Cơn Bão Đã Đến Chương 10
Trong những ngày truyền đi khắp đất Đông Dương cái tin kinh đô Ba Lê tuyên bố bỏ ngỏ, quân Đức tràn vào chiếm đóng hết nước Pháp mà nhiều người cứ bán tín bán nghi và đồn thêm không biết bao nhiêu chuyện kỳ kỳ lạ lạ, và trong những ngày thành phố Hải Phòng mở một cuộc rước lễ nhà thờ từ trước tới nay chưa đâu được đăng cai làm to như thế, thì cái chàng thanh niên tên là Thanh hay là cậu giáo Thanh ấy lại càng buồn khổ vì lại phải trở về Hải Phòng.
Nhà Thanh vẫn ở xóm nhà thờ Cấm. Bà mẹ Thanh vẫn còn. Bà vẫn làm bánh khúc, bánh bột lọc đi bán trên phố. Cả nhà vẫn ăn uống, may mặc, giỗ Tết tươm tất đầy đủ. Bà lại đỡ được cả bệnh hen và càng năng đi nhà thờ, càng chăm đọc kinh. Và bà càng thương, càng nhớ Thanh, - đứa con trai độc nhất của bà được bà nuôi cho ăn học hẳn hoi, sách vở chữ nghĩa tinh thông, bên cạnh con bé em ngơ ngẩn còi cọc, cũng là con gái độc nhất của bà. Đối với bà, tất cả nguồn vui cùng sự sống của bà chỉ có thể là ở sự được giữ đạo Chúa cho trọn để rồi được chầu Chúa trên nước Thiên đàng. Nhưng giờ đây bà còn phải ở chốn thế gian khách đày này, thì bà phải có cầu xin chiều hôm ban sáng cho Thanh được luôn luôn khỏe mạnh, làm ăn tử tế, nhất là khỏi sa vào các chước ma quỷ cám dỗ, lại trở về sống bên bà, để bà chăm chút cho như ngày xưa còn tấm bé.
Bà mẹ ốm yếu rất mực chịu khổ chịu cực chịu nhục và cũng rất mực thương yêu hy sinh cho con ấy, Thanh hằng nghĩ đến và hễ nghĩ đến lại càng đau đớn thương xót, vậy mà chuyến này Thanh cũng không chịu về nhà cho bà gặp. Lại còn đứa em gái của Thanh. Năm nay nó đã mười sáu mười bảy tuổi rồi. Mấy năm nay nó cũng bớt ngẩn ngơ, đã đi làm ở xưởng dệt chiếu của Nhà chung, tháng tháng không những nuôi được miệng mình lại còn có cả tiền đưa mẹ may mặc sắm sửa cho mình nữa. Con em ấy càng ngày càng biết yêu, biết quý anh, làm Thanh nhiều khi thấy thương em có phần hơn cả thương mẹ, nhưng Thanh cũng không tìm gặp nốt.
Thanh về Hải Phòng, ăn ngủ ở một hàng cơm đầu ghế gần ngã tư chợ Cột Đèn, chuyên bán cho những người kéo xe và đi làm buổi đực buổi cái trên phố. Dãy nhà này đủ cả hàng cao lâu, giải khát, tiệm hút, nhà săm và các hiệu thuốc, thợ may, tạp hóa, toàn nhà hai tầng và mắc đèn điện. Duy có nhà hàng cơm Thanh ăn ở là một tầng và thắp đèn dầu, vừa thấp vừa hẹp, lại còn bắc sàn làm một cái gác xép để lấy chỗ chứa đồ và chứa cả khách nữa.
Từ hôm Thanh trọ, bà hàng cứ phải nghĩ mãi về Thanh.
Người vừa trẻ, rạng rũa thông minh, mà sao lại có vẻ chán chường như thế? Ít nói, tư lự nhưng không phải là không sắc sảo. Đặc biệt là cách ăn uống đi lại. Gọi cơm bữa, trả cho bà hẳn ba hào một bữa, bà dọn đủ cả, nào thịt kho, trứng tráng, cá rán, canh, dưa chua, vậy mà chỉ ăn có hai lưng cơm với canh cà chua, khúc cá rán và ít dưa giá. Có bữa bảo bà quay lại cho đĩa tôm trứng thì chỉ ăn có canh và tôm rang thôi. Cũng uống được rượu. Uống hẳn một chai rượu Con hươu nửa "lít" rất ngon lành, chẳng đỏ mặt tí nào, nhưng chẳng chịu nhắm thức ăn gì cả. Bữa chiều hôm qua, có dưa giá mới muối, thì chỉ nhắm một ít dưa giá và lạc rang. Mấy buổi sáng trời còn tối đất, nhà còn lủng củng những chõng ghế đồ đạc, và chưa nấu xong nồi nước sôi để hãm vò chè tươi bán cho khách làm xe, thì đã dậy mở cửa lấy ra đi. Có đêm mười một mười hai giờ mới về. Hễ về là lên ngay gác nằm. Tuy thế có ai hỏi chuyện thì bất kỳ với người nào cũng bắt nhời một cách đon đả, quý trọng một cách lạ. Với người u già ở cho bà hàng, thật chưa thấy ai đối xử như thế. Đã mời u già này ăn bánh lại còn có lúc mua cả trầu cau về cho nữa!
"Chắc cậu ta là con một nhà giàu ở tỉnh nào đấy, vì chuyện gia đình hay nhân duyên ngang trái làm sao, nên bỏ nhà ra Hải Phòng này. Không phải như thế thì cũng là một thầy giáo, thầy ký con một nhà nền nếp thất thế đương buồn bực gì đây?"
Trưa hôm nhà thờ chính Hải Phòng rước lễ, bà hàng càng băn khoăn vì Thanh. Đã mười hai giờ, khách quen của bà cứ hết bọn này đến bọn khác đã về ăn. Nhiều lúc vừa đơm cơm và dọn thức ăn cho khách, bà cứ ngoái nhìn ra đường để đón Thanh. Bà cho là bữa nay Thanh gặp nhà quen họ giữ lại, hay Thanh gặp bạn cùng nhau đi ăn cao lâu, ăn cơm tây trên phố rồi. Nghĩ thế bà càng tiếc cái món trứng hấp cua bể để phần Thanh.
Nhưng quá một giờ, giữa lúc bà yên trí hẳn rằng Thanh không về ăn tuy vậy bà vẫn để phần nguyên cả mâm cơm cho Thanh, thì Thanh lại về. Và bữa nay người khách trẻ tuổi, cái cậu giáo cậu ký buồn bực vì chuyện gia đình, nhân duyên ngang trái, hay vì trong nhà đương gặp phải nghịch cảnh kia, không những chỉ uống rượu ngọt Con hươu mà còn bảo u già đi mua thêm một chai bia đen. Còn món ăn, Thanh bảo bà hàng cho thêm một đĩa hành, một đĩa lạc rang.
Hai giờ rồi ba giờ.
Không nén được nữa, bà hàng phải hỏi ý Thanh, sao Thanh lại không đi xem. Năm nay nhà thờ chính Hải Phòng mở hội to lắm cơ mà. Nghe bà hàng ngập ngừng lựa nhời lựa câu mãi để hỏi Thanh có mỗi việc đó, Thanh cười bảo: "Rồi sẽ đi xem". Mãi đến ba giờ rưỡi, Thanh không ăn cơm và cũng không dúng đũa bát canh rau ngót rất thích mọi khi, Thanh chỉ ăn đĩa lạc rang, uống cạn cốc bia rồi gọi u già dọn mâm. Thanh không uống nước chè, đến ngay chỗ bà hàng ngồi đơm cơm chào bà đoạn lại lững thững ra đi.
Thanh vừa bước chân ra khỏi cửa hàng, bên tai Thanh vẫn còn líu ríu tiếng bà hàng nói với: "Cậu dặn cứ dặn, cậu muốn về ăn lúc nào tôi cũng sắp cơm cho cậu đấy!" thì nụ cười của Thanh liền xám quắt lại. Dưới trời tháng năm mà Thanh bỗng thấy cảnh vật như u ám, lặng ngắt hẳn đi. Người Thanh càng trĩu xuống vì mệt mỏi, đau xót. Cái bước chân ra vẻ thủng thẳng của Thanh thật như lê xiềng...
Phải! Dưới trời nắng tháng năm, cái cảnh vật mà Thanh thấy như u ám và lặng ngắt hẳn đi ấy chính lại là cảnh vật giữa một thành phố nhộn nhịp huyên náo chưa từng có. Tất cả đường phố, nhà cửa Thanh đi qua hay trông thấy đều rực rỡ, như đâu cũng treo cờ, kết hoa, mắc đèn lồng, trương tàn quạt y môn để bái vọng cuộc rước lễ. Khi Thanh đi khỏi con đường nhà hàng Thanh trọ, Thanh đến đầu đường Trại lính khố xanh thì người đi đường cùng xe cộ đổ về khu nhà thờ chính càng ùn ùn lên và gần như nghẽn lại ở giữa phố, làm thành một cảnh hỗn độn chưa từng thấy. Không phải chỉ trẻ con, cả người lớn cũng không chen nổi bước, cứ dúi dụi vào nhau. Những người mù què ăn mày giọng khản đặc không còn van xin ai được, chỉ còn cố lào thào nói, hay kêu u ú để người ta đừng giẫm, đừng bước qua mình. Mấy người đàn bà chửa, đầu tóc sã sượi, mặt đỏ tái, cứ ngóc đầu lên mà thở hơm hớp như con cá mắc cạn. Các ô tô cứ phải rì rì nhích bánh từng vòng, và mỗi vòng bánh nhích đi lại làm cuống cuồng tất cả đám người lúc nhúc ở trước xe, ở hai bên xe. Trong khi ở dưới đường và bờ hè, một sự chen chúc khiếp sợ như thế vây chặt lấy Thanh, thì ở đằng xa càng nổi bật cảnh tượng cái gác chuông của nhà thờ. Đỉnh gác chuông đã chót vót lại còn kéo lên những dây cờ và dây đèn. Còn những tầng gác đều mắc những giàn cờ, giàn đèn chi chít. Trước những lớp khói lò đen mù đen mịt của khu nhà máy Xi măng, Cốt phát, cái cảnh hội hè của khu nhà thờ càng cách biệt phả phê kiêu hãnh.
Sự đau khổ càng xoắn lấy tâm hồn Thanh.
Tất cả những cảnh những người mà Thanh đã gặp gỡ, gần gụi trước đây trên những quãng đường này, dưới bầu trời này, càng hồi hiện rõ thêm, sâu sắc hơn ở trước mặt Thanh, trong trí tưởng Thanh. Những ngày mấy mẹ con tha phương cầu thực. Những ngày Thanh vơ vất ở các cửa hãng buôn, nhà máy, sở mỏ, nhà ga, bến tàu, bến ô tô và ở cả cửa nhà thương và cửa đề lao nữa. Cùng cực và tuyệt vọng! Nhưng rồi mẹ con cũng nhen nhóm dần dần được sự sống. Con làm cậu giáo dạy học tư, tháng tháng cóp nhặt bảy tám đồng bạc với mấy chục đứa trẻ cũng toàn con nhà nghèo hèn cùng xóm. Mẹ không phải buôn lại từng chục bánh chưng làm từng chõ bánh khúc, chạy vạy từng cân thịt, cân mỡ bán lẩn lút ở các ngõ xóm. Mẹ và con không những được đều ngày hai bữa cơm nóng, mà cảnh sống lại còn một ngày một đầm ấm hơn cả khi xưa ở nơi quê cha đất tổ.
Đã thế lại còn được bao nhiêu người quen mới, hàng xóm mới, thân thiết quý mến vô cùng, - thân thiết quý mến vì tốt bụng tốt dạ, thật bụng thật dạ, không thể ngờ được, không thể tưởng được. Cũng ở cảnh sống này, với những con người này, Thanh đã càng ngày càng thấy đời mình đáng sống hơn. Thanh đương như một kẻ bị xiềng xích đi trong một ngục tối mênh mông, không sao hiểu được và thấy mình đến phải chịu mãi mãi những sự đói rách tủi cực, thì gặp được phong trào, gặp được những đồng chí cộng sản, những chiến sĩ công nhân, những gia đình cơ sở cách mạng. Tất cả đã vừa như thắp lên giơ soi một bó đuốc kỳ diệu dẫn đường chỉ lối cho Thanh, vừa như truyền thêm những máu mới tươi tắn dào dạt cho Thanh thay da, đổi thịt để sống, làm việc, tiến lên giành lấy cuộc đời, tương lai và hạnh phúc chân chính bấy lâu mơ ước...
... Cái cảnh tượng người người lúc nhúc, xe cộ bụi lầm và cờ biển sặc sỡ hỗn loạn ở chung quanh Thanh vụt nhòa đi, chìm đi. Những gương mặt, dáng vóc, mắt nhìn, miệng nói của những con người sao mà Thanh thấy thân thiết quý mến, lại hiện hẳn lên nhìn Thanh, gọi Thanh. Thanh chỉ chực mếu. Thanh chỉ muốn bưng lấy mặt. Bóng đen và vị đắng của tấn kịch trong hơn năm nay Thanh là vai chính lại sa sầm xuống tâm trí Thanh. Sau những ngày đầu tháng giêng năm 1939 Thanh bị bắt vào Sở mật thám cùng với mấy thanh niên trong Đoàn Thanh niên Dân chủ và anh chị em thợ nhà máy Xi măng, nhà Máy tơ, Thanh bỏ Hải Phòng đi loăng quăng các nơi như thế đã mất hơn ba tháng. Rồi Thanh ở Hà Nội láng cháng dự mấy buổi nghiên cứu chính trị và nghe nói chuyện về tình hình thế giới cùng một số học sinh. Thời gian gọi là theo lớp nghiên cứu chính trị này vẫn là dịp Thanh tránh cuộc khủng bố của Hải Phòng, trốn những suy nghĩ về sự khiếp nhược, sự sa sút của Thanh trong đó có cả việc làm bất chính với người đàn bà dâm đãng và liều lĩnh chủ nhà Thanh dạy học.
Không kể mấy tháng Thanh đi chơi các nơi, nguyên Thanh trốn Hải Phòng lên Hà Nội ở rồi xin việc làm ngay đây cũng đã một năm rồi! Phải! Đúng một năm Thanh đã làm một công việc không thể có chữ nào gọi khác là: chạy trốn. Sinh hoạt với đoàn thể của mình đã không có, thậm chí khi chiến tranh vừa bùng nổ, thấy mấy anh em cùng liên lạc và hoạt động thanh niên với Thanh bị bắt, Thanh liền tránh gặp cả những anh chị em khác và tránh cả nhìn, cả nghe người ta đọc những truyền đơn, những áp phích đấu tranh với bọn đế quốc thống trị. Rồi đến cả việc đi lại thăm hỏi những bà con thợ thuyền quen thân của Thanh có người nhà bị bắt, bị xử án, bị tù, hay đến ăn giỗ, ăn cưới ở nhà họ, Thanh cũng không dám. Sắp đến các ngày kỷ niệm Quốc tế hay sau những ngày nghe nói có rải truyền đơn, treo cờ và dán áp phích, Thanh đều nằm lì ở nhà. Nếu gặp phải buổi đi làm thì Thanh đi xe đến sở, đi xe về nhà ăn cơm xong là đi ngủ.
A ha! Thanh lên Hà Nội đã tìm được công ăn việc làm tử tế, nghĩa là để được ăn no ngủ kỹ yên ổn như một con vật trong cũi. A ha! Thanh trốn cái thành phố Hải Phòng mà Thanh đã không tiếc chữ ghi vào sổ nhật ký và đã không tiếc nhời ca tụng với các bè bạn và đồng chí thanh niên của Thanh, nào là mặt đất máu thịt của Thanh, nào là ánh sáng và không khí của sự sống của Thanh, nào là sự sống của nó là lẽ sống duy nhất của Thanh. Vân vân. Nhưng tới khi cái thành phố mặt đất linh hồn, máu thịt, lẽ sống và vân vân của Thanh ấy bị đàn áp, thì Thanh chân giò lảng ra và chạy trốn! Rồi khi đế quốc thống trị Pháp, sau cuộc đầu hàng nhục nhã bọn phát xít Đức, đương treo đèn, kết hoa, trương cờ, dựng cổng chào, gióng chuông, nổi trống, rước kiệu, mở một ngày lễ lớn nhất từ trước tới nay, thì cái đứa tự nhận là con đẻ của cái thành phố và mặt đất ấy lại lần về để lại nghe ngóng, lại mưu tính một cuộc ăn no ngủ kỹ yên ổn, nghĩa là vẫn sống cái đời sống của một con vật trong cũi!...
Qua được phố Cầu Đất đã chật vật, qua đường ngã tư để sang vườn hoa Nhà kèn càng khốn khổ. Chỗ này trông ngay sang trạm dựng thánh giá Đức Chúa Giêsu với những đống đá, những vầng cây bày giả làm núi Cavaliô chốc nữa Đức Khâm mạng sẽ dừng lại làm lễ cầu nguyện. Tại chỗ này còn thấy cả quang cảnh hội lễ của trung tâm thành phố ở trước Nhà hát tây nữa. Nhưng Thanh không chen ra gần bờ đường và cũng không lên cái bực thềm cao của Nhà kèn như mọi người. Thanh đến một hàng nước chanh cạnh gốc cây cơm nguội đằng góc vườn chẳng có ai là khách sang ngồi uống cả. Thanh lại gọi một chai bia đen. Thanh uống hai hơi hết cả cái cốc vại đựng hơn nửa chai bia, rồi cúi rũ đầu xuống hai bàn tay, mắt lim dim có lúc nhắm hẳn lại như muốn thỉu đi.
Đoàn ô tô của các quan Tây và các anh đại phú đã lần lượt đi ra đỗ ở con đường mé trái Nhà hát. Mỗi ô tô loang loáng bon qua lại làm nhiều kẻ bàn tán. Cái của quan này, chủ nhà máy kia, cái của ông bà nọ mua từ bao giờ, bao nhiêu tiền. Nhiều kẻ cứ xuýt xoa, nức nở. Ô tô nhà Thy San đi lớp cuối. Khi cái xe nọ vừa nhô ra khỏi quãng đường nhà máy nước, thì tất cả bọn trai gái ở bờ hè Nhà hát tây và đầu đường vườn hoa Nhà kèn liền rào rào lên và lại diễn ra không biết bao nhiêu trò lạ!
- Con cánh cam của Bờ biển xanh các toa ơi!
- Kiệu mình thánh của Têrêxa Huệ Chi đấy!
- Không! Không! Hòm chở kim cương và giấy bạc hồi môn cùng Huệ Chi và Bích Nga về nhà trai.
- Và là cả chuồng hươu Thy San - Giáng Hương nữa!...
- Ô khê! Ô khê!
Những tiếng huýt sáo. Những tiếng kêu, tiếng cười hô hố. Mấy gã quần áo vải lanh màu ròng rọc, tóc loăn xoăn chải bóng nhãy cùng nhảy cỡn vừa đánh gót giày tanh tách xuống nền xi măng, vừa hát:
Yêu nhau đi chiều hôm tối rồi
Cứ nói đến ngàn tiếng yêu đương...
Vẫn những cảnh và những trò năm xưa của Nhà hát tây hôm lễ ra mắt cái đoàn làm một việc "cách mạng xã hội" là quyên tiền và mở xổ số để dựng những khu nhà "kiểu mẫu", "lý tưởng" về sự thoải mái, về vệ sinh cho những dân lao động nghèo hèn thuê rẻ. Các đoàn Ánh sáng mà Giáng Hương, người đàn bà chủ nhà mướn Thanh dạy con cháu học kia, được mời làm ủy viên vận động lâm thời cử lên diễn thuyết làm một cái đinh cho buổi lễ. Khác chăng, giờ đây đông hơn, huyên náo hơn, đông và huyên náo gấp trăm ngày trước, giữa một sự kiện khá là đặc biệt của cái xã hội vẫn ngự trị bọn thượng lưu, trí thức, giàu sang và quyền hành nọ. Khác chăng là các bọn trai gái còn nhố nhăng, trâng tráo và quái gở cũng gấp bội trước với những lớp tuổi mới năm nào còn là những học trò vào trạc học trò của Thanh, nhưng giờ mặt mũi, cách nói năng, ăn mặc, đi đứng lại còn sa đọa hơn cả những bọn lớp trước. Và khác chăng cũng là đời sống của Thanh!
Giáng Hương lại như đến từ đằng sau Thanh rồi hiện vụt ra ở trước mặt Thanh. Giáng Hương dỏng cao, sống mũi thon, cằm hơi lẹm, người vẫn lẳn mình trắm, gương mặt vẫn sáng, vẫn rừng rực với những vòng tóc cồn cồn xuống gáy, xuống cổ, xuống ức trắng ngần và nở hồng. Giáng Hương vẫn toàn thân ngát lên một hơi hướng chỉ thoáng qua cũng đủ quất vào cảm giác của người ta, để lại một ấn tượng hễ kẻ nào đã bắt nhận thì khó quên được... Trời ơi! Trời ơi!
Thanh rền rền tiếng, mím mím môi lắc đầu. Đầu Thanh vẫn rũ trong hai bàn tay. Thanh cũng không ngước lên nhìn cả khi một bọn trai trẻ ngay cạnh Thanh nhảy cẫng lên reo đón, trông theo con Cánh cam của Bờ biển xanh lướt qua khu vườn hoa Nhà kèn rồi đỗ lại ở mé đường Nhà hát tây ngay trước mặt Thanh. Nếu như cái hình ảnh và dáng vóc của Giáng Hương chỉ còn là một cái gì ghê ghê rợn rợn trong cảm xúc và tâm hồn Thanh, thì cái xe Lanhcôn cũng đã để lại không biết bao nhiêu cảm nghĩ trong tâm trí Thanh kia, giờ đây cũng chỉ là một cái bóng xám lạnh trong chuỗi kỷ niệm buồn tủi nhất của thời niên thiếu và đầu thanh xuân của Thanh!
Cách chỗ Thanh ngồi chỉ hơn trăm thước là con sông Lấp. Cả nước triều và nước sa đương đổ về. Biệt thự Bờ biển xanh ở con đường phía trong. Cái ngõ ngày xưa đã mở rộng nay lại rộng thêm, hai ô tô ra vào cũng vẫn thừa đất. Hai rặng xoan tây trồng dạo nào đã nhiều cây ra hoa đỏ rực. Tòa nhà và khu vườn hoa của Thy San, Giáng Hương càng cách biệt hẳn ra với những dãy nhà và xóm ngõ úp xúp rác rưởi ở đằng sau. Chính ở một hàng hiên chỗ đẹp nhất và mát nhất của biệt thự trông ra vườn hoa, là chỗ Thanh ngồi dạy học trong mấy cái tháng đáng ghi nhớ của đời Thanh. Còn ở ngoài ngõ, dưới gốc cây bồ kếp dại bên bờ sông, thì những ngày đầu Thanh thôi học, bỏ quê hương ra Hải Phòng, lòng không dạ đói, Thanh đã ngồi cùng với những người thợ thất nghiệp chầu chực công việc làm cho lán gạch, lán gỗ, sà lan, sà lúp và các xưởng sửa chữa máy móc ở hai bên phố.
Hàng nửa năm, trên quãng đường này, Thanh thường phải trông, phải nhìn Con cánh cam từ biệt thự Bờ biển xanh đi ra, lúc thì Giáng Hương và Thy San ngồi xe, lúc thì mình Giáng Hương ngồi và Giáng Hương lái lấy, lúc thì mình con gái lớn Thy San: Têrêxa Huệ Chi. Phải! Chỉ là tình cờ nhưng lại là một sự tình cờ hay xảy ra, là Thanh thường gặp Huệ Chi. Người con gái gương mặt trắng mát, cặp mắt ngây dại, vừa có cái vẻ lặng lẽ buồn buồn như một tượng cẩm thạch, vừa có cái dáng ngơ ngác sợ sệt như nai như thỏ ấy, sáng chiều thường đi xe một mình đến nhà thờ ôm theo toàn hoa trắng. Thanh đã thuộc lệ những tuần dâng hoa của cô. Ngày bà thánh quan thày nào thì hoa huệ. Ngày bà thánh quan thày nào thì hoa cúc hồng bạch. Hay ngày nào thì Huệ Chi mặc thứ đồ lụa gì.
Giờ đây, cũng chỉ thoáng nghe tiếng còi từ đằng xa, Thanh đã biết ngay đó là con Cánh cam. Cũng không cần phải trông đón xe, Thanh cũng biết không có Huệ Chi, mà những người ngồi xe dạo buổi này chỉ có thể là cụ cố Đức Sinh và Bích Nga. Tuy Thanh đã cố không nghĩ ngợi gì và đã tạo một cảm xúc như băng giá tỏa ra trong tâm trí, Thanh vẫn bị rùng chuyển dữ dội khi cái ô tô nọ loáng qua. Cùng lúc đó, lại thêm không biết bao nhiêu kỷ niệm đau xót, tủi nhục, dội lên như nghiến như xé não cân Thanh.
- Như vậy thì ta mò đến quãng đường này làm gì?
- Như vậy thì mày lần về Hải Phòng nhất là ở lại cái đất Hải Phòng này trong một ngày như ngày hôm nay để làm gì hở Thanh?
Vừa lúc những câu trên đây cất hỏi Thanh, thì hồi chuông nhà thờ đã nổi dậy. Cả một vùng lọng lên vì cả ba quả chuông lớn đều kéo để báo tin cuộc rước Thánh thể bắt đầu. Rồi chiêng trống, kèn đồng, trống cà rình. Thanh còn nghe thấy cả tiếng reeng reeng của chùm chuông trong tay những chú bé hồng y rung lên trước bước đi rất chậm của Đức Khâm mạng tay giơ chiếu Mặt nhật Mình thánh chúa. Thanh ngửi thấy cả hương thơm ngào ngạt của những bình trầm đung đưa ở trước mặt Đức Khâm mạng. Thanh nghe thấy cả những tiếng xuýt xoa và đọc kinh lần tràng hạt của những hàng chức sắc cầm hoa nến và cờ thêu đi chầu trước Mặt nhật Mình thánh. Và Thanh thấy có cả mẹ Thanh ủ rũ lếch thếch đi với đứa em gái ngờ ngẫn của Thanh mà rền rĩ nguyện kinh trong cái đám người đông nhất và cũng rách rưới lôi thôi nhất làm một cái đuôi lòng thòng tút tít của cuộc rước lễ. Tuy thấy rõ như thế Thanh vẫn cứ rũ đầu trong hai bàn tay và gần như gục hẳn người vào gốc cây, mặc dầu cả người bán hàng cũng nghển lên cố nhìn, cố nghe vọng về phía đám rước.
... Nhưng rồi Thanh không những chỉ ngẩng đầu lên trông mà còn phải lắng hết tinh thần để nhận định một sự xuất hiện rất lạ lùng ở trước mặt mình. Có một người đàn bà đứng trên cái ghế ở bậc thềm Nhà kèn đương nhìn Thanh. Bà ta nhìn Thanh rất chăm chú, rất nghĩ ngợi, và nhìn Thanh có lẽ từ lâu rồi mà Thanh không biết, nhưng khi Thanh sửng biết, nhìn lại bà ta, thì bà ta lại làm ra vẻ không những không chú ý gì đến Thanh mà còn không biết đến Thanh nhìn lại mình nữa.
Đúng người đàn bà nọ, cái bà người Tàu nọ, đã nhìn Thanh, theo dõi Thanh và nghĩ ngợi lâu lắm rồi! Còn Thanh, Thanh chỉ vừa thoáng nhìn lại bà thì cân não Thanh liền rùng lên, tâm trí Thanh lạnh đi. Một cái bàng hoàng chưa bao giờ Thanh thấy mạnh như thế táp vào người Thanh. Phải! Rõ ràng là một bà Tàu, một bà Tàu không già nhưng vì người bé nhỏ còm cõi, da mặt cóc cáy nhăn nheo, nên khi thoạt trông người ta tưởng là một bà già. Bà mặc cái áo xuyến đen tay rộng, cúc tết đã hơi bạc màu, nhưng quần lại là quần nái kiểu quần ta. Tóc bà không búi, cắt để vừa chấm gáy, thứ tóc xờ xạc của một người vừa qua cơn ốm nặng, bịt một khăn vuông nhiễu Hàng Châu. Miệng bà vêu vao chứ không phải móm, không thấy có răng giả và có chiếc nào bịt vàng bịt bạc. Bà cũng đi giày dạ thêu, nhưng là thứ giày hạng đại. Trong khi Thanh nhìn lại bà và suy nghĩ thì bà hơi nhích cái quạt phất giấy láng in hoa lá chim bướm xuống mặt mà Thanh biết chắc chắn là để bà giấu mặt chứ không phải để che những tia nắng chói.
Lạ thật! Lạ thật! Bà Tàu này Thanh chưa gặp bao giờ nhưng sao Thanh lại thấy có một vẻ, một hơi hướng gì quen quen, và thấy như không phải là người Tàu mà là người ta, và là một người quen biết có một cái gì đặc biệt bao lâu nay Thanh quên đi nay bỗng bắt gặp lại.
- Không! Không! Cậu giáo Thanh ơi! Cậu không thể nhận ra được con mẹ La đội than bạn hàng xóm cũ của cậu, ngày trước vẫn nghe các chuyện cậu nói, và có thằng con đã nhờ cậu bảo ban học hành hàng hơn năm giời kia đâu! Cậu giáo Thanh ơi! Đúng tôi là cái con mẹ La, con mẹ can án giết chồng, nó đương trốn tù mà cậu ngờ ngợ đấy!
Mẹ La, cái người đàn bà bé nhỏ, còm cõi, nhăn nheo, cóc cáy, mặc áo xuyến đen tay rộng, cúc tết, tóc xờ xạc cắt để chấm gáy, bịt khăn nhiễu Hàng Châu, đi giày vải thêu hạng đại, và cầm quạt hoa che mặt ấy, vừa tự nhủ vừa thấy trong ruột trong gan mừng rỡ, háo hức, nhưng cũng đau xót, tủi nhục và buồn khổ vô cùng...
*
⚝ ✽ ⚝
Mẹ La ở khách sạn Thiên Tân đến vườn hoa Nhà kèn đúng lúc Nhà thờ chính đương nổi chuông.
Từ ông cụ người Quảng Đông đứng đầu bếp và già nhất của khách sạn đến những người chuyên quét dọn cống rãnh, nhà xí và làm lông gà vịt cùng với mẹ La, đều giục mẹ La phải ra phố mà xem hội. Có người còn văng tục và chửi mẹ La vì cái tội lần chần. Riêng ông đầu bếp già Quảng Đông cứ một câu lại chửi, hai câu lại chửi "cái thứ người sao mà lẩm cẩm và gan góc thế!". Ông thân đi kiếm quần áo mới, bắt mẹ La mặc. Có mấy người lấy cả những áo kiểu Thượng Hải của bọn con gái hầu rượu, cái thì hàng lụa, hàng cẩm châu, cái thì hàng lĩnh, hàng xa tanh, đem ướm vào người mẹ La. Mẹ La cứ phải chắp tay lạy, nước mắt giàn giụa, vừa cười vừa mếu, giãy nảy người, giằng co quá trốn khách nợ, mới gỡ được ra khỏi những thứ áo kia.
Cuối cùng, mẹ La phải mặc cái áo xuyến đen và bịt cái khăn nhiễu của một u già Tàu đi theo gia đình một chủ hãng buôn người Thượng Hải. Không hiểu bà này bỏ quên hay vứt lại ở buồng mà một cô hầu buồng đã nhặt, toan xé làm giẻ lau, sau nghĩ lại, cô đưa cho ông già nhặt lông gà vịt với mẹ La để ông đem về cho bà vợ, nhưng ông già này nhất định không lấy, quẳng vào góc tủ đồ rách của khách sạn. Nhìn mẹ La chải tóc, xỏ bít tất lụa, đi giày và mặc quần áo mới, cả nhà bếp liền reo lên. Hai cô hầu phòng cứ vuốt ve mãi nếp áo, nếp khăn và dúi vào tay mẹ La khăn mặt thêu và quạt hoa. Mọi người đều tấm tắc xuýt xoa, khen mẹ La trẻ ra, đẹp ra, có thể đóng một vai "bảo mẫu" của công chúa khi đi du xuân!
Ông già đầu bếp còn hỏi mẹ La có chịu đem tiền để đi phố ăn uống, mua sắm gì không, mà dặn mẹ không được về sớm, vì dù mẹ có về sớm họ cũng không mở cửa cho vào nhà đâu!
- Ừ thì ta cũng phải đi đây đi đó cho người ta vừa không nghi ngờ, vừa được bằng lòng! Vừa phần ta cũng phải ra xem mặt mũi cái đường cái phố hội hè ra sao chứ. Ba tháng rồi còn gì! Cô Xim cô ấy cẩn thận cho ta cũng phải. Nhưng đi ngoài phố như hôm nay ta cũng không phải lo sợ quá vì bọn chúng nó. Chó lớn, chó bé, "cớm cộc", "cớm chùng" (1), những ngày này còn tối mắt đi kiếm chác ở các sòng bạc, nhà cô đầu, Sáu Kho, phố Khách, chứ chúng nó còn thiết gì!
⚝ ✽ ⚝
[1] Mật thám,đội xếp.
Ra gần đến ngã tư cầu Hạ Lý, mẹ La thấy mặt mày cứ bừng bừng, choáng váng quá. Đương nắng. Bầu trời trên sông Tam Bạc trước mặt mẹ đây và trên sông cửa Cấm ngoài kia càng cao, càng rộng. Gió lộng. Cái gió khác hẳn gió quạt máy. Cái gió vừa là gió sông vừa là gió những cửa Bạch Đằng, cửa Đồ Sơn thông thuộc thân thiết của mẹ. Cái gió như bỗng thấy mẹ thì mừng quá phải nổi vội lên, phải thổi vội đến.
Cũng trong cái lúc choáng váng ấy, mẹ La vừa vui, vừa lo vừa buồn. Vẫn không phải mẹ lo vì mật thám, vì đội xếp, mà lo vì nếu gặp những người quen biết. Chắc chắn bữa nay mẹ La sẽ gặp nhiều người.
Chao ôi! Hơn ba mươi năm ăn ở với cái đất Hải Phòng này, làm trên những sông bến này, mẹ La có bao nhiêu là bà con có lòng thương mẹ. Mẹ chỉ cất một tiếng chào họ, gọi họ thôi, là sẽ được tay bắt mặt mừng, cởi lòng mở dạ, nghe các chuyện họ, và may ra còn...
- Ừ mà có khi hai anh em nó đã trở về Hải Phòng rồi, đương đi tìm mẹ cũng nên. Hôm qua con chim khách không biết ở đâu lại bay đến đỗ ngay trên bờ tường cứ réo ra réo rắt thế này!
Tuy vậy mẹ La vẫn cứ hồi hộp.
Hôm nay phố xá lại càng đông. Đâu đâu cũng chen chúc hàng quán, tấp nập, chật chội. Nhiều cửa hàng, cửa hiệu trước kia mở rất rộng nay thu hẹp hẳn lại, lấy chỗ cho thuê mở thêm cửa hàng. Trên gác ở cũng như dưới mặt hàng, sửa sang bày biện thế nào cũng cứ ứ đồ đạc và hàng hóa. Đông nhất vẫn là những hàng ăn uống, những tiệm hút, tiệm nhảy.
Mặc dù có nhiều cảnh khác lạ, mẹ La vẫn không bỡ ngỡ gì cả.
Trong mấy bọn bà con anh em làm than làm củi và chở xe ba gác, khi mẹ La đi qua, nhiều người ngước hẳn lên nhìn và cứ trông theo mẹ ngờ ngợ lúc lâu. Bây giờ mẹ La vui thì ít mà buồn thì nhiều. Không những mẹ La buồn mà lại thêm xót xa, nước mắt cứ chực rân rấn.
Không! Nước mắt mẹ La không phải chỉ chực rân rấn mà còn long lanh hẳn thành giọt. Mẹ phải hết sức cầm giữ và lấy khăn tay vờ vờ sấp sấp mặt để chấm, khi cái người vận quần áo tây xộc xệch, đầu tóc bơ phờ đến ngồi rũ ở ghế vải của hàng nước chanh bán dưới gốc cây cơm nguội kia.
- "Cậu giáo Thanh! Giời ơi! La ơi! Cậu giáo đã dạy mày học đấy ý ý ý!..."
Hơn cả những đêm trước hôm vượt ngục, mẹ trằn trọc ở góc trại mong ngóng tiếng ho và ánh đèn của ông già phe mì. Hơn cả buổi mẹ tỉnh dậy, bắt đầu nhận ra được người chung quanh, giữa lán thợ sơn tràng ở thẳm rừng giáp giới hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang. Hơn cả những ngày ốm trụi hết tóc, da dẻ đóng vẩy cóc cáy, mẹ từ cái hàng cơm heo hút trên một ngã ba đường đeo bị, chống gậy ra đi. Giờ mẹ La cuồng hẳn người với bao nhiêu chuyện cũ người xưa phút lại sống dậy chung quanh mẹ. Đây kia con đường đá tảng vào khu dinh cơ lâu đài của vợ chồng con cái nhà Thy San. Ông cụ Ước bán trầu nước trông người như Đức ông, như phật Văn Thù vẫn cứ như còn ngồi ở đấy. Chung quanh ông cụ lại đủ cả. Nào cậu giáo Thanh hồi kỳ còn thất nghiệp. Nào cô Dâng cháu gái ông cụ, mỗi khi múc nước hay đưa trầu cau cho khách của ông, cứ như sợ người ta quát to lên và mình sẽ làm rơi làm đổ. Cả mẹ La và Thanh lại được ông cụ cho những củ khoai đỗ ăn với tôm trứng rang mặn mà lúc đói chỉ "đánh" một củ thôi, rồi uống bát nước chè là đã thấy tỉnh cả người. Và lại được nghe ông cụ kể chuyện mà những thú rừng cá biển, cỏ nội hoa đồng cũng biết nghĩ, biết nói, biết về phe với những người nghèo khổ chịu thương chịu khó, biết báo ơn đền nghĩa cho người tốt bụng, tốt dạ.
- Cụ Ước ơi! Phải như thế cụ ạ! Tao đoạn này là tao đoạn đương đổi thời đổi thế đây! Cụ Ước ơi! Cụ mà còn sống với chúng con trong lúc này!... Cụ ơi!... Cậu giáo ơi!...
Chính khi mẹ La rưng rưng nước mắt nhìn Thanh ngồi dưới gốc cây cơm nguội sum sê phấp phới nắng ấy, thì Thanh bỗng ngẩng mặt lên nhận ra cái sự lạ lạ là có một người đàn bà, có một bà Tàu, đã nhìn mình từ lâu và lại có vẻ nghĩ ngợi về mình nhiều lắm! Cũng chính khi Thanh sửng sốt ấy, mẹ La lại làm ra vẻ như không chú ý gì đến Thanh và như không biết có cả Thanh ở trước mặt mình nữa.
- Đúng cậu giáo Thanh đã nhận được ra ta rồi!
Nhưng nếu cậu ấy gọi ta thì ta có nhận cậu ấy không? Thôi, việc cô Xim dặn phải giữ gìn thì cứ phải giữ gìn. Nhưng giữ gìn với ai, hay không nhận ai, chứ với cả cậu giáo Thanh thì thật chua xót quá! Ta cứ nhận cậu ấy, cốt nhất là không để cậu ấy biết chỗ ở của ta.
Mẹ La còn bắt thêm sang nhiều ý nghĩ nữa:
- Không những ta cứ nhận cậu ấy mà còn có thể nhờ cậy cậu ấy tìm anh em thằng La. Các con ơi! Không có các con quấn quýt để mẹ chăm lo cho thì mẹ sống thế nào được?! Mẹ vẫn chỉ là thân tù thân tội thôi!
Trong khi mẹ La run rẩy nức nở cả người với những câu tự nhủ này thì Thanh cũng phải kêu thầm lên:
- Mẹ La ơi! Mẹ La ơi! Tôi nhận ra mẹ rồi!... Tôi nhận ra mẹ rồi!...
Nhưng Thanh cũng phải làm ra vẻ không chú ý gì đến mẹ La và cũng cố giữ nét mặt không thay đổi gì cả. Sự bồn chồn cứ phừng phừng trên gò má và trong ánh mắt của Thanh:
- Làm thế nào mẹ La lại vượt được ngục, trốn về được đến Hải Phòng này? Chắc mẹ đương phải suy nghĩ lắm để giấu cả ta đây! Cái con mẹ lắm điều lắm nhời, cái nhà mẹ La can án giết chồng kia lần mò về được đến đất nhà rồi mà lại không được gặp cái thằng con lém lỉnh lúc nào cũng vui như tuồng như hát ấy và hai đứa con gái bé của mẹ, thì thật là thảm! Nguy hiểm ghê, nếu mẹ chỉ để lộ một phút tung tích của mẹ với đám mật thám Hải Phòng này! Nhưng ta không thể lại tránh mặt cả mẹ La này! Có gì ta chỉ gọi mẹ, gọi hẳn tên mẹ lên, nắm lấy bàn tay của mẹ mà đôi hồi mấy lời với mẹ, dặn dò mẹ phải ý tứ, cẩn thận đề phòng hơn nữa. Chỉ như thế thôi! Chỉ như thế thôi! Đoạn ta lại bỏ đất Hải Phòng này đi ngay cũng được!
Trán Thanh đã nhíu lại, mắt lấp lánh hẳn lên, gương mặt phừng phừng. Mẹ La lại càng run, chỉ nhằm nhằm bước khỏi ghế mà xuống đất.
- Chết! Chết!... Mẹ La ơi! Mẹ đã hứa với tôi thế nào cơ mà! Hôm nay mẹ đã đi chơi giữa ban ngày ban mặt, rồi lại còn để người ta nhận ra mình nữa. Không phải chỉ nguy hiểm cho mẹ mà cả cho tôi! Sao mẹ lại liều lĩnh như thế?! Một sự bất tín thì vạn sự mất tin. Và sao mẹ lại dại dột thế? Mẹ có biết cậu giáo Thanh lâu nay thế nào mà mẹ dám...
Xim vốn là người ăn nói chậm chạp, thủ thỉ. Sao lúc này mẹ La lại thấy Xim đanh đanh tiếng như thế? Cả nét mặt cặp mắt Xim cũng nghiêm nghị quyết liệt khác hẳn. Chao ôi! Nét mặt, cặp mắt và giọng nói của người bạn gái hàng xóm kia chỉ xa cách mẹ La có mấy năm mà ngay lúc đầu tiên mẹ liền thấy thêm không biết bao nhiêu quý mến, tin cậy. Và không phải chỉ làm mẹ quý mến, tin cậy mà còn làm mẹ phục nữa. Tất cả ba lần được gặp Xim, lần nào cũng chỉ được một chốc một lát thôi, và chỉ nghe Xim chuyện trò bàn tính công việc, căn dặn ít điều, mẹ La cũng thấy rằng Xim đã được học tập và gánh vác những công việc hệ trọng lắm nên mới hiểu biết nhiều cái, và rắn rỏi đến như thế. Xim được giác ngộ, Xim tham gia đấu tranh, Xim làm việc rất chín chắn, những điều đó mẹ La đã biết từ năm xưa khi Xim còn làm thợ Máy tơ nhà mẹ ở cạnh nhà Xim. Nhưng còn phải hơn nữa, còn phải thế nào nữa thì cái nhà cô Xim hiền lành, chậm chạp lặng lẽ kia mới thành một người giảng giải cho mẹ từ chuyện nhà đến chuyện thời, chuyện thế và con đường về lâu về dài mà tất cả những ai là kẻ nghèo khổ, bị bóc lột, áp bức đều phải nghe phải làm theo!
... Mẹ La đã bước xuống ghế. Đầu gối mẹ tưởng chừng khuỵu mất. Thanh cũng run cả người, Thanh cúi cúi mặt xuống cốc bia đưa mắt nhìn theo mẹ La. Mẹ La vẫn một tay che quạt trên đầu, cũng đưa mắt nhìn lại Thanh. Bước chân của mẹ chỉ chập choạng lúc đầu rồi sau nhanh dần nhanh dần, đi như chạy. Cái bà Tàu mặc áo xuyến đen rộng tay, bịt khăn nhiễu Hàng Châu, đi giày dạ thêu, người bé nhỏ, da dẻ nhăn nheo ấy không đi ra phía con đường vắng khu vườn cây xa kia, mà cứ lút vào đám đông ở bên kia đường phố Cầu Đất rồi mất hút. Rồi cái khăn thêu không phải che miệng, che mũi cho khỏi nắng mà đưa lên thấm thấm mắt. Mẹ La mặc cho nước mắt giàn giụa, nức nở hẳn lên, và mẹ còn mếu nữa.
Khi tiếng reeng reeng của chùm chuông mạ vàng rung lên cùng mùi trầm hương càng ngào ngạt báo tin Đức Khâm mạng đã tới trạm chính nơi dựng núi Cavaliô và cây câu rút, và lúc tất cả đám rước cùng nhiều người trong đám đông có cả Tây đầm ở hai bên đường quỳ quỳ xuống đất chầu lạy Đức Khâm mạng, người ôm lấy chân Chúa Giêsu bị đóng đanh chảy máu ròng ròng mà ấp vào mặt hít đi hít lại vừa rền rĩ bằng những tiếng La tinh, thì Thanh nhổm lên mà kêu như thét một tiếng: "Giời ơi!"... Thanh quẳng cả tờ giấy năm hào trả tiền chai bia có một hào tư, chạy ra đường, cái áo tây khoác trễ bên vai, mùi soa lòng thòng ở mép túi, mặt mày xám ngắt.
Có mấy người ngạc nhiên nhìn Thanh. Họ hỏi người bán hàng nước chanh làm sao lại có người khách uống lạ như thế? Người bán hàng không đáp, một lúc lâu sau vẫn còn ngẩn mặt ra cố nghĩ thêm mà không thể sao hiểu nổi. Bác ta lẩm bẩm vừa nói với mình vừa để trả lời những người chung quanh:
- Cái nhà cậu ta hình như điên điên thì phải! Hay nếu không điên điên thì người cũng làm sao ấy!...
*
Không có việc gì gấp, Thanh cũng đi chuyến ô tô ray về Hà Nội ngay chiều hôm ấy. Hôm sau đến ngày phải đi làm rồi nhưng Thanh lại nói với ông thư ký già để Thanh nghỉ vài ngày nữa. Vợ chồng thằng chủ vẫn còn nghỉ mát ở Đà Lạt, những công việc xuất nhập ở kho chè mình ông làm cũng nhàn chán. Phần được thả cửa kiếm chác, phần nể Thanh tuy ít tuổi mà ăn ở vừa biết điều vừa hào phóng, ông bạn nọ gật ngay đầu, cười hề hề bảo Thanh:
- Me sừ Thanh cứ yên trí ở nhà! Me sừ Thanh cứ yên trí ở nhà!...
Trưa hôm sau Thanh lại không lên phố ăn cơm. Thanh chỉ ăn bát miến gà của bà hàng ở đầu xóm. Ăn xong Thanh ngủ ngay. Thanh ngủ như một người uống thuốc ngủ vậy. Chiều Thanh đi ra bờ sông lang thang đến lúc trăng lên. Trở về nhà, Thanh lại chỉ ăn xôi chè, hoa quả rồi đi ngủ. Hôm sau Thanh cũng ăn ngủ như vậy. Những sự xâu xé trong người Thanh mấy hôm nay như đã nhẹ đi nhiều. Bởi vậy trưa nay dậy, Thanh đã nghĩ đến việc đi dạo phố cắt tóc, tắm, rồi chờ xế nắng dạo quanh một vòng Hồ Gươm ra đường bờ sông về mới ăn một bữa thật ra bữa. Như thế ngày mai Thanh có thể đi làm như thường được.
Từ xóm bãi Nghĩa Dũng Thanh ở, lên cái phố có hiệu cắt tóc quen tiện ngay tàu điện, nhưng Thanh không đi tàu. Men bên đường rợp bóng cây, Thanh thấy vui vui khi đi qua những rặng xoan tây có những tiếng chim vành khuyên ríu rít và tiếng lá lao xao. Có mấy chị em đứa bé đang xúm xít đẩy cái xe mây, kêu "bim bim" bắt chước tiếng ô tô, thấy Thanh đi qua liền dừng lại. Một con bé má đỏ rẩng, áo hoa, quần hoa, nắm lấy bàn tay Thanh reo lên:
- A, cậu Minh đã về đây rồi! Cậu Minh cho chúng mình đi ô tô về Nam Định với bà cơ...
Thanh cười, xoa xoa đầu cả mấy đứa bé không quen nọ, chúng nhận Thanh là cậu Minh của chúng. Đến ngã tư, Thanh còn quay lại nhìn cái bé má đỏ, áo hoa, quần hoa, rồi mới vào hiệu cắt tóc.
Vẫn còn mấy ghế không. Thanh ngồi vào ghế của người thợ quen mà Thanh rất thích cái lối gội cào đến ê cả đầu, rồi vắt chanh, xát chanh thật xót của bác ta. Thanh thấy dễ chịu ngay khi bác đánh kéo tỉa tóc cho Thanh. Mớ tóc của Thanh được phạt như vỡ rậm, đầy xù cả khăn quàng và tay ghế. Khi bác kéo khăn bông quấn cổ ra, dùng cái lược tre tròn, răng khít mà cào từ ót xuống đến gáy Thanh, làm Thanh vừa đau vừa chợn, đoạn cởi khăn choàng đem đến giũ ở một góc nhà, thì Thanh như cất được một cái gì vừa nặng nề vừa gai góc ra khỏi đầu vậy.
Thanh lại ngoan ngoãn cúi đầu cho bác thợ rẩy nước gội chế bằng dầu xả và bồ kếp, vừa cào vừa vò xoắn lấy tóc Thanh. Những cốc nước mát rợi giội ào ào xuống làn da đầu Thanh với mùi chanh cốm. Thanh nhắm hẳn mắt lại mà nghe một làn êm mát thơm tho như từ trong đầu Thanh toát ra.
Bàn gội đầu gần một khung cửa kính. Một ô kính bị vỡ phải thay từ lâu bằng miếng giấy bồi. Vừa phần hồ phết nhòe nhoẹt, vừa phần hoen ố bọt nước gội xà phòng, nên cả những chữ to nét nhất của miếng giấy bồi cũng ít người đọc ra được. Đã thế còn có chữ lại bị mất. An dân... đó là mấy chữ trong những chữ to nét nhất trên mảnh giấy báo bồi, mấy chữ đặc biệt mà chỉ mình Thanh hiểu được vì Thanh trước đã biết nó là chữ gì, nghĩa thế nào.
Chính lúc Thanh ngẩng đầu lên và thấy trong người nhẹ hẳn đi, thì Thanh lại bắt buộc phải nhìn đến những chữ dữ dội ấy. An dâ: Bạn dân là tên tờ báo có một miếng táp vào tờ giấy bồi. Trước kia, khi Thanh ở Hải Phòng lên, những lần đầu vào cắt tóc, Thanh đã tê tái cả tâm trí vì cái mẩu báo và ô cửa kính nọ, khi Thanh sắp cúi đầu xuống cái chậu sứ để bác thợ giội nước, xát xà phòng, tức là khi mắt Thanh sát vào ô cửa và thấy cứ nhoi nhói ở trước trán.
An dâ... Bạn dân... Bạn dân...
Buổi nay lúc Thanh trở vào ghế ngồi, mặc kệ cả cánh tay, bàn tay và cái lược của bác thợ đưa đi đưa lại, giơ lên giơ xuống, hai chữ Bạn dân càng anh ánh ở trước mặt Thanh. Cùng với hai chữ ấy, có hai trang báo đã to lại
càng mở rộng, đầy đủ, rõ ràng những khung, những tít
và những hình ảnh mà Thanh vẫn phải nhớ từng câu,
từng nét.
Tháng sau là tháng bảy. Ngày 14 tháng 7 năm 1937, tờ Bạn dân ra số đặc biệt ngày phá ngục Bátxíttin, với hai trang lớn với những dòng chữ to, tít đỏ và nhiều hình ảnh. Thanh đã đón đọc số Bạn dân ấy ở một hiệu sách giữa cái phố Cầu Đất mà chủ nhật vừa qua Thanh đã phải len lách chật vật để đón xem cuộc rước lễ trọng thể của nhà thờ Hải Phòng. Không kịp đến nhà đồng chí phát hành báo, Thanh vừa trông thấy trong tủ kính của hiệu sách đỏ rực lên hai trang báo in chếch một dòng chữ Số kỷ niệm ngày Đại cách mạng Pháp 1789, Thanh liền dúi dúi tiền vào tay một em bé bán báo đương giằng co tíu tít chia báo với các em bán khác, Thanh giật lấy số báo, vừa đi vừa đọc xô vấp cả vào những gồng gánh, người bán hàng và cột đèn ở trên hè. Đến cái ngã tư vào loại nhộn nhịp và huyên náo nhất Hải Phòng kia, Thanh cũng sang vườn hoa Nhà kèn và cũng ngồi dưới cái gốc cây cơm nguội mà Thanh đã ngồi uống bia rồi gặp mẹ La hôm vừa qua, để đọc lại những cột báo vừa mới ngốn ngấu.
... Vẫn như một tấm cờ đỏ tươi thắm và chói ngời, tờ báo lại trải ra trong tâm trí Thanh. Hơn nữa như một khối lửa, một vầng mặt trời, tờ báo còn cháy rực lên cả trong lòng Thanh. Đúng năm đó Thanh hai mươi tuổi. Thanh cố giữ tờ báo lịch sử, tờ báo kỷ niệm ấy mãi đến năm ngoái, ngày phát xít Đức vừa tuyên chiến, và đế quốc Pháp liền ra ngay đạo luật đặt tất cả mọi hoạt động của Đệ tam Quốc tế và những sách báo của các Đảng cộng sản, của phong trào cộng sản là bất hợp pháp. Tiếp đó một loạt khám nhà, bắt người, lại tra tấn, lại tù đày, và ngay ở xóm Thanh tất cả những anh chị em thợ thuyền hoạt động trước đều bị bắt, thì mẹ Thanh liền tìm ngay chỗ cất giấu của Thanh mà đốt cả tờ báo cùng các sách, các tranh ảnh khác. Ở Hà Nội về, Thanh đã được em gái cho biết mẹ Thanh vừa khóc mếu, vừa đọc kinh, vừa châm lửa đốt...
Thấy Thanh cau cau trán, bác thợ cạo tưởng Thanh không vừa ý về cái đầu ngôi và làn tóc lật bác đương chải chuốt liền hỏi:
- Cậu muốn chải lại à?
Thanh vội lắc đầu, đứng dậy, tự tay cởi khăn bông quàng cổ ra để vào ngay buồng tắm. Khi tắm Thanh cũng vội vội vàng vàng. Trả tiền xong Thanh lập cập ra đường nhưng không theo hành trình đã định là thẳng đường chợ Đồng Xuân rồi xuống Hồ Gươm. Thanh lại rẽ ra đường Cổng Đục. Thế là mặc dầu đầu tóc vừa cắt gội nhẹ thênh, Thanh lại không thể níu giữ được sự bình tĩnh trước cái quãng đường cứ hút lấy bước chân của Thanh đi.
Trời râm mát. Những hàng cây càng tươi đẹp. Cả ở bên đường gầm cầu xe lửa, những cây sữa cũng như xếp tầng xếp lớp lá xanh. Riêng mấy cây quen thuộc ở bên này đường trước cái nhà kỷ niệm của Thanh kia, lại vừa cao vừa rườm rà hơn. Sau những lớp cành lá đương lao xao nắng, tấm biển gỗ sơn đỏ, chữ trắng kẻ hai dòng chữ: "Tin tức. Cơ quan của Mặt trận Dân chủ" trước kia treo ở ngay trên cửa ra vào, giờ lại hiện nổi lên. Thanh cứ bước thêm một bước lại thấy nó lấp loáng đi cùng với Thanh, và như có những cánh tay cực khỏe nâng lên, tiến đi trước mặt Thanh.
Đúng Thanh lại đương nhìn và đi theo tấm biển ấy. Và khi Thanh gần đến tòa báo thì nó biến đi, hóa thành những chồng báo, những tệp báo, những trang báo chất ngất, phấp phới ở chung quanh Thanh. Thanh không chỉ đứng nhìn mà vào hẳn trong nhà rồi lên cả gác. Thanh lại thấy cái gian gác chật ních, sàn đã mọt, vừa là phòng làm việc của tòa soạn, vừa là phòng tiếp khách và khách toàn là những anh chị em thợ, dân cày ở Hà Nội và ở các tỉnh xa về, vừa là phòng ngủ mà chỉ đến khuya mới dám trải chiếu nằm. Thanh lại thấy chung quanh một cái bàn dài, hẹp gần như bàn học trò, có hàng chục người đứng ăn cái bữa cơm thường chỉ có rau muống luộc, cà nén, hay tép rang mặn với khế xâm xấp nước để chấm rau. Thanh lại thấy các đồng chí ấy đương viết bài, đương dịch sách, đương trả lời thư của quần chúng nhờ chỉ bảo công việc, đương tính toán sổ sách, đương viết băng báo và đương xoay trần ra quét sân, lau sàn, thổi nấu, rửa bát... Tất cả những đồng chí chủ chốt làm việc ở đây, Thanh được nghe nói đến luôn từ những phong trào 1929, 1930 với bao nhiêu gương hoạt động hy sinh ở ngoài cũng như ở trong tù mà Thanh nhiều lúc ngờ ngợ sao những người chiến đấu vào sinh ra tử, nhiều thành tích như thế, lại là những người đương làm việc, sống cũng xuềnh xoàng như mọi người?!
Khi Thanh vừa ra khỏi cái gian nhà như kiểu chuồng chim, vừa là tòa soạn, trị sự, phát hành, trụ sở, cơ quan công khai của một Đảng đương lãnh đạo cách mạng, vừa là nơi ăn ở của ngót mười đảng viên và chiến sĩ cộng sản, ngày đêm có các thứ mật thám chỉ điểm thay hình đổi dạng canh gác theo dõi từ trước cửa đến suốt hai đầu đường và các ngã tư chung quanh - nhà báo Tin tức vừa nghèo vừa xoàng xĩnh chẳng có vẻ gì là bí mật, là quan trọng kia, - thì Thanh lại thấy tấm biển sơn đỏ, chữ trắng lấp loáng, dần nâng cao, tiến đi nhanh hơn ở trước mặt Thanh, tới khi vút tới những đám mây trắng mới biến khuất. Nhưng liền đó những hàng những lớp cờ đỏ, băng khẩu hiệu, biển rất to dán những tranh, áp phích và những ảnh cũng rất to, lại mở ra nhấp nhô trùng trùng với không phải năm bảy chục, một trăm, một nghìn mà là hàng vạn, hơn hai vạn người xuống đường...
Thanh lại không đi đường phố Hàng Gai ra Hồ Gươm mà rẽ ra ngã tư Cửa Nam để lại đến khu Đấu Xảo. Cái khu quảng trường đỏ đầu tiên của Đông Dương và Hà Nội ấy càng im lặng dưới trời nắng chói. Suốt dọc đường đây, những hàng cây sấu, cây cơm nguội, cây bàng cũng như cây sữa, còn chót vót, rườm rà hơn. Một thứ bóng râm và một thứ mùi thơm chỉ những quãng đường rộng, cây to của Hà Nội mới có, lại như choàng lấy người Thanh. Thanh không còn những cái nấu nung rã rượi rối loạn của mấy ngày trở về Hải Phòng. Nhưng Thanh cũng mất dần cái dễ chịu của sự hồi sức sau hai ngày ngủ lì bì và mới đây tắm gội. Lại một mối buồn tê tái và một nỗi cô độc hoang vu lần lần đến vây thắt lấy tâm trí Thanh.
Trời ơi! Mối buồn và nỗi cô độc ấy đã bao lâu nay lúc thì thoáng gợn, lúc thì sâu sắc, lúc thì thăm thẳm mênh mông trong trái tim và trong sự suy nghĩ của Thanh. Vừa lúc một làn gió chiều thoảng qua mặt Thanh. Bất giác Thanh ngước đầu lên. Thanh nhìn cái cổng sắt sơn xám của Sở mật thám đương tới tấp xe đạp và người ra vào. Ba cam nhông và bốn cái mô tô màu khói a xít chuyên bắt người chực ở hai bên đường chỉ nhăm nhăm lồng đi.
*
Tối hôm đó gần tám giờ Thanh mới về đến nhà. Thanh lại bỏ cái bữa ăn ở nhà hàng thổi cơm tháng cho Thanh và ông ký già cùng sở. Thanh cũng không ăn miến ăn cháo của bà hàng quen chuyên bán vào buổi tối mà mấy hôm nay Thanh đã ăn trừ cơm. Thanh chỉ uống bia và ăn mấy cái bánh ở hàng nước đầu dốc đường xuống xóm bãi Nghĩa Dũng Thanh trọ. Hàng vãn khách từ lâu Thanh mới đứng dậy trả tiền. Khi Thanh qua cái nhà thờ nhỏ ở giữa xóm thì tiếng cầu kinh chỉ còn lào thào ran rỉ, bà cháu bà cụ hàng xóm của Thanh đã cắp chiếu ra về. Như hai lần trước, Thanh lại phó mặc mình cho bước chân của mình. Thanh vào cái chỗ ngồi dưới chân cột tòa giảng gần một ông già. Ông này ngày xưa đi lính sang Tây bị đạn trái phá Đức cưa cụt một chân phải lắp chân gỗ, vẫn sấp mình đọc kinh ở phía sau cột. Trên cột và cũng ở ngay trên đầu Thanh và đầu ông lính già què, có ảnh bà Maria và ông thánh Giuse quỳ dưới chân chúa Giêsu bị đóng đanh câu rút. Ngay giữa ban ngày bức ảnh cũng vẫn mờ mờ vì lớp cửa kính vàng ủng và xanh lục lọc nhòa hết cả ánh nắng. Giờ đây với ánh sáng của ngọn đèn điện lắp xa tít, khung ảnh như một tấm sắt tấm đá leo lắt những hình bóng như sắp đổ sập xuống mặt đất.
Thanh không quỳ như mọi người trong nhà thờ. Thanh ngồi gục đầu lên cánh tay tì vào tựa ghế lim dưới khung ảnh. Ông lính già què tối nay càng ngạc nhiên hơn. Ông đương lần tràng hạt cũng phải ngước mặt lên, lim dim mắt nhìn và lắng nghe. Hình như cái người trai trẻ tuổi ngồi gần ông cũng là con chiên. Vì tối nay ông còn nghe thấy tiếng anh ta thầm thì như cùng đọc kinh với ông vậy.
Phải! Thanh đọc lại mấy câu trong cái bản kinh Lạy nữ vương, Mẹ rất nhân lành làm cho chúng tôi được sống được vui được cậy thân lạy Mẹ từ ngày xưa Thanh còn lũn cũn cắp chiếu theo bà ngoại, theo mẹ đi chầu buổi tối, lúc thoạt vào nhà thờ thì đọc bản ấy trước nhất. Thanh đọc mà thấy buồn thảm, ghê rợn vô cùng...