thụp xuống. Ban cứu tế của trại đã tập trung tất cả dầu quất thần, dầu cao cho Tô xoa bóp. Nhưng tổ chức chia thêm thức ăn cho Tô thì Tô nhất định không nhận.
Chiều nay chủ nhật.
Anh em trong trại được ra ngoài chơi. Cái sân cũng không rộng hơn lòng trại mấy tí, nhưng có được hai cây bàng, một vòi nước máy, và được trông thấy trời trên những bức tường bao vây cao hàng năm thước cắm mảnh chai, chằng dây điện. Sắp đến giờ ăn. Bữa thịt lợn chỉ ngày chủ nhật mới có, sáng nay mỗi suất lại chỉ được hơn ngón tay thịt mà trong cả sổ nhà thầu và nhà bếp đều ghi là một lạng. Đã thịt lợn sề vừa bèo nhèo vừa hoi lại còn nghi là lợn bệnh nữa. Bởi vậy sự bàn tán của mọi người lại xoay quanh suất ăn buổi chiều xem đế quốc cho ăn ra sao đây. Vẫn đậu phụ rau muống luộc như thường lệ. Khi cỏ vê hàng ngày vừa bưng cái lập là đầu tiên vào sân thì không biết bao nhiêu tiếng nói lại nhao nhao:
- Vẫn cứ ăn cắp!
- Lại càng ăn cắp nữa các đồng chí ơi!
Nhiều người phải bật lên chửi.
Mỗi lập là mười suất cơm mà chưa được lưng lửng cái thùng gỗ nông choèn, loe miệng, to không bằng cái chậu cám cho một con lợn rãu ăn. Mười suất đậu phụ thì miếng nào cũng mỏng như cái lưỡi mèo, kho không hiểu bằng thứ nước hàng gì mà sạm sạm vàng vàng, cũng cứ ghi là đậu phụ một lạng và năm mươi gam nước mắm. Còn rau muống đúng là những búi còn nguyên cả lá úa và rễ. Cái thức chấm được hoàn toàn "nguyên chất" là muối thì đựng lum lủm trên một miếng cháy đen cháy khét...
Gần gốc bàng chỗ Tô ngồi có một người tay khoanh trước ngực, đi đi lại lại, nét mặt rất đăm chiêu nghĩ ngợi như không để ý gì đến bữa ăn và sự xôn xao của anh em cả. Anh chàng Kiều này không phải vì chiều nay chủ nhật và giở giời mới làm ra vẻ như thế. Thường thường cứ đến giờ ra sân, anh em lại thấy Kiều ta diễn cái màn kịch ấy. Thậm chí, có những buổi sáng chủ nhật, anh em ồn ĩ đánh vật, tập võ, kéo co, nhảy ngựa, và những buổi chiều thứ ba được người nhà vào phép, anh em chia nhau quà bánh thức ăn nhộn nhịp hẳn lên, thì Kiều vẫn cứ một mình tha thẩn. Rồi cả những lúc Kiều đứng lại xem anh em nô đùa hay vào ngồi mâm ăn với anh em, Kiều cũng chỉ cười nói đôi câu rồi lại đăm đắm nét mặt như không thể nào dứt khỏi cái sự suy nghĩ u uẩn và đặc biệt của mình.
Tuy vậy, từ phút cái lập là đầu tiên bưng vào đến những lập là bưng sau, lập là nào nhiều cơm, cơm ngon, suất đậu nào không bị tù cỏ vê án thường véo ăn khi sắp cơm, cũng như chỗ đậu nào có nhiều miếng dày và nhỉnh hơn, Kiều đều biết hết để chốc nữa sẽ ngồi vào mâm đó. Càng phải chú tâm chú não đến những miếng ăn một cách tinh vi khổ công như thế, Kiều càng thấy đau xót, uất ức, hờn tủi, - sự hờn tủi, uất ức, đau xót không phải chỉ ở trong tâm trí Kiều mà còn như xoắn như vò như xé cả ruột gan Kiều nữa. Vì Kiều lại phải nghĩ đến phần thức ăn và sự quyết định của ban cứu tế về những phép của Kiều.
Trại có hơn năm mươi người vừa tù đã thành án và đương chờ xử án, vậy mà không được mười người có gia đình vào phép. Đã thế trong số tám chín người này, mấy người lại tuần có tuần không, và có người đúng là gia đình vào thăm cho quà là để làm phép! Cũng phép, nhưng nhà thì cho một nải chuối, một gói xôi, gói cơm nếp, phong bánh khảo. Đấy là của mấy gia đình làm ở nhà máy Xi măng và của bố con ông cụ đi lưới ở dưới làng Đông Khê.
Phép nhiều nhất có ba người. Một anh đương học năm thứ ba trường Thành chung, bố mẹ vừa có cửa hàng tơ lụa, vừa có nhà cho thuê. Người thứ hai là ông Cần lao, ông chủ hiệu thợ may anh họ chị em bà chủ xưởng dệt Thảo Minh. Mỗi lần hai người này ra chuyện với người nhà rồi theo xubadăng hay gác điêng đưa phép về trại, thì cả mấy trại tù án thường đều đổ xô ra xem những thúng phép phải khiêng về với không biết bao nhiêu thứ lạ thứ quý thứ ngon. Của anh học sinh thì gói nhớn gói nhỏ toàn bằng giấy bóng. Nào pa tê, xúc xích, giăm bông, ruốc tôm he, ruốc thịt lợn, kẹo xúc cù là, kẹo bọc sữa, bánh bích quy và các thứ mứt. Bánh bích quy sâm banh đựng hộp sắt làm ở bên Tây bỏ ra cứ đầy bàn, xubadăng ta và gác điêng Tây cứ vừa đỡ, vừa nhai vừa nếm ngau ngáu thêm với xúc cù là, giăm bông, ruốc tôm he một cách rất tự nhiên để... khám xét. Của ông Cần lao thì gáo nhớn gáo bé nào thịt kho tàu, thịt rim, chả tôm he, chả mực, chả quế, giò lụa, kẹo sừu Nam Định, bánh đỗ xanh Hàng Gai và bánh cốm Hàng Than Hà Nội. Hai người lại còn các thứ thuốc bổ thận, bổ tim, bổ gan, bổ phổi... toàn thuốc bắc, thuốc tây rất đắt tiền của những hiệu thuốc nổi tiếng, phải cạy cục mới mua được.
Nhưng của Kiều lại còn đặc biệt hơn nữa. Nhiều thứ ở Hải Phòng đến quan Đốc lý, chánh Nhà đoan, chủ nhì Xi măng, má Chín khách sạn Thiên Tân và bà đầm chủ hiệu Sápphănggiông cũng chưa được ăn, chưa được dùng thì Kiều đã có. Nào cam táo Hoa Kỳ, nho Gia Nã Đại, giăm bông, xúc xích Úc Đại Lợi, vân vân... Bánh tây không chỉ dăm ba cái hạng năm xu, ba xu mà là cả một cái to bằng cái gối tròn đám cưới. Khi bọn gác ngục cắt ra làm nhiều khoanh và giơ lên xem trong ruột có giấu gì không thì mùi bánh phưng phức, gương bánh mịn màng khiến tưởng như đó là bánh Mình thánh Chúa mà thày cả dâng trước ban thờ làm phép cho các con chiên chịu lễ vậy! Còn những mùi xoa, áo lót, xà phòng thơm cũng toàn là những thứ hàng quý hiếm ở Pari gửi sang, còn nguyên tem nhãn hiệu.
Phép của Kiều không phải gia đình cho mà là của một người con gái làm hàng ở ngoài bến Sáu Kho đương say Kiều: Gái đen. Gái đen cháu ông cụ Cam và chị của Cam ấy, bảo rằng y vào phép cho Kiều và cho cả các anh chị em trong ấy nữa. Đã cho như thế, Gái đen còn dặn nếu "trong ấy" có cần gì thì cứ nhắn ra, muốn thứ gì Gái đen cũng xin chạy ngay và sẽ gửi hẳn tay xubadăng cầm vào.
Ban cứu tế đã hai lần họp toàn trại về vấn đề phép. Mặc dầu đã có quyết nghị tập trung thức ăn vào phép, nhưng nhiều anh em làm Xi măng, Máy tơ, Máy chỉ đã lấy riêng hẳn ra ba rổ thức ăn đem đến để ở đầu chỗ nằm của ba nhà "triệu phú" kia. Nhưng họ vẫn cứ nhất định xin theo như anh em, và không những họ chỉ xin để vào kho những thức ăn của họ, mà cả thuốc men và các đồ dùng nữa. Mãi sau anh học trò trường Thành chung mới nhận dùng riêng mấy thứ như thuốc bổ tim, xà phòng thơm, áo lót. Còn ông Cần lao thì nói vì ông có tuổi mà thuở nhỏ hàn vi lam lũ ghê quá nên trong người bị đủ các thứ bệnh, vậy những thuốc bổ thận, bổ phổi, bổ dạ dày mà các đồng chí và anh em cứ quyết định không tập trung thì ông xin "tư hữu" vậy. Và ông cũng chỉ dám xin được nhận một điều khoản đặc biệt nữa, là giữ riêng gáo thịt nạc rim và chả quế, giò lụa để ông ăn dần, vì ông vốn đã kiết lị kinh niên mà phải ăn cá mắm, ăn thịt trâu của đế quốc thì ông chỉ làm phiền ban cứu tế thôi! Sau hết, ông chỉ dám nhận thêm mấy phong bánh đậu xanh và kẹo sừu để ông ăn sáng sau khi ông uống thuốc, kẻo những thứ thuốc nọ uống vào lúc đói làm ông cồn cào lắm.
Ông Cần lao nhận được ba lần phép thì có tin người nhà ông đã lo chạy ở cả Sở mật thám, chánh tòa, biện lý, dự thẩm, sau đó vài ngày ông được tha. Còn người học trò thì chống án lên Hà Nội. Giờ chỉ còn phép của Kiều. Từ tháng sáu tới nay, chế độ nhà tù càng siết chặt, anh em càng ăn uống ngặt nghèo hơn. Chỉ từ chiều hôm thứ ba là hôm anh em có phép đến hết ngày thứ năm là kho phép đã gần hết. Sang hôm thứ sáu thì thức gì mặn muội nhất để dành được đều phải lấy ra ăn. Đến ngày chủ nhật là nhẵn nhụi. Như thế mà nửa tháng nay cả mấy bọn anh em mới bị bắt đều không ai có người nhà gửi gắp gì cả. Ngay chiều hôm thứ ba, anh em chia nhau phép thì cũng gần như là làm phép cho bữa ăn!
*
- Cơm!
Khi Kiều đi quanh sân hẹp đã chán cả chân và Tô ở dưới gốc bàng đã vận động thở hít xong cái bài thể dục tự Tô đặt ra, thì những lập là cơm đã chia xong. Cỏ vê trại hàng ngày liền hô lên với một điệu bộ và một giọng như lính tập đoạn cười ré:
- Cơm! Cơơm!
Anh em cũng reo lên, rồi bọn nào vào lập là ấy. Kiều tuy vẫn đi lửng thửng và ngồi vào sau cùng, nhưng Kiều nhằm không những chỉ được suất đậu phụ ngon mà cả suất tôm của kho phép chia thêm cho anh em cũng là phần tốt nữa. Nhưng chao ôi! Cái suất tôm mà Kiều chú ý và đã nhằm được, đó chỉ là một cái đầu tôm đã có trứng lại còn nhỉnh hơn phần anh em, mặc dầu đồng chí coi kho khét tiếng là "hắc", được coi là người độc nhất trong anh em có tài chia thức ăn vì anh có cả một cái cân tiểu li ở con mắt. Không những thế lại còn mấy tay cũng "hắc" gần bằng anh đã xúm lại chung quanh mâm thức ăn của Kiều mà tham gia ý kiến khi chia!
Không như anh em, họ ăn đậu phụ của đế quốc trước và ăn tôm của công cộng sau vừa cho đủ mặn với lưng gáo cơm gạo hẩm, vừa để nhấm nháp tận hưởng cái vị đậm đà bùi nghịt của con tôm đồng kho tương của nhà làm rất công phu kia, Kiều lại ăn tôm trước ăn đậu phụ sau. Và Kiều chỉ ăn hai ba miếng cơm là hết tôm với một kiểu như là ăn cho qua bữa, ăn thế nào cũng được. Bề ngoài làm ra vẻ như thế, nhưng bên trong thì Kiều thấy mười cái đầu tôm râu chơm chởm và chạt muối ấy, - thứ thức ăn duy nhất để Kiều ăn không những cho hết gáo cơm mà còn đỡ cả kiết lị, - lại như những cái đinh đóng vào tâm trí Kiều. Phải! Đúng mười cái đầu tôm chia thêm cho đúng mười người.
Lập là của Kiều vì có cả Tô, Sấm, ông cụ Vy, ông cụ Coóng nên giữ kho đã chia cho đặc biệt năm con tôm to. Không những lập là Kiều còn tôm ăn chiều nay mà cả bữa trưa mai phiên cá mắm vẫn còn tôm ăn. Ngoài ra cái gáo đựng sẽ được tráng nước rau thật kỹ và sẽ là món nước xuýt cũng tuyệt trần quý báu. Tổ chức ăn dè sẻn lo xa như thế, lập là Kiều đã làm nhiều lập là khác xuýt xoa khen nào "cừ", nào "kiểu mẫu", "khoa học", nào tay coi quỹ thức ăn của mâm ấy với tay giữ kho của trại có thể làm cố vấn cho trường Cao đẳng Thương mại, Đông Dương ngân hàng, hay Hội đồng kinh tế lý tài ở Đông Dương vậy.
Trong khi những cái đầu tôm, cứ như đinh đóng vào tâm trí Kiều thì những câu tấm tắc của anh em khen lập là Kiều nào tổ chức "cừ", "kiểu mẫu", "khoa học", vân vân. Kiều càng nức nở nhớ tiếc những mùi vị xúc xích, giăm bông và bánh kẹo, cam táo của Gái đen vào phép cho Kiều. Không phải mấy chiếc hay mấy lạng một ki lô mà hàng ba bốn ki lô. Vậy mà ngay chiều hôm có phép, Kiều cũng chỉ được hai miếng vừa xúc xích vừa giăm bông chia cho cũng mỏng như hai miếng đậu phụ lưỡi mèo của suất cơm đế quốc. Vì thế còn mấy miếng cơm và cuối cùng Kiều thấy cứ nghẹn ứ lấy cổ.
Bữa nay Tô lại nhường cả suất tôm của mình cho ông cụ Coóng và non bát gáo dừa cơm cho người em họ Sấm. Tô chỉ ăn chỗ cháo thừa của cụ Coóng với suất đậu phụ. Cứ như sức Kiều, Kiều cũng ăn như những thanh niên công nhân. Bởi vậy sắp hết bát cơm, Kiều càng thòm thèm, càng cồn cào trong người. Còn miếng đậu phụ, Kiều phải dúng dúng vào nước rau cho bớt cái mùi tanh tanh và cái vị mặn mặn mà chỉ có thức ăn Sở mật thám, nhà thương và đề lao mới có ấy, để ăn nốt mấy miếng cơm cho ngon miệng và sau đấy hút thuốc lá cho thật thú. Mới bốn giờ rưỡi. Tiếng xào xạc ở các trại án thường lại như ong như ri. Các cửa sắt trại to và xà lim luôn luôn kêu rít lên. Tiếng xóc xách xoang xoảng của những chùm chìa khóa cứ chạy hết trại này đến sân khác, cùng với những tiếng thét, tiếng chửi, tiếng đấm đá ư ứ, bình bịch.
Kiều súc miệng rất kỹ với nước lã hứng bằng tay ở vòi máy nước chứ không dám dùng thứ nước lá vối tươi của nhà bếp. Kiều xếp bát đũa của mình lên trên những bát đũa của anh em để tránh những cái hơi lạ và những giọt nước rửa còn lại ở những bát kia nhỏ xuống rồi lại đi vội ra sân. Còn một nửa que diêm - mỗi que diêm anh em phải chẻ làm đôi - Kiều ghé vào sát gốc bàng đánh lửa châm nửa điếu thuốc lá cuối cùng mà Kiều phải đấu tranh bản thân hết sức ghê gớm mới để dành được đến bữa chiều nay.
Lần này Kiều đi rất thong thả và cố không nghĩ ngợi gì để tận hưởng cái thích thú duy nhất, cái thích thú tuyệt vời là được hút một mẩu thuốc lá quý báu vô cùng một cách lặng lẽ và cách biệt trong nhà tù vào cái buổi chiều chủ nhật làm cháy ruột cháy gan người ta này. Không hiểu lại sắp nổi dông chuyển bão hay sao mà vòm trời cứ ong ong, nắng không ra nắng, râm không ra râm, xám xám như vẩn bụi diêm sinh và sắt gỉ. Và không hiểu khói bên Xi măng, Cốt phát lại dạt cả sang hay sao mà nhiều lúc mây trời đương vần vụ bỗng chìm hẳn đi rất lâu, làm mảng trời trên khu đề lao chỉ còn nhờ nhờ và dưới sân này tối hẳn lại.
Không còn bóng chim chóc nào khác ở trên các mái trại hay trên những cây bàng ngoài những con chim sẻ lách nhách.
Càng thấy cái không khí nặng nề mà mình cứ phải thở hít và các ráng trời u sầu mà mình cứ phải ngước lên trông, Kiều càng cố giữ cho những bước đi thong thả và giữ cho hương vị mẩu thuốc lá tan ngấm rất sâu trong cảm giác. Trong khi ấy, chung quanh Kiều vẫn như không có ai để ý đến Kiều. Một đám gồm mấy tướng cờ đã có tuổi và mấy trai gộc ở Xi măng, Cốt phát, Máy tơ, Máy chỉ - tụi trẻ này đông hơn - lại đánh tiếp ván cờ. Ván này một bên nhất định chỉ có được, còn một bên nhất định sẽ giữ hòa chứ không chịu thua. Không những thế có tay nói cứ để anh chủ động, đừng ai phò tá, góp ý kiến ý cung gì cả, thì anh sẽ đánh thắng. Hai bên đã ầm ầm bàn tính, cãi nhau cả trong bữa ăn, khiến đồng chí trật tự mấy lần phải chạy hẳn đến mà can thiệp. Mấy đám khác lại xúm xít chuyện với nhau. Vẫn các thứ chuyện trên trời dưới biển. Chuyện thôi miên thuật, chuyện chữa bệnh hóc bằng môn chữa hóc gia truyền kiến hiệu như làm phép. Chuyện các bọn tư bản cá mập Mỹ, Anh, Đức; chuyện Nga hoàng; chuyện cách mạng Một ngàn chín trăm linh năm và chính phủ Kêranhxki; chuyện chiến tranh 1914- 1918; chuyện Cách mạng tháng Mười Nga và đồng chí Lênin: Chuyện Vạn lý trường chinh, Quảng Châu công xã, Xô viết Nghệ An, ngục Kông Tum, Côn Đảo. Chuyện tự do luyến ái. Và chuyện nấu nướng các món ăn từ luộc gà, kho cá, làm chả cá mực, chả chó đến làm thịt rắn, thịt khỉ, cày cáo, ba ba và cả chuột nữa... Đầu trò trong các đám chuyện này là Lương phở với một anh nhà báo và mấy anh cựu chính trị phạm ở vùng quê vùng biển Kiến An, Quảng Yên.
Những người không chơi, không chuyện thì học. Một anh cựu chính trị phạm học chữ Nho của anh cháu cụ Coóng để rồi đây phát vãng lên Sơn La hay đi căng sẽ nghiên cứu làm thuốc bắc. Người em họ Sấm, một anh thợ Máy chỉ và hai anh đi lưới dưới làng Đông Khê thì học chữ Quốc ngữ. Bàn học và giấy viết của mấy người này ở một mảnh sân đất cát mịn, còn bút, phấn là những cành bàng, những nõn cỏ và những mẩu gạch non. Những người không chơi cờ, không học, không chuyện thì làm nhẫn bằng mảnh gáo dừa, hay bện dép với những mê chiếu cũ, hay khoét đá làm điếu.
Một anh thợ sắt đương cố mài cho xong cái mẩu thép đai thùng đã gỉ bẻ trộm được sáng hôm thứ sáu khi khiêng nước rửa nhà xí, để làm dao cạo mặt cho anh em. Đồng chí này còn bẻ hai đoạn dây thép phơi ngoài sân, đem đập bẹp, mài làm kéo. Với cái kéo ấy anh tỉa tóc cho anh em, khiến cả bọn gác ngục đều giật mình thấy những tù chính trị hôm ra tòa xử án ai nấy đều đầu tóc chải chuốt như vừa cắt ở một hiệu cắt tóc nào có tiếng vậy. Đồng chí làm dao và thợ cạo kỳ diệu ấy đã khoe với anh em, tài nghệ như anh chưa thấm gì cả! Anh có một ông chú ngày anh còn bé, vẫn cho anh theo đi chăn trâu. Ông chỉ có mảnh chai mà cắt được cả tóc và cạo được cả mặt cho các trẻ trâu, làm những thợ cạo thuộc vào hạng úp nồi úp niêu lên đầu khách phải phát cáu văng tục, khi những đứa trẻ được cắt tóc cạo mặt với mảnh chai nọ cứ diễu ở trước hàng mình.
Trong khi Kiều dành miếng đậu phụ để ăn sau cùng cho ngon miệng hút thuốc lá, thì Tô cũng nhấm nháp miếng đậu phụ lưỡi mèo ấy với suất cháo còn thừa của cụ Coóng. Đến bữa này, Tô lại thấy vừa ngon miệng, trong bụng lại nhẹ nhàng, dù Tô đã cố ăn thêm cả cơm và rau luộc. Rồi trong khi Kiều đi bách bộ, hút thuốc lá một mình, thì Tô đương lần lần ra vòi máy nước rửa cả bát cho cụ Coóng. Rửa xong, Tô không ra ngồi ở gốc bàng mà đến chỗ cụ Vy, cụ Coóng đương khoét đá làm điếu với chiếc đinh xin của anh thợ làm dao. Cả hai ông cụ đều ngẩng lên nhìn Tô men men tường đi đến với mình. Tô run run ngồi xuống cạnh cụ Coóng, cầm lấy cục đá mài nhẵn thín, lỗ để nạp thuốc và cắm xe đều cân nhau vành vạnh.
- Sắp xong rồi hở cụ? Đến tối đã hút thuốc được
chưa ạ?
Cụ Coóng nghiêng mãi tai để nghe Tô. Cụ Vy phải nhắc đi nhắc lại câu Tô hỏi, cụ ghé hẳn miệng vào tai cụ Coóng, nói như hò đò:
- Ày sắp xong rồi lớ! Sắp tược hút thoốc rồi lớ!
Mãi cụ Coóng mới nghe ra. Cụ gật gật cái đầu trọc lơ phơ tóc bạc, cười một cái cười hoan hỉ rất hồn nhiên vừa nói với Tô. Tô còn mân mê mẩu đá, sực nghĩ đến bao nhiêu chuyện ở Hỏa Lò Hà Nội và ở Côn Đảo về thuốc lào và các thứ điếu bằng đá, bằng gạch mài nọ, thì cụ Coóng rút ở cái túi trong gần nách ra một đoạn cành bàng gọt cũng khoằm khoằm như kiểu điếu tẩu của Tây. Ông cụ giơ giơ khoe với Tô rồi cắm vào cái tẩu, mút mút chíp chíp, đoạn thở ra phì phì, vừa lấy đầu ngón tay cái mở mở ấn ấn ở lỗ nạp thuốc!
- Tốt lắm! Hút thôốc tốt lắm! Cái thôồng chí mày chôốc nỡ hút với tôi một tiếu lớ!
Tô cười khanh khách, gật gật đầu. Cụ Vy cũng giơ điếu của mình lên:
- Vậy thì tôi cũng phải cố xong để tối nay hàng trại khánh thành mới được. Lễ khánh thành này chắc vui bằng mấy lễ khánh thành cầu Xi măng ngày thằng Bảo Đại ra Hải Phòng xem hội chợ...
Nghe cụ Vy nhẩn nha nói, Tô không những cười to thêm mà còn cười ngất, và choàng lấy vai ông cụ như thói quen của Tô khi đặc biệt vui thú khoái trá:
- Thế thì kỳ phép này nếu gửi giấu được thuốc lá thuốc lào thì con sẽ đề nghị với anh em chia thêm mỗi cụ một suất nữa, công hai cụ làm điếu.
Cụ Vy xua xua tay:
- Ấy ấy... anh em đừng có lại tư hữu cho chúng tôi như thế nữa! Chúng tôi đã không có phép tắc gì cả mà lại còn...
Tô lay lay vai ông cụ, cười xòa để ngắt lời. Nghe Tô cười, nhìn sắc mặt Tô và nắm lấy cánh tay của Tô đã cứng cáp, nóng ấm, cụ Vy tự nhủ:
- Thế là anh Ba gày anh ấy không thể chết được rồi! - Và ông cụ lại bồn chồn trong dạ: - Làm sao có thêm thuốc men tẩm bổ cho anh ấy, và có thức ăn thức uống để anh ấy ăn giả bữa bây giờ?
Bất giác cụ Vy đưa mắt nhìn Kiều đương dẫn từng bước, mặt mày không ra suy nghĩ, không ra lạnh nhạt, và cũng không ra buồn bực.
- Cái thứ chính trị như ông này không hiểu đã hoạt động những việc gì mà đế quốc cũng bắt chật thêm cả cho đề lao! Mà cũng lạ! Đến như anh Tô anh ấy có vẻ muốn gần cận mấy lần định chuyện trò với anh chàng, không hiểu làm sao anh chàng cứ tránh tránh lẩn lẩn?!
Cụ Vy lại nhớ ngày nào Kiều còn thường trực ở nhà báo, thường đưa sách báo sang bên Xi măng. Hễ ở đâu ông cụ thấy có tiếng người nói choang choang, giọng nói rất đanh thép, khi thì bàn về tình hình thế giới, khi thì lý giải tại sao cách mạng Pháp thua, Cách mạng Nga thắng, khi thì bài bác các đạo, các thuyết từ của phật Thích ca, chúa Giêsu đến Khổng Tử, khi thì tán rộng các chuyện Đông chu liệt quốc, Tam quốc và cổ, kim, đông, tây, thì y như rằng người đó là Kiều. Cái trán của Kiều thót nhưng cao và bóng. Cái mắt của Kiều nhỏ nhưng sắc. Cái cằm của Kiều hơi lẹm, cái miệng chum chúm, khi Kiều nói hàm răng cứ sin sít như có thể nhai nghiến những người tranh cãi với Kiều. Năm xưa, Kiều chỉ đến nhà cụ Vy hai lần chuyện với bác Vy mà nhà cửa ồn ào nhộn nhịp hẳn lên. Bọn thanh niên nhà máy và trong xóm cứ ngẩn người ra nghe Kiều nói rồi tranh nhau hỏi chuyện Kiều. Có anh em khoe với cụ Vy rằng Kiều bận rộn vất vả còn hơn cả mấy đồng chí chính trị phạm chủ chốt ở nhà báo. Hết lần ấy đến lần khác Kiều đã bị Sở mật thám Hải Phòng, Hải Dương và tòa xứ tỉnh nhà dụ dỗ dọa nạt, không những Kiều không nao núng mà còn xạc lại bọn chúng. Họ tấm tắc: "Phong trào mới có khác! Những tay ăn học hoạt động có khác! Kiều phải là vai quan trọng lắm của Hải Phòng, nên anh em mới cử ra để hoạt động công khai, kình lại cả mật thám, công sứ, đốc lý: cả đế quốc!".
Nhưng cuối năm kia lúc bác Vy sắp trốn ra ngoài mỏ than Uông Bí lại dặn cụ phải cẩn thận, sau đó cụ Vy thấy những anh chị em chung quanh cụ hoạt động trước kia kẻ thì bị bắt, kẻ thì bị tù, mà Kiều không việc gì cả. Tháng trước đây Kiều bỗng lò mò đến hỏi thăm cụ, ra cái ý muốn giúp đỡ gia đình cụ, thì cụ Vy nghi ngại quá. Rồi từ hôm cụ bị bắt, cụ gặp cả Kiều ở Sở mật thám nhưng không thấy Kiều bị đánh bị tra gì cả, và sang đề lao đây Kiều sống xa cách hẳn anh em, thì cụ Vy không những nghi ngờ Kiều mà còn thấy khinh, thấy sợ Kiều nữa!
- Lạ thật cái người thật là quan trọng, vào tù ra tội đã ốm lao, bị tra tấn cùm kẹp chỉ còn chờ chết, thì trông người vẫn tinh thần và cứ mỗi ngày một tươi tỉnh phấn chấn hơn. Còn cái người vô bệnh vô tật, chẳng bị qua một đầu thước, một ngọn roi, đá gà đá vịt thời kỳ công khai, án tích có nặng lắm cũng chỉ đến tù năm sáu tháng một năm là cùng, thì người càng ngày càng tã tượi thê thảm, lắm lúc trông cứ như thằng thua bạc, thằng nghiện thuốc phiện nhớ bữa ấy!
Cụ Vy gườm gườm mắt nhìn Kiều đi qua mặt mình. Bàn tay ông cụ vẫn nắm lấy bàn tay Tô. Chợt ông cụ luồn tay vào cái túi áo ngực, móc ra một gói chằng dây gai, lập cập giở ra:
- À... à... tôi có cái này để dành cho anh Ba đây!
Tô nhìn cục đường phèn bằng đầu ngón tay út ở phần đường chia cho ông cụ từ hôm có phép và là phép của Kiều.
- Chết! Chết! Sao ông lại để dành cho con? Ông phải ăn đi chứ!
- Việc gì mà chết chết!... Vốn tôi không mặn với cái giống của ngọt này mà chỉ thích những cái gì là của cay của đắng thôi! Cái phần thuốc lào và ớt của anh Ba cho tôi, tôi còn quý hơn cả nem công chả phượng, hơn cả sâm nhung quế phụ. Phần đường của tôi, anh Ba ho nhiều cứ lấy mà ngậm.
Kiều loáng đưa mắt nhìn cục đường, Kiều đi chậm hẳn lại để nghe. Tô cầm cục đường gói gói lại:
- Vâng thì con xin ông, để tối nay trước khi đi ngủ và tối mai con ngậm với thuốc ho.
Tô thấy những ánh mắt vui sướng và trìu mến của cụ Vy mà nức nở cả tâm trí. Tô lại nghĩ đến việc Xứ ủy điều động Tô về Hải Phòng và Thành ủy Hải Phòng đã bố trí nhà cụ Vy để Tô đến ở gia đình cụ, nhận Tô là cháu họ của ông cụ ở trên Hà Nội xuống làm thợ đóng sách và thợ điện. Biết đâu, nếu Tô đương ở với ông cụ và nhà ông cụ cũng như cả khu làng Chiêu Thương không bị cháy, cơ quan ấn dự bị của Thành ủy chọn lại đóng ở nhà ông cụ chứ không ở nhà Sấm, thì có thể cả bọn Tô không bị bắt cũng nên! Tô lại thấy xót xa và như nung như nấu trong người. Tô lại càng nao nức nghĩ đến cảnh nhà bác Vy.
Nhưng thật lạ lùng, từ khi ông cụ bị bắt giam ở Sở mật thám rồi giải sang đề lao, cụ bị chúng nó hàng chục lần tra hỏi chỉ có mỗi việc "thằng Vy đi đâu, hiện nay làm gì" thì ông cụ không những không tăng bệnh mà còn tỉnh táo hẳn lên. Hai tuần nay, ông cụ vừa ăn được, ngủ được, chuyện trò với anh em lại còn nhiều hơn cả ngày ông cụ chưa đâm quẫn trí. Trong những lúc Tô thủ thỉ với ông cụ, ông cụ đã hỏi Tô nhiều câu về tình hình chiến tranh, về cả triển vọng của phong trào cách mạng. Tô đã bí mật viết thư cho bác Vy biết sự chuyển biến này của ông cụ. Bác Vy cũng bí mật gửi thư cho Tô, nói với Tô rằng: "Trong đời tôi chưa bao giờ tôi lại cảm kích, sung sướng như khi được cái tin ấy của ông tôi"...
- Không phải chỉ có Vy thấy cha như vậy mà cảm kích sung sướng và suy nghĩ nhiều! Cả ta nữa! Cả nhiều đồng chí khác nữa!...
Tô nhìn cặp mắt quắc thước lấp lánh của cụ Vy, siết siết mân mê những mấu chai tay và những ngón tay chẫm mẫm của ông cụ.
Tiếng chùm chìa khóa của lão xubadăng râu vểnh gác phiên hôm nay đã xóc xách leẻng xeẻng đến gần cửa. Rồi then sắt kin kín rút ra, cái bộ mặt như chuột như dơi của lão gác ló vào, giọng hắn thều thào kín kín hở hở nói với đồng chí trật tự:
- Anh em vào trại thôi! Hôm nay tôi để anh em ở ngoài chơi thêm những hơn hai mươi phút đấy! Gác điêng xếp biết thế nào cũng lại xạc tôi!
Vừa lúc nổi gió. Gió sầm sập, đùng đùng, xoáy lốc. Những ngọn cây bàng bỗng như bị tuốt ngược, quật đi vằng lại tơi bời dồn dập. Những lớp dây điện trên bờ tường kêu u u. Bụi không biết từ đâu đổ xuống sân mù mịt. Những tiếng kêu, tiếng gọi, tiếng hét, tiếng chửi thất thanh ở các sân các trại...
Tô đứng dậy loạng choạng. Mặt mày Tô sa sầm, người lạnh toát. Tô vịn ngay vào vai cụ Vy. Thấy Tô mặt mày tái mét người run run, liêu xiêu, cụ Vy liền ôm hẳn lấy lưng Tô, giục:
- Anh em đi trước rảo bước một tí nào! Gió thế này, không khéo anh Ba bị cảm mất!
Tai Tô ù ù. Tô bíu chặt lấy cánh tay ông cụ Vy và một đồng chí thợ trẻ.
*
Mặc dầu tất cả cửa sổ đã cao tít, nhỏ hẹp lại còn bưng lưới sắt và ghép ván gỗ rất sít đến ánh sáng mặt trời lọt vào cũng khó, vậy mà trong trại cứ lộng gió ù ù. Ngọn đèn tù mù ở dưới nóc trại nhiều lúc như sắp bị gió đập vỡ mất hay bị giựt tung ra. Không khí lạnh ngắt. Bên ngoài vòm trời đen kịt, lúc bắt đầu mưa thì như một biển sâu gào thét.
Cả điếu của cụ Vy và cụ Coóng đều làm xong rất tốt. Anh em phải hút lần lượt và chia làm hai đám. Một đám xúm xít chung quanh cụ Vy; một đám chung quanh cụ Coóng. Ai ai cũng nhăm nhăm mồi thuốc và chỉ chực cầm lấy cái đóm bằng cành bàng chẻ ra phơi đốt cứ cháy vèo vèo. Nhiều người đã không cho ai mó vào cái điếu đến lượt mình được hút, lại quay hẳn ra một chỗ, ngồi tựa vào tường rồi hút, tưởng chừng không những nuốt cả khói mà còn như nuốt cả cái điếu vào bụng nữa. Có người hút xong rồi vẫn cứ lảo đảo run run giữ lấy điếu đóm không chịu đưa cho người khác. Một cuộc mặc cả với đủ các giọng kèo nhèo, thiết tha, bẳn gắt, dằn dỗi để vay mượn nhau thuốc lào. Nhiều người đuổi nhau, giằng giật, vật nhau huỳnh huỵch, quá như bắt phu bắt lính, trốn công trốn nợ. Có người vấp cùm ngã lộn xuống nền xi măng. Có người chạy đến cả chỗ Tô nằm, cố dúi dúi giấu giấu gói thuốc nhờ Tô giữ.
Trong cái không khí ran ran tiếng cười tiếng reo nọ, Kiều đương nằm thượt giữa cái chiếu ở một khoảng sàn rộng cũng phải nhỏm dậy cười. Rồi Kiều cũng đến chỗ hút thuốc. Kiều toan vay một điếu thuốc mà Kiều chắc chắn thế nào cũng được nhưng lại thôi. Rồi khi đã nhất định không thèm vay mượn gì cả, Kiều lùi lùi ra khỏi đám đông cố giữ cái nụ cười mà chợt Kiều thấy ngượng ngùng lạc lõng thế nào ấy, đoạn lại về chỗ nằm.
Chỉ vừa nằm im giây phút, Kiều lại càng thấy không thể nào chịu đựng được hơn nữa sự bứt rứt, rời rã trong người.
- Sao ta vẫn chưa được tha thế này? Mà sao lại cũng không thấy trên Sở mật thám chúng nó gọi ta lên nữa? Vẫn biết giấy tha là dự thẩm ký, nhưng cốt tử vẫn là chúng nó. Cụ thể là ở thằng chánh Côlanh hay thằng phó Môê vậy. Thằng Côlanh dạo trước đối với ta còn có vẻ hắc chứ dạo này thì gần như chẳng có chuyện gì với nhau nữa mà!... (Kiều cố không nghĩ đến và không thấy cái vẻ mặt mục hạ vô nhân của Côlanh, nhất là cái nhìn Kiều một cách rất khinh bỉ những lần gần đây khi Kiều lên cầu thang gác hay Kiều ngồi ở ghế chờ trước buồng giấy Môê, Kiều chào Côlanh khi Côlanh đi qua)... Còn thằng Môê, thằng này đối với ta (Kiều nóng hẳn mặt lên) vẫn tỏ ra là một đứa biết điều. Phải! Ta đã nói với chúng nó ta không còn một liên lạc và cũng không hoạt động gì nữa cơ mà! Còn tất cả những công việc từ trước của ta...
Ôi chao! (Kiều như sắp nấc, sắp khóc), tất cả những công việc của ta cũng như lý lịch của ta kia, chẳng cần phải hỏi kỹ ta thì Sở mật thám cũng đã có hàng tập báo cáo của những thằng Nghênh, thằng Phệ, thằng Lắp, và của cả những kẻ có liên lạc hoạt động với ta khai tự bao giở bao giờ ấy rồi! Và khốn nạn! Từ một thằng học sinh nhà quê con một lão lang và một con mẹ dệt cửi, bán thuốc viên ở chợ, thôi học ra tỉnh làm cái tên thư ký bến Sáu Kho rồi làm cái thằng đầu sai công khai của nhà báo, chuyên đi nói khan nói vã mời người ta mua sách mua báo, ăn mày tiền ủng hộ này, tiền ủng hộ kia, và nhặt nhạnh các tin tức nơi này đình công, nơi khác biểu tình, nơi kia chống thuế. Tất cả lý lịch gia đình, sự sống và những hoạt động của ta đều rõ hơn cả ban ngày ấy mà! Nhưng mà, chao ôi! Chao ôi! Thật là rồ dại! Thật là rồ dại! Mấy cái năm đã phí công phí sức kia! Ha ha! Phong trào với đấu tranh, đấu tranh với phong trào, rút cục đổ tan hoang mù mịt đen tối như cảnh này đây. Cũng may mà ta không dính dáng với Tổ chức tổ chiếc bí mật bí mẽo gì, không thì chuyến này còn thật là khốn nạn, còn thật là khốn nạn!
Tuy nghĩ thế nhưng trong tâm trí Kiều vẫn còn hờn cái dạo Kiều đã không được "tổ chức" và được chỉ định ra ứng cử hội viên thành phố Hải Phòng, trong khi đó cũng một anh nhà giáo dạy trường tư, hoạt động có vẻ không bằng Kiều, thì lại được đưa ra tuyên truyền cổ động mà từ trước tới đó chưa một ai ra tranh cử với người của bọn thống trị lại được quần chúng biết tiếng và tín nhiệm đến thế. Cái hờn nữa là Kiều không được giới thiệu với các cơ sở quan trọng và cũng không được "sinh hoạt" như một số người mà Kiều đã chú ý theo dõi, họ đã làm Kiều nhiều lúc ngờ ngợ thấy có một số việc đặc biệt họ đã được tham dự, còn Kiều lại phải đứng ngoài rìa, thậm chí lại còn bị đánh lạc hướng!
Ruột gan Kiều lại như cháy như bỏng. Kiều thở hưng hức:
- Rất có thể cái người đã bí mật quyết định mọi việc của ta từ khi thằng Chấn về quản thúc ở Nam Định là cái thằng Tô, - cái thằng gày như cái mõ, mắt kèm nhèm, cái mặt gẫy gẫy cau cau, mà ta chỉ được nghe láng máng nói đến với cái bí danh rất xoàng thằng Ba, thằng Gày kia! Rất có thể! Rất có thể nó là Xứ ủy, là Thành ủy, thành tích đấu tranh cách mạng còn nhiều gấp mấy thằng Chấn, giữ vai trò quan trọng cũng gấp mấy thằng Chấn, có lần ta đã gặp, gặp ngay trong cuộc hội họp ở bên Xi măng, Máy chỉ hay ở nhà một cơ sở mà ta không ngờ, không biết đấy thôi!
Thấy tâm trí mình quặn lên nhất là nghĩ đến Tô cái người mà Kiều không dám chút coi thường, trái lại, chỉ càng thấy tủi nhục cho mình vô cùng, buồn thảm cho mình vô cùng, Kiều vội lắc đầu, mím mím môi, đưa mắt nhìn thoáng ra chỗ Tô và anh em đương xúm xít chuyện trò, rồi Kiều đưa bàn tay lên day day trán, úp lấy mặt!
- Nhưng mà ta nghĩ ngợi miên man làm gì mãi! Việc trước mắt là cần phải hiểu xem tại sao lần này ta bị gọi đến Sở mật thám, rồi cũng chuyển sang đề lao tưởng chỉ một vài tuần như lần trước, vậy mà đã một tháng hai mươi ba ngày rồi. Tại sao lại như thế?!
Thế là Kiều lại cuồng lên. Kiều thấy hay là thằng Côlanh chơi khăm, bảo dự thẩm bỏ quên Kiều vài tháng ở đề lao, chờ thêm mấy vụ bắt nữa để moi Kiều xem có được cái gì đặc biệt không? Hoặc quái ác hơn nữa, nó để tòa án xử Kiều sáu tháng, một năm, hai năm, Kiều phải lên Hà Nội và cũng đi Sơn La rồi moi Kiều một thể. Kiều rùng mình:
- Thế thì ta chết mất! Giờ mà ta phải như thế thì chết mất!
Nửa năm nay đời sống của Kiều gần như đổi khác hẳn. Kiều dạy cho vợ con Đờvanhxy học tiếng Việt Nam mỗi tuần lễ chỉ có bốn giờ vào hai ngày thứ ba và thứ năm. Cũng hàng tuần, Kiều chỉ phải đi nhặt mấy cái tin viết cho tờ Thời sự Hải Phòng.
Dạy học tuy tính giờ nhưng ít nhất Kiều cũng được ba mươi đồng một tháng. Có buổi chỉ mình con gái Đờvanhxy học, nó vừa học vừa chơi hơn một tiếng, Kiều cũng tính hai giờ, mỗi giờ hai đồng. Còn bài báo, tin nào phải viết dài lắm chỉ đến ba trăm chữ. Có trưa, ngủ xong dậy vừa uống nước cam vừa ăn lê táo, Kiều lia độ mười lăm phút là xong tin, được mèng nhất cũng ba bốn đồng. Hàng tháng như thế Kiều kiếm được hơn năm mươi đồng, bằng ba tháng trước kia Kiều phải nói xa xả năm buổi chiều từ thứ hai đến thứ sáu cho vợ chồng thằng Tây đoan Sáu Kho và làm những tin còm ở báo Đông Pháp.
Mấy tháng nay vì tình hình chiến tranh chuyển biến, tuy vợ con Đờvanhxy đi vào Đà Lạt, nhưng Kiều lại có cái "bổng" khác! Ấy là những món mười đồng, hai mươi đồng, ba mươi đồng của các nhà buôn, chủ thầu đại lý, các hãng các công ty nhờ viết và đưa những tin tức, những quảng cáo của họ lên báo. Kiếm được như thế Kiều lại không phải gửi tiền về làng cho bố nữa. Từ năm ngoái, người vợ nhà quê của Kiều nuôi lợn nái trúng lợn nái, buôn tơ trúng tơ, đong đỗ trúng đỗ, một mình cáng đáng mọi sự ăn uống và giỗ Tết trong nhà, mẹ Kiều đi chợ chỉ việc để thêm tiền gửi ra cho thằng em Kiều đi học trường Thành chung ngoài Hải Phòng. Đã thế người em trai Kiều mấy tháng nay lại không lấy tiền của Kiều. Y nhận giấy tờ của một hiệu buôn người Hoa kiều về nhà dịch ra tiếng Pháp kiếm mỗi tháng cũng được mười lăm, hai mươi đồng. Trong khi ấy cô ả Gái đen vừa kễnh vốn vừa tháo vát kia lại lăn vào với Kiều...
Những buổi chiều thứ bảy và chiều chủ nhật tháng trước đây Kiều và Gái đen hễ không lên Hà Nội thì lại ra Đồ Sơn. Gái đen theo hàng lên Hà Nội, Kiều và Gái đen cùng ngồi ca bin với tài xế, lúc về lại có sẵn vé ô tô ray. Ra Đồ Sơn lại còn thoải mái hơn. Toàn ngồi xe ca chuyên chở Tây đầm. Nhiều khi còn thuê hẳn một chuyến xe sang gần bằng loại xe của Đờvanhxy hay của nhà Thy San để đưa hàng đón hàng mà chỉ có hai người đi. Nếu như Gái đen biết nhảy thì nhất định cả tối thứ bảy, tối chủ nhật hai người sẽ chỉ ăn uống qua quýt buổi chiều ở khách sạn, ở cao lâu rồi cũng đi nhảy cho tới khuya về ăn ngủ ở những ôten to cho đã...
Kiều ấp cả hai cánh tay lên mắt như để bịt lấy và day cho tan đi những hình ảnh nhoi nhói và ngùn ngụt trên kia. Hai bắp đùi của Kiều càng nhũn ra, mỏi nhức ghê gớm. Trong người Kiều, trong tâm trí Kiều càng cồn cào, bứt rứt. Vẫn cái cồn cào bứt rứt Kiều thấy không thể nào chịu hơn được nữa!
Mưa gió càng như dạo thêm sức cho một trận bão lụt lội đêm nay hay sáng mai sẽ tràn đến. Trại giam như một cái thùng khổng lồ vang động. Những tiếng ầm ầm, gào xé, hết đợt này đến đợt khác đập vào các lớp cửa trên tường cao, càng về sau càng dữ dội. Bụi nước bay mờ mờ vào cả trong trại. Anh em lại bọn nào vào bọn ấy đánh cờ đánh bài, chuyện chính trị, chuyện cổ kim, chuyện yêu đương, học chữ, tập viết và cả học hát nữa.
Tô mặc thêm cái áo dệt sợi bông cổ chui và cái áo xanh thợ. Cái quần Tô gấp nhỏ, quấn làm khăn. Tô chỉ nằm một lúc, thấy trong người dễ chịu liền ngồi dậy. Tô nhìn anh em, trở lại những công việc dự định lúc ban chiều Tô đã bàn tính chớp nhoáng với Lương và Sấm ở ngoài sân khi rửa bát. Bức thư thứ hai đồng thời cũng là nghị quyết của Thành ủy gửi vào cho Tô tuần trước, Tô đã đem bàn kỹ với Lương và Sấm rồi. Căn cứ vào tinh thần anh em công nhân và thanh niên bị bắt, và lực lượng trung kiên của trại, có thể tổ chức lớp huấn luyện cho anh em và cả chị em bên trại xà lim phụ nữ về đường lối và công tác cách mạng ở Đông Dương. Nếu như Tô còn yếu quá thì Tô sẽ chỉ trình bày phần nhận định tình hình thế giới và trong nước. Như thế Lương sẽ phân tích tương quan các lực lượng giai cấp để rồi Tô sẽ nói về đường lối cách mạng. Tuần thứ nhất và tuần thứ hai có thể làm xong ba phần trên đây. Tuần thứ ba thì sang phần công tác. Phần nào, mục nào, công việc nào làm được công khai và tập trung được anh em thì cứ làm. Phần nào, mục nào, công việc nào phải làm bí mật thì Lương, Sấm và Tô chia nhau phụ trách từng anh em.
Cùng với Kiều có hai người nữa tổ chức đặt vấn đề phải theo dõi. Ngoài ra còn ba quần chúng cơ sở và một thanh niên có cảm tình Đảng bị đánh, đã khai nhưng không làm thiệt hại quá đáng. Bảy người này cứ để cho nghe những buổi Tô và Lương nói công khai. Điều quan trọng là Tô và Lương phải hết sức cân nhắc các mục nói cho tất cả mọi người nghe. Như thế phải tuyệt đối không được để lộ những anh em "nhân", những anh em tốt còn giữ được "bem" với mật thám, và những anh em án nhẹ rồi đây Tô sẽ giới thiệu để Thành ủy chắp lại mối, giao công tác cho anh em khi được tha.
Tô vừa thì thầm suy tính, vừa nghe những tiếng mưa gió. Ngậm cục đường phèn của cụ Vy cho, Tô càng thấy trong người tỉnh táo trước cái nhộn nhịp vui một cách lạ của chung quanh. Từ đám đánh cờ đến đám tán chuyện đều sôi nổi, ầm ĩ còn hơn cả ở ngoài sân. Nhưng rồi cả mấy đám họ cùng quay ra với đám học hát. Hơn hai chục anh em ngồi làm hai hàng trên hai dãy cùm hai bên sàn. Chân họ bỏ thõng đung đưa, tay vỗ vào nhau, hát theo một anh thanh niên học sinh có giọng tốt nhất và thuộc nhiều bài hát nhất, kể cả những bài hát cũ mà Tô và Lương ở ngoài Côn Lôn đã được nghe, được tập nhưng đến nay mới chắc rằng mình được nghe và dạy đúng. Riêng Tô, nhiều phút Tô đã phải ngừng hẳn sự suy nghĩ để nghe cái giọng trầm trầm rì rầm như sóng khơi xa của anh cất lên ở một góc sàn, hát khẽ bài Quốc tế ca hay Mặt trận đỏ cho mấy anh em thợ Xi măng, Máy tơ, Máy chỉ nghe buổi trưa lúc nhiều người đã ngủ mệt.
... Cùng nhau đi hồng binh
Đồng tâm ta đều bước
Đừng cho quân thù thoát
Ta quyết chí hy sinh.
Anh học sinh đứng hẳn lên thành cùm, hai tay bắt nhịp, xướng lên từng câu cho anh em hát theo:
... Nào anh em nghèo đâu
Liều thân cho đời sướng
Lên thế giới đại đồng
Tiến lên quân hồng...
Những anh em say cờ say chuyện và cả những anh em cắm cúi từ chập tối học chữ, học viết cũng nhập vào nốt đám hát. Tất cả cùng ngồi xuống thành cùm, cùng đung đưa chân, vỗ tay rần rật:
Tiến lên quân hồng... tiến lên quân hồng...
Đột nhiên có mấy người nhảy xuống đất, khoác lấy cánh tay người bên cạnh, tự động đi thành hàng ba và hát lại từ đầu. Ba hàng sáu người nọ vừa bước được mấy bước thì có những tiếng thét lên:
- Anh em ơi! Xuống đường tất cả đi hồng binh thôi!...
Trong số những người nhảy xuống đất khoác cánh tay anh em, bước tiếp vào những hàng hồng binh đầu tiên kia, có cả cháu ông cụ Coóng. Tiếng bước chân, tiếng hát và nhịp vỗ tay giậm chân chuyển ra đến cửa trại. Chợt cả cụ Vy và cụ Coóng choàng người lên. Ba anh thanh niên ở đâu đến, một anh khoác lấy cánh tay ông cụ đi lưới dưới làng Đông Khê, hai anh khoác lấy cánh tay cụ Vy và cụ Coóng.
- Bố ơi! Bố đi hồng binh với chúng con thôi! Nào anh em nghèo đâu. Liều thân cho đời sướng...
Ba hàng sau cùng này chỉ chập choạng một lúc rồi cũng răm rắp như những hàng trên. Ông cụ đi lưới quấn quấn khăn bông vào cổ xong thì vỗ tay ngay. Cụ Vy, cụ Coóng cất điếu xong cũng thế. Cụ Coóng cười hà hà, nói mấy câu tiếng Tàu như là văng tục, như là chửi yêu. Cả ba cụ đều cười, vừa bập bà bập bõm câu được câu chăng, hát theo:
...Lên thế giới đại đồng
Tiến lên quân hồng
Tiến lên quân hồng...
Đến câu chót, không những cụ Vy và cụ đi lưới chỉ vỗ tay, giậm chân cho khớp với anh em mà còn cố hát lên, cũng thật to, rần rật, mỗi nhịp lại cao hơn.
Phải! Trong ngực Tô lại nghẹn nghẹn và tâm trí Tô lại nhức nhói. Nhưng Tô càng thấy khỏe khoắn tỉnh táo hơn, khỏe khoắn tỉnh táo vô cùng. Tô ngồi dậy nhưng hai tay vẫn khoanh trước ngực, càng lặng người đi. Tô lại nghĩ đến mấy điểm căn bản về điều kiện chủ quan, khách quan để bùng nổ cách mạng mà Tô và Lương sẽ phân tích rất kỹ cho từng anh em ở Tổ chức và anh em "nhân" trong lớp huấn luyện sắp tới. Đó là đưa đông đảo quần chúng xuống đường, giằng lấy võ khí trong tay quân thù mà cướp lấy chính quyền, lật đổ tan tành cái chế độ ngục tù này đi.
Khi mà quân thù hoang mang đến cực điểm.
Lúc này đây với tình hình đế quốc Pháp và bọn thống trị ở Đông Dương có thật, có đúng như thế không? Gần một tháng ở Sở mật thám và hơn một tháng ở đề lao, Tô càng thấy rõ sự cuống cuồng của bọn chúng. Ngoài những việc bắt người tra tấn dã man rồi xử tù rất nặng, chúng lại còn đưa người đi tập trung nữa. Những trại giam vô thời hạn, giam không cần tòa án xét xử đã lập rồi ở cả Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Tin nhắn vào gần đây, vợ Sấm đã bị đưa lên trại giam Bắc Mê trên Hà Giang rồi, mà Hà Giang là một trong bốn tỉnh đường ngược thuộc đạo quan binh cai trị, nước độc còn hơn cả Lai Châu, trước đây chỉ chuyên để phát vãng những tù án thường khổ sai và nặng năm thôi. Vợ Sấm khi còn ở Sở mật thám đã phát mê phát sốt, bỏ cả ăn uống, nhiều lúc ỉa đái ra cả chỗ nằm mà không biết, sang đề lao vài hôm thì sẩy thai. Cái thai được hơn năm tháng ấy là con trai. Nghe những chị em cùng giam bên trại xà lim nói thì thằng bé khá to, mặt mày kháu khỉnh lắm. Mặc dù vợ Sấm băng rất nhiều huyết, sốt nặng, bọn gác ngục cũng không cho chị sang nhà thương chỉ cách đề lao có một cái tường và đi đằng cửa chính chỉ độ một trăm thước. Cả thằng bé lên ba đã ở hết Sở mật thám lại sang đề lao ở với mẹ cũng ốm. Nó đi kiết lị. Trước ngày xử án Tô, Sấm và người em họ Sấm, chúng nó tha vợ con Sấm. Nhưng tha để vợ Sấm đem con về nhà, cho chúng nó tiện việc đưa mẹ lên trại giam!
Đến vợ Sấm chúng nó cũng đưa đi như thế, không hiểu rồi đây cụ Vy và cụ Coóng sẽ bị xử án hay cũng lên trại giam. Cụ Vy thì vì chúng nó muốn tìm bác Vy nhưng không thấy nên cụ bị bắt. Chứ cụ Coóng chỉ vì ở cạnh nhà cụ Vy và cụ Coóng có người cháu gọi bằng bác làm thợ ngoài Hòn Gai bị khám nhà, bắt được mấy cuốn sách về duy tâm và duy vật, về kháng Nhật, ngày trước bày ê hề ở các hiệu sách phố Khách. Anh này bồ côi cả cha mẹ, lúc mật thám hỏi ai người thân thích gần gũi nhất, anh khai có ông cụ Coóng là bác ruột, người nuôi anh từ thuở nhỏ, vậy mà ông cụ cũng bị bắt theo. Cụ Coóng năm nay không những bảy mươi nhăm, bảy mươi sáu tuổi, mắt lại gần lòa, chân lại bị đơn, đầu gối ống chân và bàn chân nặng sũng ra. Đến suất cháo ông cụ cũng không ăn hết, và cái đầu tôm mặn cũng không dám ăn cả, tuy ngày trước cơm xong cụ tráng miệng cũng hết nửa phạng cháo và con cá hồng hàng ba bốn lạng phơi khô rán mặn. Chính thằng gác điêng xếp đề lao đã văng tục bằng tiếng ta, và xà lù, meẹc ầm lên, chửi bọn mật thám, hôm gần đây cụ Coóng bị ngất đi nó phải cho người khiêng ra phe mì tiêm thuốc, gọi têlêphôn báo tin cho Sở mật thám về bệnh trạng của cái "lão già quan trọng hoạt động cho cộng sản Tàu trên đất Đông Dương ấy!"
Tô lắc lắc đầu, chuyển sang ý nghĩ khác. Tô lại cân nhắc một điều kiện nữa để bùng nổ cách mạng. "Khi quần chúng nô nức quyết tâm xuống đường, đổ máu chiến đấu để cướp lấy chính quyền!" Phải! Điều kiện này hiện nay chưa có nhưng rồi sẽ có. Đảng Cộng sản Đông Dương, những cán bộ, những đảng viên của Đảng lãnh đạo cách mạng, sẽ tạo ra điều kiện đó bằng tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh. Được tập dượt thử thách, lớn mạnh qua các cuộc đấu tranh từ thấp đến cao, quần chúng do giai cấp vô sản và Đảng của nó lãnh đạo nhất định sẽ kiên quyết hy sinh nổi dậy làm võ trang cách mạng.
Mồ hôi trán Tô vã ra. Gió lạnh hun hút như thổi còi xuống góc tường chỗ Tô ngồi. Tiếng hát, bước chân, nhịp tay càng bùng bùng rần rật sầm sập. Tiếng mưa gió giội xuống mái trại và những bức tường lớp lớp cửa sắt khóa chặt, càng bị át đi. Làn lửa và sức mạnh đặc biệt tràn vào người Tô cuồn cuộn thêm.
*
Những buổi Tô nói, Kiều còn nghe buổi đực buổi cái. Nhưng đến những buổi nói của Lương - cái thằng Lương đánh xe ngựa và bán cả phở kia, vào tù ra đến Côn Lôn mới học đọc viết thông quốc ngữ, người tính nết có vẻ tàng tàng, những lần đến nhà báo chạm trán với các khách từ những thanh niên học sinh đến những công chức chẳng có ai để ý cả - thì Kiều chỉ nằm, cố ngủ lại. Cùng với Kiều có một gã nữa hoàn toàn không dự buổi nào của Lương. Gã này làm thư ký nhà máy nước, em họ chủ hiệu may Cần lao, bị bắt cũng vì "có những hành động làm rối cuộc trị an". Thật ra gã chỉ ba hoa mấy câu về chiến tranh, rồi bị bọn mật thám trù vì không lo lót thết đãi tốt chúng nó khi chúng nó cùng gã đi hát cô đầu. Vừa vào trại, gã ta liền kêu buốt óc, kêu đau ngực. Rồi có lúc lại kêu vừa ho khạc ra máu, vừa sốt âm âm buổi chiều. Trật tự trại xếp chỗ nằm ở giữa trại với mấy anh thợ Xi măng, Máy tơ, Máy chỉ nhưng gã nhất định cắp chiếu nằm ở cuối trại bên cụ Coóng. Thế rồi khi nào cứu tế đem được nước sôi pha chè hay hâm cháo cho cụ Coóng, gã nhổm ngay dậy chìa bát xin và cứ để cụ Coóng sẻ cho mà uống trước, ăn trước.
Cụ Vy và cụ đi lưới cũng dự lớp. Cả anh cháu cụ Coóng nữa. Có ba người này nghe nên cả Tô và Lương càng phải nghĩ, phải tìm cách trình bày các vấn đề sao cho hợp. Anh cháu cụ Coóng chỉ nghe được những câu tiếng ta rất dễ và nói chậm. Còn hai ông cụ thì cười xòa đại khái bảo: "Thôi chúng tôi cứ là xin theo với anh em chứ chúng tôi thật là nghe trước quên sau, chỉ học với ông sáu tấm là thuộc là chắc nhất!".
Tất cả chương trình huấn luyện, chị em bên xà lim trại tù đàn bà đều tham dự hết. Buổi sáng, buổi chiều, Tô và Lương nói xong thì đến trưa đến tối viết thành bài đưa sang cho chị em. Dạo này phép càng bị khám ngặt. Cả khúc cá kho cũng bị dầm nát ra. Quả chuối nào cũng bị bẻ đôi. Không phải để tìm thuốc lào thuốc lá như phép của tù án thường, mà để xem bên ngoài có gửi tài liệu, giấy tờ tin tức gì không. Một mẻo giấy dính vào xôi hay phong bánh khảo đã nhờn bột đậu mỡ cũng bị bóc ra, không cho đem vào trại. Còn những thứ của gia đình gửi dây thép, không ai nhận được bức nào. Bọn xubadăng ta cũng rất nghiệt khi đưa giấu thư từ quà bánh. Gặp phiên gác của hai lão có cảm tình nhất và cũng là bạo nhất, anh em mới được bao thuốc lá, bao chè tàu là nguồn giấy chủ yếu để viết tài liệu. Sau giấy trắng nhờ tù cỏ vê án thường và xubadăng mua không được, thì tất cả các bài đều viết với giấy bao thuốc bao chè.
Chỉ mình Tô viết. Thấy Tô bỏ cả ngủ trưa và đến khuya cứ còm cõm ngồi gò ngực xuống cái bảng con ghi số tù nhân trong trại kê lên đầu gối làm bàn, viết cứ hết tờ này đến tờ khác chữ nhỏ như chân kiến, anh thanh niên dạy hát và mấy anh thợ trẻ nhà máy Carông, Xi măng, Máy chỉ đã nằn nì để họ viết cho nhưng Tô không nghe. Tô bảo mặc dầu nghe Lương và Tô nói, các anh toát yếu được đầy đủ, và chữ các anh rất tốt, nhưng các anh viết vẫn tốn giấy. Mà giấy khó khăn quý hiếm như thế nào các anh biết đấy. Còn một lẽ khác nữa và là lẽ chính chỉ có Lương và Sấm biết thôi: Tô muốn gánh tất cả trách nhiệm về phần Tô. Nếu như gác điêng khám bắt được tài liệu và Sở mật thám truy hỏi, thì Tô lại nhận. Có bị tra tấn lại, bị ph