Thời Kì Đen Tối Chương 5
Bà cụ Xim bán nước dưới gốc đa. Mặc dầu có các thứ bình vôi treo ở các đám rễ và gắn vào các hốc các lỗ đã làm nhiều người qua lại ban đêm hết hồn vì thấy cứ như là những đầu lâu hay những đầu người bị chém treo ngành, và mặc dầu nằm dưới gốc đa lại có một mả ông Đống cũng lổn nhổn các thứ mảnh sành, mảnh chai, gạch vỡ, chân hương, tàn vàng mã,... bọn trẻ con trong làng vẫn tụ tập ở đây mà đẽo vỏ cây, bẻ cành lộc bày các thứ trò chơi.
Đồ hàng vẫn cái giành, cái nồi đất và những ghế con mẹ Nghĩa rằng đã xin lại của ông cụ Ước cho chị em Dâng, nhưng bà cụ Xim không bán thuốc lào, kẹo bột và không nấu chè xanh mà chỉ nấu nước vối. Thứ vối này bà cụ bẻ ở cây mua của mấy nhà trong làng đem phơi, ủ rất công phu, khi nấu thì chế thêm hắc hương. Các bà có tuổi, các bà con mọn đi chợ, đi làm trưa, đi làm trên phố, và cả các đàn ông kéo xe ba gác hay làm việc thổ mộc nặng, cũng rất thích nước vối hàng bà cụ Xim. Vừa phần bà cụ hãm khéo như thuốc sắc đặc ấy, vừa phần lại đong bát sành, to gần bằng bát chậu, nên khách rất đông. Không những bà cụ Xim chỉ lấy có một trinh Khải Định (1)một bát, mà ai mua một xèng Bảo Đại bà cụ cũng rót cho nửa bát hay gần miệng bát.
-----
[1] Ba xèng Bảo Đại con ăn một trinh Khải Định bố.
- Thôi thôi, bà cụ đã ra rồi kia kìa!
- Ấy chỉ là nước vối, chứ thuốc phiện hay rượu mà nghiện thì khổ đến đâu!
- Dào ôi! Rượu và thuốc phiện đây lại không cần!
- Tôi cũng thế đấy! Chỉ có từ đầu tháng đến giờ, uống mỗi ngày có hai bát nước của bà cụ mà tôi mất hẳn cái ho sản từ mấy năm nay.
Bà cụ Xim đi sau, một tay cầm quạt nan che đầu, một tay cắp chiếc võng và cái rổ con đựng trầu vỏ, ống vôi, khăn mặt. Bà cụ càng ngày càng nhỏ như con chim chích, và cố nhiên không thể nào nhanh bằng chim chích. Con chim này bộ cánh lại không xanh. Vì áo của bà cụ bằng vải màn cũ nhuộm nâu non, còn quần thì là cái quần nái rung rúc của con gái, phải thu lại cả đũng và ống.
Đi trước bà cụ Xim là mẹ Nghĩa rằng và cái Lê. Không hiểu nóng bức thế nào, mẹ Nghĩa rằng chỉ mặc mỗi cái yếm, còn quần là thứ quần dài cũ cắt bớt ống đến gần đầu gối. Mẹ cũng vấn khăn. Tóc rối không ra rối, chải không ra chải, phải độn. Cái độn thì thòi lên như kiểu sừng nhọn trên mũ đồng mũ sắt quân lính thời phong kiến nông nô bên phương Tây. Cái Lê đi sau, quần láng chéo go, áo phin nâu, cặp tóc. Mới mười một mười hai tuổi mà trông nó có vẻ cao hơn mẹ Nghĩa rằng.
Hai bá cháu này đã khiêng giành nước, rổ bát, mỗi người còn cắp ba bốn ghế gỗ con.
- Thế này mà bà cụ không dựng hẳn quán bán thêm quả chuối quả bưởi, tấm bánh, chiếc kẹo có phải không?
- Bà cụ ơi! Bà cụ cứ cố đi! Có gì con bảo bố cháu nó đóng cho bộ chõng ghế hẳn hoi. Gỗ, nhà con biếu bà cụ, còn tiền công bố nó chỉ xin bốn buổi mỗi buổi hai bữa cơm rượu thôi.
Mấy người khác góp thêm:
- Kẹo bánh có người quen trên phố, con bảo người ta đưa xuống tận nơi cho bà, cứ bán hết mới phải trả tiền. Kẹo lạc nhà này ngon chỉ kém có kẹo Sừu Châu Nam Định, còn bánh khảo mà thửa họ làm thì hiệu Nhân Phong phố Cầu Đất cũng trả lại tiền.
- Thôi thôi, tôi xin các bà, cứ phải là tính sát sàn sạt cho bà cụ. Tôi thì tôi thấy bà cụ chỉ nên lấy thêm cái kẹo bi, kẹo bột và bán thêm quả chuối, quả bưởi là gọn gàng. Những thứ kia có lãi nhiều đấy, nhưng chỉ bốn năm bọn mua chịu, nhất là các bố các mẹ ngoài Sáu Kho, thì bà cụ không có nhà băng nào cho vay mà giữ quán với hàng được! Chả nhẽ họ vào hàng ăn rồi đứng lên mới nói chịu, hay là con cái đi theo đòi mua thêm thứ này, ăn thêm thứ kia, bà cụ ở nhờ xóm người ta, biết nhà biết cửa người ta, mà lại không cho chịu? Thế rồi đi làm mấy kỳ tiền đều không đủ trả ngay cả tiền đong gạo lứa, vậy còn lấy đâu trang trải nợ quà bánh? Bà cụ sẽ lột cái may ô hay cái móc ngáo của họ để trừ nợ à!
Mọi người cười ồ lên:
- Thôi thôi cứ như cựu lệ ấm nước thôi mẹ ạ cho nhàn thân. Giời đất làm ăn thế này mà giở giói ra thì mất cả xống thôi!
Mẹ Nghĩa rằng cứ nhấp nhỏm định lên tiếng. Mẹ ngồi xoạc chân, mặt đỏ sần như gà chọi, cầm cái quạt nan của bà cụ Xim quạt phành phạch:
- Này các bà các cụ ạ, bà cụ đây bán hàng nhưng nghĩ rằng thì là bán hàng cũng năm bảy đường bán hàng. Hàng nước của bà cụ đây là hàng nước nhân nước hậu, nước thủy nước chung, hàng nước ai uống đều phải nhớ phải tìm... bán hàng để tiếng để tăm chứ không phải để tai để tiếng là như thế đấy!
Bà cụ Xim, một tay đặt lên chiếc vỉ buồm khâu đệm mấy lượt, bọc một vỏ bằng vải nâu để ủ ấm nước, một tay nhăm nhăm cầm gáo rót nước khi khách gọi, nhưng vẫn không bỏ sót một nhời nào của mọi người, đặc biệt là của mẹ Nghĩa rằng.
-... Cũng như kiếm ăn thì cũng năm bảy thứ kiếm ăn, đầu đường cuối chợ cũng năm bảy hạng đầu đường cuối chợ. Bà cụ đây phải đầu hôm sớm mai bòn nhặt từng xèng để tự nuôi lấy thân mình, không chịu luồn cúi van xin ai. Bà cụ ngồi để mà xem mà gẫm mọi người mọi việc trong cái thời buổi này. Nghĩa rằng thì là người năm bảy đứng, của chín vạn loài, cứt không thể là rươi, rươi không thể là cứt!...
- Giời đất! Mẹ Nghĩa rằng ơi, sao cái mồm cái miệng mẹ cứ động đến là toang toang lên như thế? Người ta chỉ còn bàn với nhau cách làm ăn cho tôi sao được khá hơn mà không vất vả quá, chứ có xui tôi làm mật thám chỉ điểm, hay đưa người cửa trước, rước người cửa sau, hay nay bám theo thằng Tây này, mai chạy theo thằng Nhật kia gì đâu, mà mẹ lại gai ngạnh, và giảng giải mô phạm với họ như thế? Hoặc giả lâu nay mẹ có được nghe ở chỗ này chỗ khác những điều hay điều phải, mẹ muốn mình phải tuyên truyền lại, thì cũng nên có ý tứ chớ.
Bà cụ Xim run run trong người:
- Hay cái Xim nó đã bắt liên lạc về với mẹ Nghĩa rằng mà mẹ Nghĩa rằng không biết? Dạo này càng thấy mẹ này khác quá!
Thêm mấy người nữa uống nước. Khi họ lục tục kẻ gồng gánh, người kéo xe, người cắp nón xách bị đi hết, bà cụ Xim đếm tiền hàng thấy được tám xu. Bà cụ dồn thêm hai hào hai tiền nhà tất cả được là ba hào, đưa cho mẹ Nghĩa rằng:
- Cũng trưa rồi đấy, mẹ xuống chợ đong gạo cho tôi. Mẹ nhớ đong cả gạo, mẹ đong riêng ra hai bơ gạo dự, để tôi nấu cháo cho cái Bé. Chỗ cá bống mũn mẹ mua của dưới làng hôm qua tôi kho kỹ còn ăn được đến bốn năm bữa nữa. Nhà lại mới muối vại dưa. Cái Lê nó bòn được ít lạc non, tôi nấu canh, chẻ rau muống, chiều mẹ lên phố về tôi để phần cho. À thằng giặc nhà mẹ, nó có nhặt được giấy bao xi măng thì mẹ dặn nó nhớ đem về cho tôi. Cả chỗ đầu giường cũng dột to quá! Đêm hôm kia mưa, bà cháu phải cuộn màn che chiếu ngồi suốt đêm. Thằng giặc có muốn hút thuốc lá thì tôi mua lại của người đi làm kho cho nó hai bao Mêlia.
- Bao tải! Bao tải! Mua cho nó cái bao tải để tôi trôi sông nó thì có. Nó mà cứ tập tọng thuốc lá, rồi đua đòi nay đi bơi đoàn này, mai đi đá bóng đội kia, không chịu làm ăn, thì tôi cứ là tìm cái bao tải rồi trôi sông...
Đang khi mẹ Nghĩa rằng chỉ muốn nổi cơn nổi trận ấy, trong xóm lại có tiếng tru chéo rất quen thuộc của một bà trước cũng làm Máy tơ, nhà ở ngõ trong giáp vách với nhà bà cụ Xim:
- Tao thí ngay cho mày một nhát rồi tao đâm đầu xuống hồ thôi! Tao mất công, mất việc, nhịn đói, mặc rách, khổ đến thế nào cũng cố chịu, để mày được đi ăn đi học tử tế, vậy mà mày không biết thương tao! Tuần nào mày cũng bỏ học ba bốn hôm. Cả ngày, tót một cái lại buông đũa buông bát, là mày ra hồ, ra đầm, đi các ao, các chuôm nghịch ngợm. Mày bảo mày bắt cá, thì những con cá đuôi cờ ấy đem nấu nướng để tế bố mày ấy à? Mày chỉ cho tao được nghe chửi. Người thả sen chửi đằng người thả sen, người thả cá chửi đằng người thả cá. Người có cây có cối chửi đằng người có cây có cối! Ới các ông các bà ơi! Ới mấy ông trương tuần, mấy ông gác đầm ơi! Các ông làm phúc túm hộ nó cho tôi... Nó đã chạy ra gốc sung ở bờ đầm kia kìa! Hay các ông phang cho nó một cái tay thước, cho nó giập đầu gối, ống chân, thì tôi xin sống tết chết giỗ các ông! Giời ơi! Có ai khổ như tôi không? Nhà hết cả gạo, vay mãi mới được một ống cân, mà nó nỡ lòng lấy đi hẳn một bát rưỡi đem thổi nấu cho các bố nhớn, bố bé ăn. Ối các ông Nhật bên trại ấy ơi! Cái thằng nó đang ôm quần áo chạy kia nó định rủ nhau vào kho các ông cướp đấy! Các ông cứ lấy súng mà bắn nó cho tôi!...
Mẹ Nghĩa rằng nhổm ngay lên:
- Con nó hư nó nghịch thì dạy thì bảo, không được thì đánh, việc gì mà phải nào giết nó, nào hủy hoại cái thân mình. Còn như nghèo đói khổ sở quá, thì của kho đấy, bảo nhau đi lấy được bao nhiêu thì cứ lấy. Tội vạ cái đéo gì mà phải chịu bắn?! Và giống người gì lại đi tri hô đem bắn con mình?!
- Thế mẹ bảo mẹ đem trôi sông thằng Nghĩa thì sao? Bà cụ Xim chờ mẹ Nghĩa rằng im hẳn mới nhẩn nha hỏi.
Mẹ Nghĩa rằng cười, ngượng nghịu:
- Chuyện! Đây nó đã lớn đã biết nghĩ rồi, và cũng được nghe điều này lẽ kia mà còn hư! Mà lại hư cái kiểu đua đòi với các con nhà giàu có ăn không ngồi rồi, chẳng phải làm lụng gì!
Mới hơn chín giờ. Nắng to. Con đường từ ngõ trên xuống xóm bà cụ Xim ở và chợ làng dưới kia càng vắng. Nếu có người dân đây đi xa đâu mấy năm trở về, họ sẽ không thể tưởng được rằng mình lại đi trên con đường ngày trước. Gần như không gặp lại một ai làm ngoài Sáu Kho, Máy Tơ hay trên phố và cũng không thấy có người nào đưa cơm nước gì cả. Rồi một bà già đi đón hàng, một đứa bé đi kiếm đi nhặt bó phoi bào, cuộn giấy dầu, những mảnh ván thùng cũng không! Cả bến Sáu Kho chỉ có mỗi cái tàu dỡ hết hàng từ nửa tháng nay không biết sẽ được xếp hàng gì đây, và ba bốn sà lan than cũng chầu chực ở đây không hiểu để thi đỗ trạng nguyên hay sao?!
Quãng đường ngoài xóm nhờ hôm nay phiên chợ chính dưới làng nên mới có những người trên phố xuống mua con gà, nải chuối, chục trứng và đong đấu gạo nếp, đấu đỗ xanh, và mấy người bán hoa quả đi đi về về. Còn thêm mấy bọn trai gái không biết làm việc gì, họ đèo xe nhau đi xem chùa, xem đình, xem cây đa, cây gạo, rồi vào chợ ăn bún riêu, ăn mít, ăn lạc luộc, để có những cảm giác thích thú là lạ sống cảnh thôn quê trong những ngày nghỉ hè không ra tắm biển Đồ Sơn.
Đúng mười giờ, đoàn ngựa nhà binh Nhật thả ở các bãi, các cánh đồng vùng dưới đã về. Dạo này không thấy những quan cưỡi ngựa đeo gươm dài vỏ mạ bạc, mạ vàng, buộc kim tuyến bện chỉ đỏ, đi ủng bóng lộng, ngồi cao lênh khênh, mắt một mí nhìn lừ lừ không thèm biết những ai đi đất, qua chân ngựa của mình. Chỉ có một người cưỡi ngựa, không gươm ủng gì cả, cũng quần cộc đụp đũng, giày vải bít tất ngắn, lủng lẳng cái bình toong đựng nước bên hông, cổ choàng một khăn bông màu nước dưa. Tất cả những lính khác cũng ăn mặc như thế, đi lẫn trong từng đám ngựa, hò hét ầm ĩ.
Những con ngựa màu nâu sẫm, màu lửa, màu gỗ mun đầu cao quá cả những mái nhà lá bên đường, mông đùi béo ních, vừa đi vừa hí, chồm chồm đuổi cắn nhau. Bọn lính đón trước chạy sau, mặt mày càng đỏ bừng, mồ hôi có thể vắt ra cả ở lưng áo, ngực áo, cuống cuồng như mất trí. Vì họ có thể què, có thể mù hay vỡ đầu dập mặt, chứ ngựa thì không thể được.
Toán đầu đến gốc đa thì dừng lại. Bãi chỗ bà cụ Xim ngồi tuy nép mãi vào búi râm bụt và một bờ tre, nhưng vừa thoáng thấy tiếng ngựa và bóng lính, bà cụ liền kéo ngay giành nước vào hẳn búi tre và quơ quơ các ghế gọn lại một đống. Mấy toán cuối dồn lại ở bờ rào một tòa nhà xây toàn bằng xi măng cốt sắt, tường mài nhẵn giả đá hoa, mái cong lợp ngói ống, trông không ra đình cũng không ra chùa, cửa tròn và bán nguyệt, chấn song không ra chữ thọ hay hình kỷ hà, gọi là kiểu mới nhất thời đó. Sau lưng nhà này là một tòa gác ba tầng, kiểu khác hẳn, như một lô cốt hay chòi canh rất nhiều cửa song sắt. Thượng tầng dựng tấm hình thống chế Pêtanh bề mặt đến mười thước vẽ sơn dầu, dưới đó lắp một biển tôn cũng kẻ những dòng chữ ghi lời tâm huyết của lão quốc trưởng "...Nhờ có sự bại trận mà mối đồng tâm nhất trí của quốc gia được thắt chặt. Quốc dân nên hiểu rằng cơ phục hưng đã bắt đầu mà các người đương noi theo đường chính"... Tuy được kẻ trông người giữ và ở một chỗ râm mát nhất, bờ búi toàn tre ngà, liễu và ô rô, nhưng đám ngựa này vẫn hí, vẫn chồm và cắn húc nhau. Bãi cỏ đã lụi càng bị cày lên, ỉa đái bừa bãi.
Mặt trời chói rọi trên cao. Tấm hình thống chế quốc trưởng như bị nướng phồng lên trong nắng. Cặp mắt nheo nheo suy nghĩ nhăn nhúm thêm, khiến vẻ mặt càng ảo não phờ phạc một cách khó hiểu mà cũng rất dễ hiểu.
- Giời đất ôi! Càng ngày càng kéo đàn kéo lũ sang như dòi thế kia thì bao nhiêu thuế má cho nó vừa!...
Mẹ Nghĩa rằng ở chợ về, cắp rá gạo trên có mấy mớ rau muống, rau kinh giới, húng quế. Mẹ khoe chỗ gạo đong được của một người bán ế rẻ những ba xu, gạo lại rộng hạt, rồi đưa cho bà cụ Xim một gói trầu không. Thấy mấy con ngựa cứ nhảy cẫng nhảy bừa ngay gần chỗ bán hàng, mẹ ta lại văng tục định nói nữa, nhưng thấy bà cụ Xim suýt tiếng can ngăn liền thôi. Mẹ đưa gạo về nhà, thổi cơm cho cả bà cụ và mẹ con nhà mình.
Cũng nhờ có đoàn ngựa và lính Nhật mà hàng bà cụ lại đông khách. Vẫn là những người làm ăn lam lũ, lôi thôi rách rưới, ở trên phố về đến độ đây nghỉ, gặp lính tráng ngựa nghẽo là lạ vui mắt, nên họ ngồi lâu hơn, có người uống hai bát nước. Bà cụ Xim bán được thêm mười bát nữa. Có bát hai xèng, bát một xèng, tất cả được sáu xu rưỡi. Tính thêm tiền buổi sáng là hào ba. Phải đúng một hào ba xu. Như thế hôm nay lại bằng hôm đầu kỳ tiền đắt khách nhất. Nhưng bà cụ lại ân hận. Có đồng năm xu mới ban nãy đã đưa cho mẹ Nghĩa rằng đong gạo.
Từ ngày bà cụ Xim ra gốc đa bán nước kiếm được mỗi ngày từ hào hai, hào rưỡi đến hào bảy có khi hai hào, không phải vay mượn nữa, thì bà cụ có ý định bỏ ra mỗi ngày năm xu. Món tiền này sẽ để dành nhiều tháng. Tốt nhất được gặp Xim, đưa tận tay cho Xim, để chính mình được cùng con đóng góp công sức với Đoàn thể với Cách mạng.
Chao ôi! Đoàn thể và Cách mạng như là sông là biển, là thành là lũy, là ruột là thịt của cái thân phận và cuộc đời bé nhỏ, yếu đuối, nghèo khổ của Xim đang bị săn đuổi, trong tầng tầng lớp lớp mạng lưới mật thám và nhà tù, có những kẻ còn độc ác hơn cả thú dữ, chỉ nhằm nhằm xâu xé, nhai xương nuốt thịt Xim. Đoàn thể và Cách mạng mà trước đây hơn mười năm bà cũng được biết một phần là thế nào rồi. Nghĩa là sự sống của bà cũng như tất cả mọi người cùng khốn như bà chỉ có gắn bó vào đây, thì mới thoát ra khỏi những xiềng xích gông cùm, thật là được làm người, làm việc và sống chính đáng với mồ hôi công sức của mình! Chao ôi! Đoàn thể và Cách mạng đã bao kẻ chết, người tù đày, hy sinh không biết ngần nào, nhưng tuyệt nhiên không ai hé răng kể lể thở than, coi mọi việc của mình chỉ là những hạt muối góp vào biển cả. Đoàn thể và Cách mạng ấy là của Xim, của các đồng chí của Xim, của các quần chúng cơ sở và của tất cả con người lao khổ đang bao bọc Xim và cùng Xim chiến đấu trong một bước gian nan vô cùng với hai thằng Nhật - Pháp thống trị ngày nay.
- Nó trốn đi như thế đúng bốn tháng hai ngày rồi đấy, mà vẫn chưa có tin tức liên lạc gì về nhà cả! Như thế lại hóa hay. Nó hoạt động có giữ được hoàn toàn bí mật và thông thoát thì mới im ắng bằn bặt như vậy. Nghĩ lẩn mẩn, nếu như bây giờ được tin nó, rồi được gặp nó ở Sở Mật thám Hải Phòng hay Hải Dương, Nam Định... thì...
Quãng đường làng vắng lặng hẳn đi khi đoàn ngựa và lính Nhật kéo nhau lên khỏi ngã tư. Khách uống nước chỉ còn hai người định lên phố nhưng sợ nắng. Vừa phần họ như có vẻ sốt rét hay phù thũng làm sao ấy. Mẹ Nghĩa rằng đưa bữa ăn trưa ra cho bà cụ Xim. Một bát cháo đỗ đen nấu đặc, và mấy miếng cà bát dầm tương thái nhỏ. Đón lấy cái rổ con của mẹ Nghĩa rằng, bà cụ chưa ăn vội. Bà cụ chọn chọn ba quả ổi mỡ gà và ổi đào chín:
- Bá Nghĩa thử ăn cái giống ổi này xem. Có ngọt có thơm bằng lê táo Vân Nam không?
- Kìa sao bà lại để phần cho con nhiều thế?
- Tôi cũng ăn rồi. Ngon quá!
- Bá ăn cháo đi.
- Hãy gượm. Tôi chưa muốn ăn mà! Có lẽ ăn mấy quả ổi nên nó ngang dạ.
- Bà là đến hay, trẻ con mùa này ăn nhiều ổi, ị còn nứt đít ra nữa là người yếu bụng yếu dạ như bà!
- Không phải đâu, hoa quả chín thơm mát ăn tốt lắm. Tôi chưa muốn ăn cháo vội là vì chưa thấy đói đấy thôi!
- Từ sáng đến giờ bà có được hột cơm hay miếng quà bánh nào vào bụng đâu mà chưa đói? Bà là hay nghĩ ngợi lắm! Người làm ăn lam lũ, giờ lại già yếu, đã không được một năm vài chén thuốc bổ, vài thang thuốc tễ, mà chỉ có bát cơm thì phải cố mà ăn. Thế rồi yếu mệt ăn được có bát cháo, lại định nhịn nốt, thì để sống hay chết?! Có thế nào chỉ khổ cái Xim thôi! Và bà làm cho kẻ nọ người kia ở chung quanh bà vừa buồn vừa xấu hổ với nó. Chẳng cần phải nói năng dặn dò, nó ra đi như thế là bắt buộc chúng tôi phải chăm lo cho bà. Chúng tôi sống thì bà sống! Chúng tôi đói khổ thế này hay hơn thế nữa bà cũng vẫn sống. Có thể chúng tôi sau đây mới dám dàn mặt nó và mới dám nhìn mặt các anh em...
Mẹ Nghĩa rằng vừa tắm gội xong. Tóc mẹ như mớ rễ tre xòa xuống thái dương xuống cổ và đôi vai toàn những sẹo là sẹo. Nào mụn nhọt, nào vấp ngã, nào bỏng cháy và cả đánh đập nữa. Mẹ vẫn cởi trần. Chiếc yếm của mẹ mới thay cũng vá cổ, vá ngực, vá hai bên lườn, giải thì nới. Cũng cái quần cắt đến gần đầu gối, đụp không biết bao nhiêu chỗ. Nhưng lạ quá, từ cái trán ngắn dô dô, đôi con mắt quăm quắm, cái miệng của mẹ ta lẹm một miếng môi, răng nanh xiên hẳn ra, mỗi lần nói lại dau dảu, dau dảu, bà cụ Xim đều thấy tươi tỉnh hiền lành.
Bà cụ lại nghĩ lâu nay cách ăn nói và lời lẽ của mẹ Nghĩa khi dạy bảo thằng con cũng hết sức nghịch và bướng nọ, cùng với bao nhiêu cách đối xử, không những với bà cụ mà với các bà con hàng xóm chung quanh, mẹ Nghĩa đều tỏ ra như một người đã được đến với ai tuyên truyền giác ngộ cho phần nào rồi! Nếu như con mẹ cái Bé nhà này đã có liên lạc về với mẹ Nghĩa và mẹ Nghĩa đã được tổ chức chú ý là điều hay nhất, không thì ta sẽ lựa nhời tìm cách bày bảo cho để mẹ được cơ sở trong này bắt liên lạc giáo dục cho mẹ. Ai không biết, chứ mẹ Nghĩa sau đây cũng được chọn làm cơ sở thì có thể tin cậy được. Nhất đán mẹ có bị lộ bị bắt, chết thì chết, tù thì tù, chắc mẹ cũng vẫn giữ được tinh thần.
- À bà chưa ăn ngay, bà chờ con một tý... rồi con có chuyện này hay lắm!
Mẹ Nghĩa vẫn đầu không cùn cũn chạy đi.
Thì ra mẹ về lấy một tảng mật mía vàng quánh để bà cụ Xim ăn cháo.
- Bà nhỉ, đường này thế mà hóa ra ngon hơn đường tây. Tội gì đi chuốc những hai ba đồng cân đường trắng bây giờ?! Bà cứ ăn đi, con mua lại của người dưới thuyền được những hai cân kia. Con nhường lại cho ông bác con một cân rưỡi để nấu chè ngày kia có giỗ. Bà ạ, đến ngày kia thế nào bà cũng phải sang ăn cơm bên nhà ông con đấy! Mà bà đừng có vẽ vời đóng góp gì cả. Chỗ bà với nhà ông con, phải coi như người trong họ mới được. Ông con cứ áy náy chưa có rạ để lợp hẳn lại cái mái bên nhà ta. Ông con cứ mắng mãi con lần chần không chịu xuống các làng dưới nói với người ta bớt cho một bó rạ để dọi cũng được! Ông con cũng định nói xin cho nhà một miếng đất lối ra đầm để nhà trồng lấy mấy luống rau. Cái Lê lúc nào không bóc lạc, nghỉ học, thì nó chăm nom tưới tắm cũng đủ rau ăn.
Bà cụ Xim không những chỉ cầm có nửa miếng đường bằng hai đốt ngón tay mà còn xẻ lại già nửa bát cháo. Mẹ Nghĩa cứ phải giữ giữ lấy bát, giằng lại thìa của bà cụ:
- Bà ăn đi chứ, cố ăn thêm mấy thìa nữa. Phần cái Lê, phần cái Bé đủ cả rồi mà.
Bà cụ Xim vẫn không lên tiếng. Thật ra bà cụ lại nghẹn. Chính chứng nghẹn này nhiều bữa làm bà cụ phải bỏ cơm vì ăn thêm thì mệt quá. Mà cũng không phải bà cụ bị nghẹn chỉ vì hay nghĩ ngợi nhất là nghĩ ngợi cả trong lúc ăn! Bởi vậy bà cụ phải nhón nhén từng hột đỗ và nhuốt nhuốt từng miếng cháo nhỏ thật nhuyễn, rồi ngồi nghe chứ không bắt nhời chuyện với mẹ Nghĩa.
- Bà ạ, sắp bắt tay gặt mùa là ngày giỗ ông cụ Ước nhà cái Dâng đấy. Năm nay cái Ngọt nó đưa cả mấy đứa em nó về quê chồng trên ga Phú Thái, không biết cái Dâng nó làm giỗ ông cụ ở đây hay nó theo về trên ấy. Bà này, càng ngày ông cụ Ước lại càng thấy thiêng. Buổi sáng con tìm ra cái gáo cũ của ông cụ vẫn múc cữ nước chè tươi, thì đêm ông cụ lại về chuyện với con.
Bà cụ Xim đã xúc miệng uống nước, sắp sửa ăn trầu:
- Chuyện gì với bá?
- Chuyện tốt lành lắm.
- Ừ chuyện tốt lành, bao giờ ông cụ chả kể chuyện tốt lành! Nhưng là chuyện gì nào?
- Vẫn lại chuyện Người vàng lấp sóng biển Đông. Nhưng mà lạ quá, ông cụ kể chuyện mà về sau lại có cái Xim, à... cả mẹ La nữa!
- Ông cụ Ước kể chuyện dưới bếp, cả mẹ La và mẹ cái Bé nhà tôi ngồi nghe, thì lạ cái gì?
- Gớm chết, như thế còn nói làm gì, còn lạ cái gì! Đây vừa nghe ông cụ Ước kể vừa thấy thế này mới lạ... Bà ạ, lúc vào đoạn đầu câu chuyện cũng có cả con. Phải, lúc cô tiên giả làm người nàng dâu ở bên kia sông vào quán chờ đò, nhưng trời lại nổi phong ba bão táp, cũng có cả con. Con từng đi các cửa sông nhưng quả thật giờ mới thấy cửa Dầng là dữ. Đúng là Mười hai cửa bể đều phải nể cửa sông Dầng. Sóng gió mù mịt nghe như có thiên binh vạn mã xô xát ấy. Con đành về làng trong, để cô ta ngủ ở lại quán ông cụ bà cụ. Khuya, lúc cô ta đau bụng, vợ chồng ông cụ mang cám rang và nướng gạch cho cô ta chườm, rồi nhường cả buồng cả ổ cho nằm, thì, lạ quá ở trong làng, con cứ thấy thấp tha thấp thỏm không sao ngủ được. Đến gà gáy rạng sáng, con bỗng thấy cái Xim ở một nhà trong ngõ gần đấy đeo tay nải đi ra. Con gọi ngay nó, rủ nó ra ngoài bến. Chính nó và con tri hô lên vì thấy trong buồng đỏ ối; rồi nó và con chuyển tất cả quang gánh, gạo đỗ, chõng chiếu chỗ nằm cùng hóa thành vàng với cô ta, hai đứa cứ hoa cả mắt...
- Sao? Sao? Bá Nghĩa nằm mơ thấy mẹ cái Bé nhà tôi nó ở bến Dầng? Bá Nghĩa thấy nó khoác tay nải đi ở trong làng, bá Nghĩa gọi nó đến với cô tiên hóa vàng à?
- Thì con đã bảo con thấy nó và gọi ngay nó mà! Nhưng khi ra quán, lúc khiêng dọn các thứ hóa thành vàng, thế nào lại thấy thêm cả mẹ La, ba đứa cứ cuống cà kê lên.
Óc não bà cụ Xim bỗng nhoi nhói, bà cụ đau đáu nhìn mẹ Nghĩa: "Hay cái Xim nó đang hoạt động ở ngay bên Thủy Nguyên hoặc Quảng Yên. Hay mẹ Nghĩa muốn giấu ta nên nói tránh sang chuyện ông cụ Ước và chuyện mẹ nằm mơ!"
Bà cụ Xim nhấm nhấm những sợi vỏ, ăn thêm miếng trầu:
- Bá Nghĩa nói thế nào ấy chứ! Nằm mơ gì mà lại thành hẳn chuyện như thế?
- Thôi bà không nghe chuyện con, không tin cả con thì thôi! Con thì con cho rằng ông cụ Ước có quý bà, thì ông ấy mới về báo mộng cho con đấy! Cái Xim cũng như cô tiên giả làm người nàng dâu gặp phong ba bão táp phải chờ đò ấy, nó sẽ về với bà rồi hóa thành vàng để bà giúp đỡ mọi người... Còn bà cũng như vợ chồng ông cụ Bến ăn hiền ở lành, cưu mang mọi người, và lúc nào cũng tâm tâm niệm niệm mọi người nghèo khổ làm ăn chịu thương chịu khó, thủy chung nhân hậu, sẽ được sự sung sướng, nghĩa rằng nhất định sẽ có ngày đó. Phải, cái Xim nó đi làm việc để cùng mọi người cơ cực lên cái đời xã hội, nghĩa rằng khác gì cô tiên hóa người mình thành vàng, lấp biển giúp dân làm ăn cơm no áo ấm.
- Bá Nghĩa! Bá Nghĩa này! Bá nói năng cứ thế nào ấy!
- Con sờ đầu gối nói chân thật, chứ còn nói thế nào?
- Kìa bá chiều nay lên phố, thế mấy giờ mới đi?
- Đi đi về về lắm chỉ rạc cẳng. Con hỏi vẫn chẳng có than củi gì về cả! Cơ mầu lại đến nghỉ nhà hàng tuần nữa. Thôi trưa nay con bắt thêm giỏ cua rồi lại đi lên phố xe mấy chuyến gạch vụn và than xỉ về bán vậy. Còn bà xếp hàng lại, để con về gọi cái Lê ra dọn chứ.
- Chưa đứng bóng mà, tôi ngồi một lúc nữa, bán thêm lấy mấy bát. Hôm nay nắng. Chốc nữa hai bọn đi xe xỉ bên nhà máy Xi măng về uống là hết thôi!... (Bà cụ nhủ thầm) Mà mẹ đã bảo tôi không tin mẹ, thì giờ đây tôi tin vậy. Mẹ con cái Bé sẽ về, sắp về. Biết đâu nó chỉ đi qua đây nhưng không vào nhà vì đề phòng... Mẹ con sẽ gặp nhau chỉ một chốc một nhát lúc vắng vẻ, mà thoạt trông, ngay cả tôi cũng không thể nhận ra được nó, vì nó ăn mặc khác đi, chứ không thông thốc dễ dàng như trong giấc mơ của nhà bá Nghĩa đâu!
Đúng khi mặt trời ở đỉnh đầu, cây đa chỗ bà cụ Xim ngồi trông xa như có hằng hà sa số chim bạc, bướm vàng chới với. Tất cả những cành, những chạc, những gồ, những mấu, và lớp vỏ cây sần nứt đều rực lên như rắc một thứ phấn vàng quỳ. Chỉ mình bà cụ Xim ngồi dưới gốc, mái tóc lơ phơ gần bạc hết, mắt nhìn đăm đăm, thân hình càng thu gọn. Bà cụ như người trong bức tranh sơn dầu, nổi thành một màu sắc đặc biệt giữa khoảng trời mây, đồng ruộng, làng xóm, tre cau vắng lặng trong nắng trưa và gió Nam từ biển xa lộng vào.
Ngoài cánh đồng phía bờ đầm chỉ còn mấy bóng người lom khom. Đấy có cả mẹ Nghĩa rằng, đầu đội cái mê nón, vẫn đeo chiếc yếm rách che ngực, và mặc cái quần rách cắt khâu đến đầu gối. Bà cụ Xim nghe tiếng gió, cây cối và cả tiếng võng đưa, tiếng ru con không biết của ai. Những tiếng ru nghe rất quen thuộc, rất nao nuốt, chừng như người ru là một ai kia cũng đang nghĩ đến rồi đây cuộc đời áp bức bóc lột sẽ bị phá bỏ, mọi người sẽ làm ăn ấm no hạnh phúc, nhưng mà giờ đây thì phải chịu thương chịu khó vô cùng, không quản ngại bất kỳ sự hy sinh nào để giữ trọn tinh thần và ý nguyện của mình.
Đúng là bà cụ Xim đang nhìn Xim ở ngay trước mặt mình. Đúng là Xim ngồi với mẹ Nghĩa rằng, với mẹ La, trên những ghế gỗ bé xíu, chung quanh cái giành nước đan bằng mây đã bóng như sừng. Và ông cụ Ước sức vóc như một con gấu, lưng gồ gồ, vai u u, bắp chân bắp tay thịt như đắp, như xoắn, - một con gấu tóc bạc, lông mày, lông mi bạc, mắt sáng quăm quắm.
Cụ Ước chết thế mà đã hơn sáu năm, để lại cho bà cụ Xim những đồ lề của ông cụ kiếm sống mà mẹ Nghĩa không hiểu nghĩ ngợi tính toán thế nào, đã dọn nhà đi hết xóm này đến xóm khác, vẫn cứ gồng gánh na theo và treo ngay ở chỗ mẹ nằm, mặc dầu mẹ chuyên nghề đội than và chẳng bao giờ lại muốn rằng mình sẽ lại nhặt nhạnh từng trinh, từng xèng với từng bát nước.
- "Hàng nước của bà cụ là hàng nước nhân nước hậu, nước thủy nước chung... Người uống nước phải nhớ phải tìm!" Cái con mẹ ấy nói cứ như văn sách ấy! - Như có một nụ cười toàn bằng ánh hồng của hoa đào nở ra trong tâm trí bà cụ Xim. - Thế còn con mẹ nó đi làm việc cho dân cho nước, và sau đây cách mạng thành công thì những công việc ấy có vàng bạc tiền của gì đánh đổi được không? Có sung sướng hạnh phúc nào bằng không?
Người mẹ già tê lặng hẳn đi. Không chỉ là những nụ cười toàn bằng hoa đào nở ra trong tâm trí bà mẹ, mà còn thêm như là những cánh bằng ánh sáng đập đập và cất bay lên nữa. Nếu phút giây này Xim về nhà đi qua mặt mẹ thì đúng là bà cụ sẽ không trông thấy, sẽ không nhận ra, Xim sẽ phải ngồi thụp hẳn xuống bên cạnh mẹ mà nắm lấy cánh tay bé nhỏ và gầy xương, gọi nức lên:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ đang nghĩ ngợi gì thế! Mẹ ra đây bán hàng à? Mẹ ra đây bán hàng từ bao giờ? Sau ngày con ra đi, mẹ ở nhà sống thế nào? Mẹ ơi! Mẹ hãy định thần lại mà nhận ra con, mà nhìn lấy con. Mẹ ơi, mẹ ơi! Cái con năm ngày ba trận, nhiều đêm mẹ phải bế vác đi đi lại lại, ru cho tới sáng, cái con "khòm khày" "dấu dí" (2)ngày xưa của mẹ đây mà!
-----
[2] Còm gầy, xấu xí.
⚝ ✽ ⚝
- Cái con mẹ này, giời đã bắt mày phải chịu nhiều thứ tội rồi chưa đủ sao mà mày lại còn đeo thêm tội vào người mày nữa. Của chúng tao, chúng tao không ăn thì trút cho mày. Tại chật chội không thì mày cứ nuôi lợn ở đây, đỡ phải gồng gánh đi lại. Chỉ có mày biết nhớ đến bố mẹ mày, còn chúng tao thì là đồ vô loài cả phải không?
Cả ông đầu bếp già và người phụ bếp đều xúm vào mắng chửi mẹ La. Trong khi ấy, một người quơ tất cả chậu cơm và canh thịt, rau xào đổ ụp vào thùng nước gạo của mẹ:
- Thôi đi đi... Tối nay mười rằm mày cứ việc ở lại đền lại chùa mà cúng muốn đến bao giờ về thì về (và người nọ văng tục vẫn bằng tiếng Quảng Đông). Chiều thứ năm, con dê giết lại đến ế thôi. Téo mẹ những thằng lùn, đánh chó đá vãi cứt, quần đáp đũng, áo đụp khuỷu tay, thì còn dám bỏ tiền ra ăn tiêu cái téo gì.
Mẹ La nhặt nhặt vét vét miệng thùng không còn một hột cơm dính vãi. Mẹ toan xé nửa chiếc lá sen bỏ vào thùng để gánh khỏi sóng sánh, nghĩ lại thấy thế có vẻ kín đáo làm người ta tò mò, mẹ bèn rắc rắc thêm cộng rau, vụn vỏ khoai tây lên trên. Rửa tay xong, mẹ vào buồng vờ lấy miếng trầu ăn, để xem xét lại chỗ giấu tài liệu cho thật cẩn thận, đoạn chào mọi người xin phép ra đi.
Mẹ La lại đem truyền đơn và thư đến địa điểm liên lạc. Xim vẫn chưa về. Đặt các tài liệu bí mật cho mẹ lại là người phu xe cơ sở mà Xim đã tả cặn kẽ hình dáng và dặn kỹ mật hiệu liên lạc. Bác ta đỗ xe ngoài đường gần lối vào cổng khách sạn Thiên Tân, gõ cửa xin nước uống. May lúc ấy người phụ bếp đang bận làm thức ăn, nên mẹ La chuyện về Xim cũng được lâu.
Xim chưa về được Hải Phòng không phải vì mắc míu nguy hiểm mà vì bận quá! Vừa phải chạy công tác đoàn thể vừa phải làm việc để sinh sống. Khi thì Xim làm phu hồ, khi đi xe vôi gạch, sắt, gỗ. Xim khỏe hơn dạo ở nhà. Xim lại căn dặn mẹ La phải cố gắng học hỏi, phải nghe ngóng, thu nhặt thật kỹ thật nhiều tin tức và phải giữ gìn ý tứ, tùy cơ ứng biến, bình tĩnh đối phó với mọi sự bất trắc, và giữ vững tinh thần cho đến cùng.
"Cơ sở của Cách mạng là những người nghèo khổ. Những người nghèo khổ chỉ có đi theo cách mạng thì mới cất đầu mở mặt, mới có non nước giống nòi, gia đình hạnh phúc tốt tươi rạng rỡ..."
Không hiểu Xim đã nói với bác nọ thế nào, mà chỉ nghe bác nói lại thôi, mẹ La thấy người cứ như được tắm gội, được chắp vây chắp cánh, và chỉ muốn ứa nước mắt.
Mẹ La đến Vườn hoa đưa người thì trời bắt đầu chạng vạng. Chuyến nước vo này không đầy thùng nhưng vì nhiều cơm và khoai đậu nên cũng nặng. Mẹ La đỗ gánh còn để xem xét nghe ngóng. Mấy hàng nước ngồi đất ở giữa vườn đã lên đèn cùng mấy chiếu thầy bói, thầy tướng. Khách của họ vẫn là những con sen, thằng nhỏ, vú em, vú già, kéo xe đang lang thang vất vưởng đợi người gọi đi làm. Ngoài ra còn mấy đám du côn, gái đĩ, và đi làm linh tinh về đây tụ tập để chốc nữa nghe chèo hay cải lương của hai bọn xẩm quen. Một đám nữa đèn thắp sáng hơn và có vẻ sang hơn. Đó là hai hàng cơm gánh và một hàng thịt chó. Chó béo, thịt thái quân cờ bóp đẫm riềng mẻ mắm tôm quạt từng bốn năm xiên thơm ngào ngạt. Nhưng không phải là cái hàng lão La uống rượu ngày trước, ăn chằng phải gán cái nồi đồng, về nhà bị vợ đánh, rồi ra đầm sen tự tử.
Mẹ La không để ý đến cái hàng nọ, không phải vì mẹ đã quên hay không còn nghĩ đến lão La, nhất là thằng La. Mà chính vì tất cả tâm trí mẹ giờ đây chỉ còn biết có tập truyền đơn giấu dưới đít thùng đóng hai đáy của gánh nước gạo nặng, và những thằng, những đứa lảng vảng ở ngã tư, ở mấy cột đèn, loại chó con của các chó bố Tây cậu, Phệ, Chột v.v... Nếu như lần này chẳng may mẹ La bị lộ, bị bắt sa vào tay chúng nó, thì mẹ không ân hận một chút gì, mà chỉ đau xót vì công việc của Tổ chức Xim đã giao cho mẹ trong lúc gieo neo này phải bỏ dở không làm được đến cùng. Mặc dầu đầu óc tâm tư đang bừng bừng, rất căng như thế, mẹ La vẫn thoáng một ý nghĩ và mẹ thốt lên:
- Cha mẹ cái thằng giặc nọ, chuyến này mà nó ở với mình thì cũng có việc đây! Nó mà được theo cô Xim hay các anh ấy dạy bảo cho, làm gì mà chẳng nên người!
Chưa dứt câu, mẹ La liền vội cất gánh. Mẹ lại như chạy. Mẹ chạy như có thằng La cõng cái Lu đi trong đám đông ở đằng trước, cả anh em nó cứ ngơ ngẩn, ngẩn ngơ, rõ trông thấy mẹ mà lại không nhận ra mẹ, không biết có mẹ!
Bà hộ chùa ra đón mẹ La từ ngoài ngõ. Lợn trong chuồng đang rít, một con gây nái, một con lợn bột. Con nái của nhà chùa. Mẹ La gạn gánh nước vo vào cái ang, rồi đổ một nửa cơm và khoai, đậu còn lại trong thùng vào chậu, bóp bóp ngào ngào lẫn với chỗ cám toàn bèo là bèo. Trời tối hẳn, trăng đã lên. Mẹ La lễ mễ bưng chậu cám. Con bột ở ngăn bên trèo hẳn lên mép cọc chuồng, húc húc suýt làm đổ chậu, rồi cuống quýt khi thấy con nái đã sùng sục ăn rồi.
- Chết chết! Bá cứ cho ăn ngon thế này thì nhà chùa làm sao chạy được cám bã?! Đã toàn cơm gạo tám lại có cả thịt, cả khoai tây nữa!
Bà hộ cứ suýt soa. Mẹ La đang vun vun như đắp cám vào mõm con bột cho nó ăn, nghe thấy thế bèn nhủ thầm:
- Lợn ơi lợn! Mày nghe bà hộ nói đấy, mày phải mau ăn chóng lớn nhé! Mày ăn thế đúng là ăn sướng hơn mẹ con nhà tao dạo nào đấy!
Mẹ thẩm lẩm vừa ngắm nghía con lợn vừa tính đến tháng nào tháng nào sẽ được gọi người bán lấy tiền gởi cho Xim.
Ăn xong, cả đôi lợn nằm ềnh ra thở tưởng như sắp rực lên mà chết. Vừa lúc đó bà hộ đưa nước sôi lên nhà khách cho sư bà, mẹ La cạy cạy đít thùng lấy hai tập truyền đơn ra cất ở hòm thư bí mật trong cây hương ngoài vườn. Khi trở vào, mẹ ngắt vội nắm lá bưởi nói như phô cho bà hộ biết mình lấy để nấu nước gội đầu. Bà hộ đã chọn ba miếng trầu cau ngon nhất ướp hoa ngâu dúi vào tay mẹ La, lại còn thêm hai cái oản bằng bột phục linh gói giấy bóng kính và dán nhãn, hiệu trang kim của một bà hàng tấm trên phố đem cúng tuần. Thứ bánh này ông già khách đầu bếp đã ăn, cứ khen mãi là tinh khiết, rất ngon rất lạ miệng.
Gió thổi các hương hoa cau, ngâu, sói, mộc trong vườn chùa tỏa ra mãi ngõ ngoài. Mẹ La còn giắt thêm hai bông hoa sói vào vành khăn, gánh đi cứ thoăn thoắt. Trời đã trong, trăng tròn sáng cứ vằng vặc, lại còn nở còn cuộn những dải mây như dát vàng, dát ngọc dưới vành trăng. Đèn đường phố vàng đục, chụp trong những chao như mũ mấn bên ngoài sơn đen kịt. Mới tám giờ mà nhiều nhà đã đóng cửa. Cả những cửa hàng tạp hóa, thợ may, cắt tóc dọc đường bờ sông cũng vắng ngắt. Thuyền, đò, xà lan đỗ thưa, chỉ loi nhoi ngọn đèn dầu. Mấy lán củi lán than, lán gạch bỏ hoang gần hết. Con đường lão La thường đi về là con đường này đây, những đêm tối không có việc làm và thèm đến cồn cả người vì nhịn rượu đã lâu, chỉ còn cách cuối cùng là lại muối mặt mò về nhà với vợ ăn gỡ mấy bữa cơm. Cũng con đường này, mẹ La lại qua khu đề lao năm trước mẹ bị bắt giam rồi xử án, trại của mẹ trông sang trại chính trị, giam các anh em đồng chí. Cả vợ chồng nhà Sấm, cả các bác Chấn bác Lương mà mẹ La gặp ở nhà cụ Cam, nhà cụ Xim trước kia, cũng bị tù ở đây đấy!
Trăng như chiếu rực lên thêm bao nhiêu cảnh bao nhiêu việc ở trước mắt mẹ La. Mẹ La nhẩm tính số truyền đơn có đến bốn mươi tờ nếu phát đi trót lọt thì sung sướng quá! Nhất là nếu được truyền rộng đi những nơi như ngoài Sáu Kho của mẹ hay ở sở Xi măng, xưởng thảm Đờvanhxy, nhà máy sửa chữa Comben, Carông v.v...
- Như thế chắc là không phải chỉ mình cái Dâng nó phân phát? Và công việc này giao cho thằng La nhà này cũng được đấy! Vừa gan chí mề, lại thông thuộc các đường các nẻo, lại tợn tạo ranh mãnh...! Cha con mẹ nó!
Nhìn lên mặt trăng tia tia roi rói giữa những vẩy mây vàng mây bạc, mẹ La đang chớp chớp mắt, mặt hơn hớn, miệng mủm mỉm, bỗng giật mình, đứng hẫng lại ngay trước ngõ vào khu biệt thự của Thy San.
Đúng Dâng. Dâng ở một gốc cây nhô ra níu lấy đòn gánh của mẹ, thở hổn hển dại cả giọng:
- Bá ơi bá! Con cũng định xuống chùa đây.
Mẹ La cũng luýnh quýnh:
- Mày... mày xuống có việc... cô... cô có việc gì phải xuống ngay tối nay? Tôi đã giao kết với cô thế nào cơ mà. Thế tối nay các cô các cậu và ông chủ bà chủ lại không có nhà à?
Dâng đã trấn tĩnh. Dâng nhìn trước nhìn sau, tươi cười nói:
- Vâng, nhà lại đi vắng hết, vì thế con mới bảo là đang định...
Mẹ La bậm bậm môi:
- Không được định như thế! Làm công làm việc lúc nào cũng phải giữ đúng giao kết. Ngày mai, trưa hay chiều nghe ngóng cẩn thận rồi đến mà nhận thêm tài liệu.
- Không phải việc ấy, mà việc khác bá ạ! Con có thư cần của cơ sở gửi lên cho chị Hiền. Dâng nói tiếng Hiền bí danh của Xim, đặc biệt là tiếng chị, sao mà thấy thân yêu và kính trọng. Trong người Dâng cứ bồi hồi như một cô gái nói đến tên người trai của một tình yêu xa xôi, thiêng liêng cả đời mình gửi gắm vậy.
Còn mẹ La thấy Dâng bảo là thư cần của cơ sở phải chuyển cho Xim, thì ân hận ngay về tính nóng nảy bỗ bã của mình, nhất là đối với một người rất chi là hiền lành, cẩn thận, vào tuổi con cháu mình như Dâng.
Buổi đầu tiên theo lời căn dặn của Xim, mẹ La đến chùa làm quen với bà hộ rồi bắt mối với Dâng, mẹ La đã sửng sốt cả người, thấy người ấy lại là Dâng, cái Con trán nứt hơn bốn năm nay mới lại gặp. Phải Con trán nứt trước đây vẫn gánh bên nồi nước chè xanh, bên thùng thuốc lào và điếu bát cho ông cụ Ước ngồi bán ở ngõ đá lối vào dinh cơ của vợ chồng Thy San xê xế bến xà lan tràn than của mẹ La kia. Cái Con trán nứt người gầy gò, cả ngày cùi cũi làm bất cứ việc gì bố và em gái sai phái, mặt mày đăm chiêu, quần áo ngắn ngủn, rách rưới trông càng thương hại. Sau ngày ông cụ Ước mất, rồi đến khi bố bị bắt lên sở mật thám bị đánh chết vì tội a tòng lấy hàng của nhà binh, thì Dâng lại càng âm thầm, càng nhường nhịn, chịu khó, chịu khổ, người mới mười bảy mười tám mà cứ như đã đẻ một hay hai con và bị hậu sản. Đúng! Cái Con trán nứt ấy, tuy Xim không cho mẹ biết gì về công việc của nó, nhưng qua ý tứ và lời dặn của Xim, mẹ La cũng mong manh thấy phần nào sự quan trọng của người sẽ liên lạc với mẹ.
Còn Dâng, vốn đã dút dát, e thẹn, nên khi thấy cái người đến địa điểm của mình và nói đúng mật hiệu liên lạc lại là mẹ La, chính thật mẹ La, thì Dâng càng ngạc nhiên và vui mừng phải nói là vô cùng. Hôm nay Dâng vẫn mặc áo cánh nâu, quần thâm và không chùm khăn vuông. Dưới vành khăn rất lẳn, tóc ngôi rẽ giữa, vết sẹo càng rõ, nhưng gương mặt ngăm ngăm nâu thấy sáng sủa hơn cả đôi mắt lấp lánh, tinh anh khác hẳn trước, tuy vẫn hiền hiền dại dại.
- Bá vào trong lán này với con, à bá có phải vội về không? Dâng đỡ đòn gánh cho mẹ La, kéo vào ngồi ở bực đá dưới một gốc cây xoan tây, trong lán bỏ không.
Mẹ La giở trầu ra:
- Cô ăn miếng trầu với tôi nhé.
- Vâng bá cho con xin.
Lâu lắm mới lại ăn trầu, mặt mày Dâng phừng phừng, trong người cũng vậy.
- Bá này, chị Hiền có nhắn gì không?
- Nhắn thì vẫn cứ nhắn, nhưng công việc thế nào thì chỉ có cô biết. Chuyến này toàn truyền đơn đấy. Còn sách thì tôi chuyển chuyến sau.
- Toàn truyền đơn hả bá! Thích quá bá ạ! Chúng con đang mong.
Sợ mình quá trớn và lộ bí mật, Dâng nắm lấy bàn tay mẹ La:
- Chuyến trước rải hai mươi tờ thì đúng hai mươi người nhặt xem bá ạ. Ngoài Sáu Kho và bên Xi măng mừng lắm, chẳng biết có chuyền cho nhau đọc nhiều không mà thấy bàn tán cả ở các bến cầu, ở cổng lối đi qua sở anh tăng đăng (3)cả ở Lò nung, cả ngoài Bãi đá, cả trong xóm...
-----
[3] Hậu cần nhà binh Pháp.
Dâng ấp ấp nặn nặn, bẻ kêu cùng cục những ngón tay nham nháp xương xương của mẹ La:
- Chuyến bị vỡ này mà không có bá chắp nối thì khó khăn lắm đấy! Bá ơi! Bá chịu khó, bá hết lòng với phong trào quá! Bá đã đi giao thông lại còn đèo cả nước vo, còn nuôi lợn gây quỹ cho Đoàn thể nữa!
- Ơ kìa, khéo cái nhà cô này! Người đã có đầu óc mà lại còn đi nói vớ nói vẩn. Đã đói khổ, nhục nhã mà không chịu khó, không hết lòng với phong trào, với Đoàn thể, thì rằng chịu khó, thì rằng hết lòng với Tây với Nhật với chủ thầu Xi măng, chủ thầu Đờvanhxy, với sếp Bẩy mề đay, với thanh tra Tây cậu à?!...
Mẹ La rút bàn tay ra, tát nhẹ vào má Dâng rồi bỏ hẳn bã trầu ra.
Mẹ La lấy miếng trầu khác vê vê một mồi thuốc lào bằng đầu ngón tay út, miết miết hàm răng rồi mới ăn. Mùi thơm cay sực lên trước mặt Dâng. Dưới ánh trăng, Dâng nhận thêm ra không những da dẻ mẹ La càng cóc cáy mà tóc mẹ còn bạc nhiều quá, trắng hết cả chỗ mảng đầu ngày trước đội than thành sẹo.
- Cô Dâng này, thế trong Sài Gòn chúng nó đã đỡ bắt bớ bắn giết anh em bà con mình chưa? Nếu tôi mà được làm ở Sáu Kho thì thế nào tôi cũng hỏi các người làm dưới tàu cho ra các tin tức. Dạo này không hiểu thế nào mà cả các quan nhà binh với quan nhà buôn Nhật sang nhiều thế? Tất cả phòng gác sang nhất nhà Thiên Tân, quan nhà buôn Nhật chiếm hết. Mấy ông bếp khách kháo với nhau quân Nhật còn sang đóng nhiều nữa, rồi đây bất cứ hàng gì cũng phải qua tay họ, còn giấy bạc họ bắt in bao nhiêu là phải in ngần ấy.
Dâng có vẻ nghĩ ngợi:
(- Thảo nào nhà Thy San chẳng thấy xuất nhập hàng họ gì cả, lão chồng ngồi cứ buồn thiu ra ở trong buồng giấy, không còn thiết đưa ôtô cô vợ đi chơi, và cũng chẳng giao thiệp mặn mà với các lũ Tây như trước).
Mẹ La lau chau nói tiếp:
- Cha tiên nhân chúng nó, trăm tội chỉ đổ lên đầu nhà oản, lại chỉ những người nghèo khó dân mình chịu khổ chịu cực thôi. Mà chịu khổ chịu cực mãi thì ai mà chịu được!
Dâng lại nắm chặt bàn tay mẹ La:
- Lạng Sơn và Nam Kỳ không thành nhưng không phải là ta chịu thua đâu! Tài liệu hôm nọ chị Hiền gởi về là cuốn phân giải về cuộc nổi dậy trên Lạng Sơn đấy! Thua thì ta rút kinh nghiệm. Rồi đây tất cả anh chị em thuyền thợ, dân cày, bà con Việt Nam mình biết bảo nhau, có Đoàn thể, có Tổ chức dắt dẫn đấu tranh thì sẽ thành công, chị Hiền, chị ấy mà phân giải thêm điều này thì còn thấy rõ ràng nữa bá ạ! Nhất là chị ấy đọc thuộc lòng cho mà nghe đoạn cuối của bản tuyên truyền... à... tuyên ngôn của Việt Minh ta...
- Chết! Chết! Tý nữa tao lại quên mất! Nhà cô dạy tao mấy cái câu hát chuyến trước nhà cô hát cho tao nghe ấy nào.
Mẹ La bá lấy vai Dâng lay lay đập đập.
Cùng nhau đi hùng binh
Liều thân cho đời sống
Ta quyết chí hy sinh...
Nào anh em nghèo đâu...
Dâng cố lấy giọng êm ái ngọt ngào nhất vừa ngâm nga vừa hát. Tây Dâng và tay mẹ La đập nhịp theo vào tay nhau. Nước triều đã lên cao, lờ lờ như gạch cua, rào rào tung cả lên chỗ hai người ngồi. Những đợt sóng lấp loáng ánh trăng, dội theo gió ngoài cửa sông Tam Bạc thổi vào ù ù. Cả hai gương mặt mát mát tê tê. Cả bốn con mắt đều long lanh trông xa phía nhà máy Xi măng và bến tàu Sáu Kho và ngước nhìn lên trời ngời ngời vành trăng như không thấy mỏi thấy chán.
Dâng sắp chắp thêm được một mối nữa cho Tổ chức: Sơn. Không phải chỉ vì có báo cáo của Cam lên Thành ủy mà còn vì sự phân công theo dõi của Dâng về tình hình phong trào của mấy vùng thôn quê miền biển, về những dân chúng chạy loạn, những học sinh, nhà giáo, đặc biệt là mấy cơ sở nông dân chung quanh ấp An Sinh. Sơn có thể sẽ được liên lạc với Cam: Sơn anh học trò rất giỏi rất ngoan con một ông ký đầu bàn giấy nhà buôn to. Nhưng còn một người nữa cũng của Xim phân công cho Dâng phải báo cáo mọi mặt sinh hoạt, và người này lại quen thuộc thân thiết như một họ hàng ruột thịt của Dâng: Thanh, Thanh đã cùng đi tha hương cầu thực trên một chuyến tàu với Dâng, đã ở cạnh nhà Dâng và cùng sống những ngày đói khổ. Thanh không công ăn việc làm cứ sáng sáng ra đi với Dâng lên phố, và chính ở đầu ngõ đá lối vào biệt thự của Thy San đấy, Thanh thường ngồi thờ thẫn bên chõng hàng của ông Dâng mà mỗi khi múc nước, rót nước cho Thanh, sao Dâng cứ thấy run thấy nóng cả trong người. Phải! Cái cậu giáo Thanh ấy có một thời kỳ tích cực tham gia phong trào, bị sở mật thám nhốt hàng tuần, sau bỏ lên Hà Nội đi làm các nơi, gần đây thì về ở với mẹ và lại dạy học tư như trước. Trước và nay, Dâng vẫn thấy Thanh là người đứng đắn, rất tốt cơ mà! "Là người trước cũng như nay Dâng vẫn thấy rất tốt, rất đứng đắn, và đang như có ý tìm gặp Dâng, vậy Dâng phải làm sao"...
- "Làm sao... làm sao... Dạo này tao thấy nhà cô khác lắm rồi!... đấy!" Dâng lại thấy nóng và như chín cả gò má, nhất là ở chỗ sẹo trán mẹ La vừa xỉa xói một cách yêu mến. Dâng lắc lắc đầu, vội chuyển những ý nghĩ sang những công việc khác...
- Con chả lấy bánh của bá đâu! Bá cầm về quà cho các ông bếp, hay để con gửi bá Nghĩa rằng đem biếu bà cụ Hiền và hai em.
- Cái con quái này!
- Con đã bảo thế mà! Thôi bá có cho thì cho con hai bông hoa sói kia vậy. Bá mà còn làm dáng! Về nhà các ông bếp khách cười cho thì chết.
Mẹ La lại gí ngón tay vào cái trán sẹo của Dâng và mắng yêu:
- Việc gì mà tao chết! Thôi đây mày đã thích thì tao cho lại. Nhưng này tao bảo: muốn thế nào thì thế, nhà cô phải ăn mặc sao cho lành cho sạch, chứ không được diêm dúa đua đòi như những đứa nào đấy nhá!
Mẹ La quẩy đôi thùng nhẹ không, dưới đáy một chiếc cất bức thư của Dâng báo cáo mấy việc sau đây: Dâng đã điều tra Sơn rất đầy đủ, nên chắp liên lạc sớm cho Sơn với Cam; Cam vẫn đi làm ở nhà máy Xi măng, buổi rải truyền đơn giải thích về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vừa qua, Cam làm rất tốt, và tinh thần mấy cơ sở quần chúng của Xim vẫn giữ vững, mặc dầu đã có lần sở mật thám gọi cả họ và bà cụ Xim lên tra hỏi.
Mẹ La về đến nhà khách sạn Thiên Tân vừa lúc nhà bếp đang sắp tiệc rượu đêm cho gác ba. Tiếng đàn hát nỉ non dười dượi vẳng xuống cả dưới bếp cùng với tiếng giật nước đổ nước ầm ầm ở các phòng tắm và chuồng xí. Khu vườn hoa bến sông và đường phố chung quanh khách sạn càng vắng lặng. Cả Hải Phòng im lịm, kiệt xác càng vắng lặng...
⚝ ✽ ⚝
Sáng nay mấy khu phố chính Bônbe và Cầu Đất lại nhộn hẳn lên. Đội bóng đá Mỏ neo sừng sỏ của nhà binh trên Hà Nội lại xuống đá với đội Ôlempích con cưng của Cảng Hải Phòng, trên sân ngõ Cố Đạo. Ở hiệu ảnh Phăngtagia lại bày thêm hai ảnh vẽ chì chân dung một thi sĩ và kịch sĩ nổi tiếng trên Hà Nội. Họ vừa xuống để thay vai trong vở Bóng kiều nương diễn đêm qua của ban kịch Hồn hoa, gồm những nghệ sĩ tự do không theo nhóm văn đoàn hay nhà xuất bản nào, mà chân dung cũng do một họa sĩ Cao đẳng mỹ thuật vẽ chì đã trưng ảnh tại hiệu Phăngtagia hàng tháng trước cho tới nay mà vẫn đông người xem. Đám khán giả nọ còn phục còn quý chân dung các kịch sĩ Hà Nội hơn cả những đào kép xinê phương Tây đóng khung kính rất to rất lạ, treo ở rạp chiếu bóng cùng phố.
Đấy là phố Cầu Đất. Còn ở đường Bônbe thì sáng có hòa đàn Phi Luật Tân ở Vườn địa đàng cũng là một rạp chiếu bóng to, cuộc trình diễn có cả hát. Người hát cũng như bài hát nghe đâu mới ở Sài Gòn ra, đã luyện tập rất công phu với những mục mới nhất gồm các điệu hát Nhật. Riêng rạp Con chim sâu trước đây chuyên chiếu những phim Mỹ đặc sắc và lâu nay chỉ chiếu có phim Pháp toàn phim từ năm 1936, 1937, thì từ đầu năm bắt đầu chiếu luôn luôn phim Nhật.
Một việc nữa cũng làm đầu đề cho câu chuyện là, một cửa hàng chuyên bán cho lính Tây ăn uống gần khu phố này, lại đề biển bằng phấn xanh đỏ rất bay bướm: "Có sốt vang dê! Cơm Tây đặc biệt mỗi bữa năm hào có rượu vang". Và ở một cao lâu Tàu cũng treo biển ngoài cửa, nhưng dán giấy hồng điều vừa chữ nho vừa chữ ta: "Sáng nay ăn điểm tâm có xíu mại tôm, cơm trưa chiều cua bể năm món giá đặc biệt một đồng"...
Mẹ La cũng đi ngoài đường buổi sáng nay. Nghĩa là mẹ lại đi giữa ban ngày và lần này là lần thứ bốn kể từ ngày trốn tù ở Hà Giang về. Không như lần thứ nhất nón mê, áo rách, đeo bị, một bàn chân quấn giẻ đi khập khà khập khiễng, mặt mày vàng vọt ngờ ngạc, trông mẹ La như một thứ hồn ma bóng quỷ từ nhà thương làm phúc hay trại tế bần nào bị đuổi ra. Và khi đến cái vườn hoa bến tàu Tây điếc ở đầu đường Bônbe, mẹ vẫn còn sức nhưng cứ phải đi lom khom, ì ạch, ngồi xuống một hàng nước, mẹ vừa rên rỉ vừa nói mua một xèng nước chè xanh uống đoạn thì hút nhờ điếu thuốc. Mẹ đã say, suýt ngã ềnh, khiến nhiều người đã để ý đến mẹ, nhưng càng thấy vừa thương vừa ghê ghê rằng sao có một con mẹ cu ly ở mỏ nào sốt rét ngã nước lần về Hải Phòng lại thảm hại kinh khiếp đến thế!
... Mẹ La chít khăn vuông thâm, mặc áo cánh nâu cũ đáp hai miếng ở vai và cánh khuỷu quần chéo go đã rung rúc, lại gánh nước vo. Khác những chuyến chạy tài liệu trước, đi lúc ban chiều, chuyến này mẹ che một miếng vải màn cũ mấp mé trán cho cẩn thận. Vẫn đôi thùng, một chiếc đóng đáy kép. Tài liệu kỳ này có thư của Xim đồng ý để Sơn liên lạc sinh hoạt với Cam và Vi nhớn. Xim lại dặn thêm Dâng phải điều tra nữa về Thanh, cho Xim nắm được thật tỉ mỉ và chắc chắn sự làm ăn sinh sống của Thanh và gởi báo cáo gấp ra.
Tới kỳ này rồi Xim vẫn chỉ nhắn lời về thăm mẹ chứ không gửi thư gì cả. Đã mấy lần mẹ La vén miếng vải che mắt định cởi nhưng lại thôi. Nắng to, mẹ không thấy chói mắt chỉ thấy vướng. Mẹ muốn nhìn đầy đủ hơn, rõ ràng hơn mọi người và cả mọi vật nữa. Mọi vật không phải là những lồng gà, vịt, chim, ngỗng, những mớ lông, mớ lòng, mớ rác, những ống máng rêu gỉ, những lò bếp, những nồi hầm chảo rán, những cặp chả mà nhiều lúc mùi vị và hơi nóng của nó làm mẹ thấy khó thở quá chừng. Và những mặt tường cao ngất càng khuya càng vang xuống những tiếng đàn hát õng ẹo, tiếng cười nói đủ giọng đĩ thõa, phè phỡn. Không phải chỉ có ngày ngày tháng tháng mà hàng năm rồi, mẹ chỉ được trông thấy trời cao thẳm sâu trên đầu với ông mặt trời hay những ngôi sao và vành trăng rất cách biệt mẹ, nên bây giờ mẹ nao nức cả người còn hơn cả những ngày trước ở tù trong trại tạm giam chờ xử án.
Từ mọi vật sáng sủa, thông thoáng, chuyển động ở gần cũng như ở xa, thân thuộc cũng như mới lạ ấy, mẹ La chờ đợi một sự xuất hiện này: dấu vết hơi hướng của anh em nó, hay chính là anh em nó, đúng là anh em nó. Chao ơi! Thằng La v