Thời Kì Đen Tối Chương 6
Đúng ngày mẹ La trốn Hà Giang lần lần về được đến Hải Phòng, thì thằng La phá nhà Đờvanhxy, đem em lên Hà Giang tìm mẹ. Nó đón ôtô hàng ngang đường rồi xuống ga Gia Lâm, vào ngay phố chợ mua một bộ quần áo nâu đã rung rúc mặc, và cũng thay cả quần áo cho em. Anh em La lại đáp ôtô lên Tuyên Quang. Cái Lu mọi ngày ngớ ngẩn là thế, nhưng từ hôm ra đi với anh, nó có vẻ khôn hẳn lên tuy càng ít nói và càng ngơ ngác. Còn thằng La hoàn toàn là đóng kịch và cũng rất ít nói. Một đôi người khách đi xe, đi đường thấy hai anh em nó đi xa như thế có hỏi chuyện, thì thằng La nói rất ngắn gọn và vui vẻ rằng anh em nó lên với bố mẹ làm gỗ làm than. Người nào tò mò còn hỏi nhà cửa, quê quán, tên tuổi và chỗ làm của bố mẹ chúng nó, thằng La lại bịa thêm chuyện và chuyển ngay sang thế khác. Nghĩa là nó tìm đủ cách để dò hỏi lại tin tức của mẹ.
Anh em La phải ở lại Tuyên Quang hai ngày để chờ ôtô. Ngày thứ nhất, ngày thứ hai, khi lên ôtô, thằng La càng thấy ruột gan cứ như lửa đốt. Chắp nhặt lại các tin tức ở trên xe, ở nhà trọ và ở cả các buổi lê la hỏi han những người nhà pha đi làm cỏ vê, những người buôn bán ngược xuôi bến sông ngõ chợ, thì La láng máng biết rằng mẹ La đã trốn tù, nhưng hình như bị ốm chết ở dọc đường nếu không thì bị bắt lại rồi. Càng nghĩ, La càng thấy cứ phải lên đến Hà Giang. Nhất là vì mẹ La bị bắt lại. Và La càng thấy phải cẩn thận hơn nếu không hai mẹ con cùng bị cả, thật ai oán vô cùng. Ai oán vô cùng, vì mẹ La và La nếu có bị tù, hai người đều sẽ chịu được. Nhưng nhỡ cả cái Lu cũng bị bắt! Nó không theo mẹ theo anh vào tù, thì sẽ ăn ở với ai, bơ vơ, sống chết ra sao?
May quá, trên xe La làm thân được với một người cùng tỉnh và đang làm phu lục lộ đường Bắc Quang Hà Giang. Buổi tối nghỉ lại giữa đường, La đã đun nước cho bác rửa mặt, nướng gạch và kiếm lá ngải cứu chườm lưng cho bác, và đi tìm được đúng cút rượu ngon để bác uống, rồi nói "thật" với bác chuyện nhà như sau: "Bố La chết, mẹ đi lấy chồng, anh em La ở với người họ khổ quá, đã bỏ quê ra Hải Phòng lần hồi. Nay đoạn tang được hơn năm rồi, La dành dụm được ít tiền, nhớ mẹ, La cứ liều đưa em lên đây tìm mẹ, tuy rằng chỉ được nghe phong thanh chỗ ở của mẹ". Hồi La ở Hải Phòng làm gì? La bảo tập được nghề cắt tóc và làm phụ bếp. Thế là bác phu người cùng tỉnh nọ bảo anh em La cứ yên trí, hãy ở với bác ít lâu, để bác hỏi tin tức cho. Hơn nữa, nếu anh em không tìm được mẹ, thì bác nhận làm con nuôi, bác sẽ xếp cho La một chỗ cắt tóc gần lán bác, La sẽ vừa cắt tóc vừa thổi nấu cho bọn bác và ông tài xe hồ lô ăn uống, dần dà xong đây, anh em La sẽ theo bác về xuôi.
Tất cả bọn làm đường ai cũng khen bác Kiến An có thằng cháu sao mà thật thà ngoan ngoãn. La không những chỉ chăm nom cho bác của La, mà còn săn sóc nước ăn nước uống, xếp dọn chỗ ở cho lán phu. Nhưng, càng được quý mến bao nhiêu, La càng thấy người như nung như nấu bấy nhiêu. Hơn nửa tháng rồi, La vẫn chưa được tin gì đích xác về mẹ. Sau đó La đi luôn ba phiên chợ Hà Giang. La lân la hỏi chín mười đám nhà pha trong đó có cả bọn cùng làm cỏ vê ở nhà thương với mẹ La và những bà cùng trại với mẹ La. Đúng thực mẹ La đã trốn tù nhưng có thể bị ốm còn nằm quanh quẩn vào quãng gần Tuyên Quang nào đấy. Sống chết thế nào không rõ, còn bị bắt lại, chắc chắn là không. Nếu có, thì hoặc đã bị bắn chết, xẻo tai đem về, hoặc đang nằm cùm và ăn cơm nhạt trong xà lim.
La bỏ Hải Phòng lên đây đã hơn ba tháng. Hôm nay sắp hết tháng Sáu, sau tháng Bảy ta. Xế trưa, La đang sắp xếp bộ đồ cắt tóc định lại xuống mấy bến sông nơi các bè gỗ và thuyền buôn, hay La lại vào mấy bản có lẫn thợ sơn tràng ở khu rừng trong để nghe ngóng hỏi han, thì thấy có tiếng ôtô xình xịch rồi tiếng người ồn ào:
- Giải tù! giải tù! Có chuyến xe giải tù lên Hà Giang hay bắt người đi đâu mà đông thế kia?
- Không phải tù đâu!
- Không là tù sao lại có lính khố xanh súng ống áp tải?!
- Tù gì mà không bị xích bị trói, và lại ăn mặc như vậy?
Hai xe hàng to đỗ lại gần cầu. Hơn chục lính xuống xe trước, dàn ra. Có một người đeo súng lục, lon tay hai đỉa vàng, đội mũ lưỡi trai vành kim tuyến. Tuy lộn xộn vội vàng nhưng vẫn có vẻ đàng hoàng và chủ động, hơn bốn chục người nọ lần lượt xuống sau.
Họ không xếp thành hàng nhưng đứng liền liền với nhau mà phủi phủi, quần áo. Những người mặc quần áo tây vải xanh thợ, vải vàng, hay quần nâu áo nâu đặc biệt nhà quê, cũng như những người mặc tây bằng đồ tờrôpican hay tuýtso hẳn hoi... đều thắt lại thắt lưng, kéo phẳng ống quần, và sửa lại mũ áo. Ba người đàn bà trong bọn họ mặc áo dài the thâm và kếp màu gụ, kẻ vấn khăn, kẻ búi tóc, kẻ chít lại khăn vuông. Khi tất cả đã xuống, một người trẻ mặc tây trông như một nhà giáo, từ tốn đến nói với viên đội lính khố xanh, trao đổi một lát với y, đoạn trở về tươi cười bảo mọi người:
- Xe hỏng, phải chữa lại máy, ở đây một lúc, chúng ta được xuống đường nhưng không nên đi lại. Ngài đội đồng ý để chúng ta cử đại biểu đi với bác quyền mua quà bánh nếu có hàng bán. Nhưng xem ra đây không phải là phố, chúng ta nếu ai đói mệt chưa ăn, nên tranh thủ lúc chờ đợi mà ăn cơm đi để lấy sức... Cơm nắm gạo Sài Gòn, thịt trâu kho đảo qua muối, để đến quá trưa giời nắng này thiu mất rồi! Tối nay thế nào cũng có cơm cơ mà!
- Chỉ cần nghỉ cho đỡ say xăng và ngột thôi!
- Đề nghị cho uống nước!
- Có hàng nước à?
- Xem có nước giếng thì xin một thùng.
- Không được! Không được! Anh chị em phải tuyệt đối không được uống nước không đun sôi. Lên đây mà bị kiết lỵ thì cũng nguy hiểm như bị sốt rét vậy.
- Dào ôi! Không thể giữ vệ sinh được mãi đâu!
- Đề nghị trật tự, trật tự. Phải phục tùng tổ chức!
Không ai ăn cơm. Người hút thuốc lá, thuốc lào. Người bóc chanh lấy đường, pha nước vào ca riêng uống. Người ăn chuối. Ba người đàn bà không ăn uống gì cả, chạy đi chạy lại hỏi han săn sóc mấy người nhiều tuổi và người có vẻ ốm yếu lại lên nằm trên ôtô. Những người ngồi ăn uống cũng như những người đi đi lại lại hút thuốc lá, hay chỉ trông ngắm cảnh vật không thôi, đều có vẻ suy nghĩ. Và gương mặt người nào cũng tinh anh mô phạm.
Thoạt nghe thấy nói giải tù, La đã chợt có ý mong mẹ La cũng đi trong chuyến ôtô này. Bởi vậy La đã xô ngay ra đường, và khi bọn lính đang xuống xe, La cứ xông đến, kiễng kiễng chân nhìn. Nhưng chỉ thoáng giây, biết rằng đây không phải là những tù thường, rồi thấy thái độ của bọn lính, và dáng dấp cùng vẻ mặt của những người bị áp tải, thì La thấy trong tâm trí xao xuyến khác thường.
- Sao các ông các bác chính trị lại bị bắt nhiều thế này? Mà hình như có cả mấy ông mấy bác người Hải Phòng kia kìa!
Không! Không còn hình như hình nhiếc gì nữa, mà đúng thật rồi! Thằng La ngờ ngợ nhận ra đầu tiên là mấy người làm ở Máy tơ và Xi măng mà La đã gặp ở nhà thằng Vy em, nhà cô Gái đen và nhà cô Xim. Rồi đến ông Chấn, cái ông hói trán, mắt lông quặm, tù về làm nhà báo gì ấy trên phố Cát Dài, một dạo ăn cơm ở nhà cậu giáo Thanh của nó. Và ông cao lênh khênh thấy nói có bệnh đau dạ dày tên gọi là ông Lương phở hay Lương xe ngựa nổi tiếng ham học, học lấy rất giỏi, rất nhớ, mà anh Cam gần nhà La rất phục rất mến. Cả hai ông này đã ở cả đề lao Hải Phòng, Hỏa Lò Hà Nội và ở những hơn năm năm ngoài Côn Đảo với thầy anh Cam. Cuối cùng, La biết rõ bà mặc áo cánh nâu, vấn khăn cũng bằng vải nâu, đi giày vải xám xám, người tuy gầy và xanh nhưng gọn ghẽ xắm nắm, có vẻ được cả các ông các bác nọ quý mến: vợ Sấm. Đúng! Đúng bác Sấm gái đấy! Nhưng lần này bác không to bụng và không cẵm thằng con đầu bôi chạt phẩm xanh, tay bị xích giải từ sở mật thám xuống đề lao, mà ngày năm kia, La và thằng Vy em cố chạy theo để xem xem là người như thế nào mà cũng bị bắt vì làm chính trị, làm cộng sản, trong nhà đủ cả máy in, truyền đơn, và đã hai con rồi cũng bị tra tấn nhưng không sợ gì cả!
- Bà ơi! Nhà có trứng gà, bà để con một hay hai chục quả!
- Bà ơi! Hôm qua bà đi chợ còn chuối bán cho con mấy nải.
La chạy hỏi hai nhà hàng xóm nhưng chẳng nhà nào còn gì hết. Nghĩ mãi, La nói với một bà bớt cho ba lạng chè Hà Giang và mấy chục phên đường. La bảo La pha chè và bán đường cho "họ". Cả mấy bà đều tỏ ý không bằng lòng việc buôn bán kiếm lời có thể là thất đức này. La cứ phải làm ra vẻ không biết gì, hối hả nấu nước sôi bằng cái nồi nhôm to vẫn thổi cơm cho bọn tài xế hồ lô và mấy người thợ cầu ăn, bỏ tất cả chè vào pha, rồi lễ mễ bưng ra những gốc cây chỗ bọn Chấn, Lương và vợ Sấm ngồi, rao rất tự nhiên.
- Các ông các bác uống nước chè nóng nào! Nước chè mạn mới pha nóng các ông, các bác uống nào. Mấy bà uống chè mạn nóng nào. Mời quan đội và các thầy quyền uống cho cháu bát nước nào.
Thoạt tiên có người lính định xô cản không cho La lại gần bọn Chấn, nhưng thấy thằng La lễ phép chào viên đội và véo vỏn mời nước họ, trong khi ấy, bọn Chấn có ý xét nét chờ đợi thái độ của họ, nên họ không cấm. Người trẻ tuổi mặc tây và nói năng đường hoàng từ tốn đã đứng lên chào viên đội:
- Ngài đội mời nước trước, xin phép ngài đội cho anh em mua nước uống.
Cả tốp lính lại lùi xa, lấm lét nhìn viên đội, và người đại biểu ngoại giao của bọn Chấn, không nói năng gì cả. Tới khi chính viên đội gọi La múc một ca và La bưng đến luôn bốn bát, thì tốp lính liền bảo nhau tới uống.
- Bao nhiêu một bát hở em?
- Chè mạn nhà em mua ở chợ hay trong bản?
- Chè bao nhiêu một lạng? Nhà còn, để lại chúng tôi vài lạng nào?
- À đường phèn ấy à? Đường vàng quánh như mật ong ấy!
- Ô kìa! Nước chè bán có một trinh một bát thôi hả em?
- Thôi để mình giả tiền cả cho.
- Mình còn đồng xèng năm xu đây thì mình giả.
- Không! Em cứ múc đi, chúng tôi uống bao nhiêu nhớ bấy nhiêu, nếu không, em tính tiền cả rồi chúng tôi trả một thể.
- Còn đường nữa? Một xu một phên thôi à?
- Em có ba chục miếng à? Chúng tôi mua cả.
Vợ Sấm chọn mười miếng vuông vức có vẻ ngon nhất đưa cho đại biểu đem đến mời viên đội và bọn lính, nhưng họ giữ kẽ không ăn. Cuối cùng, có hai người gọi La bảo về nhà lấy thêm mấy chục phên nữa cho họ mua với.
La cầm hơn hai hào tiền nước, trong lòng như dao cắt. Nhất là khi vợ Sấm bưng nước, cầm đường lên cho những đồng chí nằm trên ôtô, và khi mấy đồng chí có tuổi, người Lạng Sơn, không ăn đường ngay mà gói gói buộc buộc rất kỹ cất vào cái tay nải bằng vải thô nhuộm chàm đeo bên mình, thì La lại chỉ ước sao có được phép gì làm bọn lính đi ra chỗ khác, để La òa lên mà nói:
- Các ông các bác các bá ơi! Cháu là con con mẹ La cũng bị tù phát vãng lên Hà Giang đấy! Cháu không phải thằng bán nước bán đường gì cả. Các ông các bác các bá muốn uống bao nhiêu, muốn ăn bao nhiêu, tha hồ. Cháu không lấy tiền mua của các ông các bác các bá đâu! Giời ơi! Hay là cháu chưa tìm gặp được mẹ cháu thì cháu đi theo các ông các bác các bá vậy. Hai ông quen với cậu giáo Thanh ấy, bá gầy ốm người bên Xi măng quen với nhà bác Vy của cháu ấy, cháu còn hơn năm đồng để dành đây, làm sao cháu đưa được cho hai ông, cho bá, và ước gì hai ông và bá bằng lòng nhỉ? Các ông các bác các bá ơi! Các ông các bác các bá muốn gửi thư hay nhắn gì thì cứ tìm cách đưa ngay cho cháu, nói ngay với cháu. Cháu xin chu đáo! Hay có ai trốn được bây giờ thì cháu cũng xin đưa đường lập tức. Nước Hà Giang đã độc, nước trên đồn Bắc Mê các ông các bác các bá lên ở đấy, còn độc hơn. Chịu tù tội trên ấy rồi cũng chết mất! Bu cháu đã phải trốn rồi các ông các bác các bá ạ...
Xe đã rồ máy chuyển bánh, La vẫn hai tay hai bát chới với chạy gọi:
- Nước chè còn nóng đây, các ông các bác các bá uống nữa đi, cháu không lấy thêm tiền đâu. Các ông các bác các bá ơi uống nữa đi cho cháu!...
Hai xe phóng chồm chồm, bụi đỏ mù mịt quấn theo. Trời chiều càng nắng. Nắng thành lửa thành khói lởn vởn nghi ngút. Những rặng núi xa và những cánh rừng gần dọc đường tưởng như đang nung bị rẩy nước. La đem bát trả mấy nhà hàng xóm xong xách làn ra suối. Đây, La xếp đá be được một cái bờ rộng hơn mặt chiếu để thả cải xoong. Còn trên bờ, chỗ nhiều đất, La cuốc đắp bờ cấy rau muống, không những nhà mình đủ ăn mà còn luôn luôn cho nhà khác. Từ ngày không phải đi chợ mà vẫn có rau ăn, cả cái lán nhỏ nọ ai cũng bảo đỡ xót ruột và ăn được cơm. Còn La tuy bữa nào cũng hái hàng rổ, hàng làn rau ăn mà vẫn không thấy chán. Nhất là ăn cải xoong sống chấm với nước tép khô kho mặn vắt chanh.
- Anh La ơi ời ời...
Tiếng suối chảy réo, mãi La mới quay lại với em. Cái Lu đứng trên bờ nói.
- Gà lại đẻ đấy! Nó lại đẻ ở góc sàn đấy!
- Bé có mó máy trứng của nó không?
- Không
- Thế thì tốt, hễ nó thấy sai dấu là nó đi đẻ chỗ khác, con hoa mơ trước bị cầy rông bắt chỉ vì đi đẻ lang. À bé có lại vãi ngô để nó ăn quen nó đẻ không?
- Có, những hai nắm này này.
Lu giơ hẳn nắm tay lên, La cười
- Sao cái bé của eeng (1)ngày càng khôn mấy?
-----
[1] Anh.
- Để được nhiều trứng anh La đừng đem bán mà để ấp nhá. Rồi anh La cho em một đôi, em cũng nuôi, em ra ngoài đồi em bắt mối bắt nhái cho nó ăn.
- Ừ, rồi eeng cho cái bé một đôi gà đẹp nhất này, rồi eeng đan cho bé cái bu nhốt treo ngay góc sân này, rồi eeng đưa cái bé đi chợ bán gà của bé lấy tiền mua vải hoa, mua láng Sư tử cầm kiếm trên chợ Hà Giang để bé may áo may quần...
- Không! Em không cho bán gà của em đâu. Em chỉ cho bán gà của anh La thôi.
- É é sao bé lại dại thế? Vậy rồi bé chỉ đi bắt mối nuôi gà của bé mà không vãi ngô của anh chứ.
- Ứ ừ... em cứ lấy ngô của anh, em cứ vãi ngô của anh...
- Chết! Chết cha rồi kìa! Sao trong nhà những gà nào cục tác mà nhiều thế? Bé về xem ngay, lại mấy con gà hàng xóm sang ăn gạo ăn ngô của nhà thôi! Bé về mau lên, bé có xùa thì xùa từ từ khẽ khẽ kẻo chúng nó nhảy loạn lên, đổ vỡ cả đèn cả chén đĩa uống nước nhá.
Nhìn Lu lũn cũn chạy về nhà, La càng thấy vui vui. Dạo này con bé lại có da có thịt, lớn hẳn lên, và cũng lanh lẹn hẳn lên. Khác hẳn những ngày ở dưới nhà xe của Đờvanhxy, mặt mày cứ xị ra, người còm nhom, ngồi đâu ruồi bâu theo đến đấy. Không thịt cá, không bánh kẹo gì cả! Chỉ có cơm ngô và quanh đi quanh lại vẫn tép khô, tôm khô, cá khô kho mặn, rang mặn, ăn với rau muống luộc, rau cải xoong nấu suông với muối. Thỉnh thoảng mới được quả chuối hột, quả chuối tây và miếng đường phên. Đã nhiều lúc gội đầu hay tắm cho em, thằng La chỉ muốn cắn vào má nhoen mũi rửa sạch đỏ ửng như quả táo, quả đào chín. "Nếu u được gặp hai đứa, mà thấy cái Lu lớn, khỏe mạnh sạch sẽ như thế này nhỉ?!". La bứt nhanh thêm những ngọn rau muống, nhủ tiếp: "Thôi, được buổi nào quý buổi ấy, được chữ nào quý chữ ấy, nhất định ta phải đóng vở bảo cái Lu học".
Sống lưng La đã rộm rộm không thể chịu được. Nắng chiếu đúng vào gáy La. La khỏa khỏa kỹ rau dưới suối, rửa mặt mũi chân tay rồi xách làn về. Bữa nay bác Kiến An đi lĩnh xẻng cuốc, mai mới về. Nhưng La vẫn lấy gạo đủ ba người ăn. La luộc rau, đánh dấm với ba quả sấu, rang lạc giã với muối rồi thổi cơm. Chợt La thấy người ớn ớn. Trán xâm xấp lành lạnh mồ hôi. La run run, mỏi mệt, chỉ muốn được nằm vật ngay ra đất.
- Bé ơi! Bé ngồi đây trông bếp cho anh. Cơm ghế rồi, thỉnh thoảng bé chỉ phải lấy giẻ lót tay, xoay cái nồi đi cho chín đều. Chốc nữa thì cơm chín, bé gọi anh... Bé ơi... bé ơi... hừ hừ... anh lại phải đi nằm đây!... À bé đừng để gà vào bới bếp, kẻo cháy nhà đấy... Ực...ực...ực... lại phải nấu thêm nước rồi!
La bưng cả nồi rau luộc lên uống rồi loạng choạng lên nhà, tung tung cái chăn sợi Nam Định và đôi chiếu trùm lên người. La quặp hai tay vào giữa hai bắp đùi, cố ghì người lại nhưng vẫn cứ run bắn lên. Cả cái sạp cũng rùng theo, kêu cót két. Cái bé thỉnh thoảng lại trông lên nhà, nghe tiếng anh rên và tiếng giường chiếu rùng rùng sàn sạt. Nó lại ngạc nhiên và thương thương anh quá.
Anh La lại sốt rét rồi! Người ta bảo anh La phải chịu khó uống nước giun sống giã thì mới khỏi, anh La cứ không chịu uống! Eo ôi! Uống nước giun sống thì khỏi sốt rét, vậy thì mình nhất định không sốt rét đâu!
Cái Lu chất những que nứa cháy dở, thổi phù phù cho cháy lom nhom vừa lễ mễ xoay nồi cơm.
Không đợi cái Lu gọi, thằng La cũng dậy. La dậy vì có người đến tận giường nó lật chăn chiếu, lay vai lay đầu
nó giục:
- Trỗi! La ơi! Trỗi! Trỗi mau! Trỗi ngay La ơi! Có người vừa gặp mẹ mày ở ghềnh Thuồng luồng ngoài bến kia kìa!
La ngồi nhỏm lên, choàng mắt nhìn, và thật như có người ở trước mặt La, La hỏi gọn lỏn:
- U tôi ở ngoài ghềnh? Có người gặp u tôi rồi!
Mồ hôi toát đầm, La không thấy chóng mặt mà cũng không thấy cả rức đầu nữa. Và khi biết rằng mình vừa ngủ mê, La đứng hẳn xuống đất, vươn hai cánh tay như lấy thêm sức:
- Thế nào rồi ta cũng gặp mẹ ta! Chỉ cuối tháng này, hay sang tháng sau nữa thôi...
Trong lán mờ mờ, qua những kẽ liếp và ô cửa, ráng chiều vàng sậm bỗng rực lên. La nhác trông thấy trên tầng thấp ở giá nứa cái mâm gỗ đậy rổ hẳn hoi và có mùi chua của rau muống luộc đánh dấm với sấu xanh.
- Cái Lu cũng đã biết dọn cơm đấy!
Mồm miệng La đắng quá. Một làn gió chợt thổi vào làm La lại thấy gây gấy và choáng váng. La vội quơ cái ấm sành đựng nước lá ổi rồi bước ra sân:
- Bé ơi! bé ơi!
Cái bé đang vãi từng hạt ngô vừa cúc cúc tích tích rử cho cả con gà mái đẻ và con gà mái dò nhẩy vào lồng, mãi mới quay lại:
- Anh khỏi sốt rồi à? Bắc cơm ăn nhé!
La toan bảo: "Bé có đói thì ăn trước, anh còn mỏi chưa muốn ăn vội". Nhưng La lại xuống bếp bưng nồi lên và giục:
- Em lấy bát đũa chưa? Đưa mâm ra ngoài cửa này ăn cơm cho mát.
"Phải! ăn cơm với bé chứ! Để mình bé ngồi ăn thì buồn quá! Và anh cũng phải cố ăn để còn đi tìm u. Anh lại vừa nằm mê thấy báo tin u đấy! Không khéo chỉ mai kia hay tuần sau, tháng sau là gặp u thôi! Đã hơn bốn tháng rồi, có mấy chuyến giải tù án thường lên mà không có u, thì chắc u không bị bắt lại đâu. Còn như u ốm thì chắc u cũng chỉ sốt rét như anh, không việc gì đâu! Vậy anh và em cứ phải chịu khó ở đây đến gần Tết, nghe ngóng tình hình yên yên thì lần lần về xuôi tìm u".
La trông về phía con đường chạy hút lên tỉnh. Những ngọn núi đá xanh rì trông như những con gấu con voi hay những đầu toa, những tàu cuốc, những xe lăn khổng lồ, lông lá xùm xuề, đang ùn ùn bốc những làn hơi như khói thiếc, khói át xít. Mặt trời đỏ bầm đã sụt mất hẳn. Những đám mây ở vũng nắng đục lầm trông cũng như những thú vật kỳ dị đang bị phanh bị xé ra kia, ẩn hiện và lịm chìm đi càng nhễ nhại như vừa có cả máu và nước vàng.
Tiếng ù ù thổi cuộn lên. Và hình như chỉ chờ bóng tối nhoài xuống là tất cả rừng núi với thứ tiếng thăm thẳm kia sẽ ôm lấy vít lấy cái xóm chơ vơ bên vệ đường.
Mấy nhà chung quanh cũng lục tục dọn cơm. Tiếng gà mẹ gà con, chó mẹ chó con càng quấn quýt lấy người. Mấy nhà đun bếp bằng cả những thân cây cháy ngùn ngụt, cứ để thùng nước sôi sùng sục. Thằng La và cái Lu ngồi ăn cơm trên hai cục cây trước nhà. Cái Lu cứ vừa ăn, vừa nghênh trời và rừng núi.
Phải rồi, những buổi chiều như buổi chiều này ngày xưa, thằng La đang cõng em ra tận ngoài phố đón mẹ đi đội than mua gạo củi rau mắm ở trên phố về đây. Và cũng những buổi chiều này hồi năm ngoái năm kia, mẹ La ốm không đi làm cỏ vê được, đang nằm khum khum nghiêng nghiêng đắp mảnh chăn bao tải, cánh tay trái để cái bị quần áo gối lên, cánh tay phải ấp lấy, như nó là cái Lu mà vỗ vỗ ru ru trong cơn mê. Chỗ xà lim đó, thân thể và mồ hôi mẹ đã in hằn rõ hẳn thành lốt thành hình. Tuy nằm ở góc trại tù nhưng cố nghển lên khung cửa trấn song sắt, mẹ La cũng trông được thấy cái mảng trời vừa bằng một vạt áo trẻ con ấy.
⚝ ✽ ⚝
Bác làm đường đã đưa anh em La xuống tận nhà thuyền và khẩn khoản nói với người quen trông nom cho tới tỉnh nhà. Bác còn ép anh em La cầm thêm nửa cân chè và một đồng bạc, dặn đi dặn lại, hễ đến nơi đến chốn phải biên thư ngay báo tin. Nhưng chưa đến Tuyên Quang thì La xin phép lên bờ. La bảo đưa em đi thăm một bà bá, ở lại đây với bà ăn giỗ rồi cùng bà về quê một thể. Trong khi thuyền còn ăn thêm hàng La dắt em gánh đồ nhập luôn với một bọn buôn hàng chuyến, để sang đường khác. La nhất định về Bắc Giang. Lần này La cũng phải suy tính rất nhiều với những lý lẽ sau đây. Thứ nhất: mẹ La vẫn sống và không bị bắt. Mẹ La vẫn sống và không bị bắt, thì không khi nào mẹ La lại chịu ở cái đất Hà Giang, Tuyên Quang này nữa. Như vậy cái tin hình như mẹ La đang quanh quẩn ở gần Hải Phòng có thể là đúng. Chính vì mẹ La đã đẻ ra La, đã hai thứ tóc trên đầu, đã từng trải nên mẹ La chưa về Hải Phòng đấy thôi!
Thứ hai: Bắc Giang có đường xe lửa có nhà ga, có bến ôtô, nhất là có bến tàu thủy, rất tiện đi về Hải Phòng, nhiều người làm ăn buôn bán phải qua lại đây. La sẽ dò hỏi được nhiều tin tức, sẽ nghe ngóng được nhanh chóng, kỹ càng các tình hình cơ hội.
Thứ ba: Bắc Giang có mấy người họ La lên làm ấp. Biết đâu La sẽ gặp mẹ tại đây? Hay nếu như La chưa tìm thấy mẹ, và phải lúc La ốm yếu quá, La cũng có chỗ nương tựa. Hoặc La chọn được một nhà, một nơi kín đáo và tính tình thật tốt, La sẽ gửi hẳn em lại mà đi tìm mẹ, một tháng, hai tháng, ba bốn tháng, La sẽ về thăm em một lần, đưa lương ăn cho em.
Thứ bốn: chao ôi! có thể có sự tình này được không? Là mẹ La đã về Hải Phòng rồi, nhưng nghe chuyện La đốt phá rồi bỏ nhà Đờvanhxy đưa em trốn biệt, mẹ La lại đi tìm anh em La. Vốn biết tính La liều lĩnh, mạo hiểm, mẹ La nghĩ rằng La sẽ theo những người đi cao su đất đỏ hay Hòn Gai Cẩm Phả, thế là mẹ La cũng đi. Một khi thành sự thể như vậy và biết đích nơi đích chốn của mẹ, dù xa xôi đến đâu nhất định La cũng phải đi đón mẹ. Mẹ con sẽ một bến một thuyền mà làm ăn sinh sống với nhau. Như vậy La phải có một món tiền hai ba chục đồng trong lưng để rồi lo các công việc...
Bọn buôn có bốn ngựa thồ và ba gánh. Họ chuyên đổi, bán thuốc lào, vải hoa, chỉ ngũ sắc, giày vải, nón dứa v.v... để lấy cao, nhung, mật gấu và xương gạc hổ, gấu, hươu loại tốt. La giúp họ thổi nấu, nhiều bữa, La còn nhận làm hẳn những món ăn và bánh kẹo kiểu Tàu, kiểu Tây để họ khoe tài giỏi và sự sành ăn uống của người vùng xuôi buôn bán giao thiệp rộng. Dọc đường cũng như vào các bản các trại, La vừa nghe thêm nhiều chuyện và cũng biết thêm nhiều hạng người. Mặc dầu có nhiều nhà và nhiều người định bán rẻ hay cho La thứ này thứ kia, La đều không nhận. Nhưng ở vài nơi với vài người, La phải hẹn phải khất đến kỳ sau sẽ xin nhận, vì La thấy rồi đây La sẽ phải tìm gặp lại họ để nhờ cậy công việc.
Không những La không phải gánh đồ đạc của mình mà còn để cái Lu cưỡi ngựa đi những cung đường dài và khó khăn. Tuy thế La vẫn gánh lấy cái bọc đồ thợ cạo và gói quần áo thiết dụng, và không bao giờ La không ở bên mình em, đề phòng các sự bất trắc La có thể bỏ bọn họ, cùng em trốn ngay đường khác. Cũng như nếu giời xui đất khiến, anh em La bỗng nhiên gặp mẹ mà mẹ lại đang nguy khốn, La cũng chủ động được ngay.
Tuy đi đường được ăn uống đầy đủ, cảnh vật đây đó rất vui rất lạ, và càng về xuôi, La càng thấy tinh thần tỉnh táo, nhưng La lại buồn buồn và chờn chợn. La buồn buồn vì vẫn nhớ như in những cảnh Hà Giang, nơi mẹ La bị tù đày, và mấy tháng giời sống ở cái lán phu chơ vơ bên đường. La còn chờn chợn vì thấy dọc đường cứ từng chặng, từng chặng hỏi thẻ và khám xét rất kỹ. Cả hai châu Sơn Dương và Đại Từ, La đi qua đều đầy lính khố xanh. La nghĩ đến chẳng mấy ngày nữa sẽ về tỉnh Thái rồi về Bắc Giang, ở đây La được biết mật thám và sự khám xét còn nghiêm ngặt ráo riết gấp mười. Riêng Thái Nguyên có tên tuần phủ gì ấy biết bơi, biết võ, rất ma quái, rất ác, đổi từ Quảng Yên lên để trấn giữ. Còn mật thám toàn những Tây Lai và adăng cáo già ở các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định phải lên sục sạo.
Bởi vậy, anh em La lại phải nói dối, từ giã bọn buôn. Anh em La không ở lại tỉnh Thái mặc dù tỉnh này khá đông vui và tiện xe, tiện thuyền đi các nơi, nhất là về xuôi.
Anh em La đi đường tắt. La gánh cũng nặng. Một bên là bọc đồ thợ cạo quần áo tốt và mấy thứ quí: hai cân chè mạn của bà con làm phu và bác Kiến An cho, và ba lạng cao gấu, hai lạng cao dê rừng ông lái nhường lại giá còn rẻ hơn mua tại lò để La về quê làm quà cho mẹ. Một bên là cái chăn sợi Nam Định mấy gói nấm hương mộc nhĩ và thuốc Nam. La nhập bọn với năm người chuyên luồn rừng kiếm ăn, họ cũng lỉnh kỉnh những sọt những rậu xếp nhiều thứ như của La. Cái Lu bịt đầu khăn vuông trắng, khoác một túi vải nhỏ nhuộm chàm đựng cơm nếp nắm, thịt kho mặn và mấy phên đường.
Cả bọn gặp quán ăn quán, gặp chợ ăn chợ, không thì tối đến vào trọ trong các trại ấp, đong gạo, mượn nồi thổi nấu lấy rồi nắm cơm để dành ngày mai. Tuy đi đường vất vả ăn uống kham khổ nhưng La lại thấy vui vui. La nghĩ đến mẹ con La sẽ cùng sống như thế này ở các huyện các châu rừng núi, lần hồi rau cháo với nhau, mai danh ẩn tích. Như vậy cũng còn sung sướng hơn là ở các thành phố vừa làm ăn khó khăn vừa nguy hiểm.
Lúc chào từ giã họ, La cũng lại được từng người nắm tay hẹn hò tỉ mỉ, nhà cửa thôn xóm, để La thế nào cũng phải tìm đến. Trong bọn có ông đứng tuổi, người còm nhom, quần áo rách vá nhất, gánh rất nặng, đã cố nèo anh em La về nhà mình. Ông góa vợ, có ba con gái, một mình vỡ một quả đồi, nhà chỉ có hai cái chiếu đan bằng cật nứa, và uống nước cũng bằng gáo dừa, như tù. Ông bảo cô con lớn đi cuốc sắn, vãi gạo, gọi mấy chú gà nhiếp lại, chộp một chú bằng nắm tay, thổi cơm sắn nấu canh sắn, luộc gà thịt ăn chấm muối ớt thết La. Ra đi La biếu ông lạng cao sơn dương, phải nói mãi ông mới nhận.
Từ huyện Yên Thế này xuống Phủ Lạng Thương có xe ôtô, nhưng anh em La vẫn đi bộ. Cái Lu lại càng vui hơn, bước chân cứ con cón bên anh.
- Rồi anh Phòng đi cắt tóc rong nhỉ.
- Ngoan! Lúc nào cũng phải gọi tên anh là Phòng, và bất kỳ ai hỏi cũng bảo bố mẹ tên là Hải nhé.
- Thế anh Phòng cũng cứ phải gọi tên em... không là cái bé cơ!
- Đấy lại không ngoan rồi! Anh đã bảo em là cái bé thì em cứ phải là cái bé.
- Ứ ừ!... bé mãi à!? Nhỡ u đi tìm đi hỏi mà tên là Phòng là Bé thì u nhận con sao được?!
La nghẹn ngào:
- Vậy anh lấy tên chị Lê gọi em là cái bé Lê nhé.
- Thế thì thích quá, em là em, em phải là bé Lê, u nghe là biết ngay!
- Nhưng em không được nói với ai em có chị Lê nhé! Em cũng không được nói với ai u ở đâu nhé! Ai hỏi, em cũng chỉ bảo u cháu hay u em bỏ nhà đi đâu đấy, còn nhà cháu hay nhà em ở cái làng xa xa mà lại gần gần tỉnh Hải Phòng cơ!
Qua phố Cao thượng, La đặt gánh dưới một gốc cây có quán. La bảo bà hàng bán cho một bát nước và hỏi em đã đói chưa. Cái bé lắc đầu, La định mua bánh rán cho em nhưng thấy cái bé không nghe, nên chỉ mua hai quả chuối và tấm bánh đa anh em ăn thôi. Hai đứa ráo mồ hôi ra đi.
- Anh đi cắt tóc rong, thế em phải ở nhà trông nhà nhỉ.
- Chả trông nhà thì cứ dều dễu đi với anh à?
- Em ở nhà em nhặt lá, quét rác về đun, em thổi cơm luộc rau.
- Ừ, em tập làm thì vừa. Nhưng hãy xuống đấy xem chỗ ăn chỗ ở ra sao! Anh chỉ muốn em đi học. Anh sẽ tìm ai dạy học tư ở trong xóm thì xin cho em học.
- Em chả thích đi học đâu! Em chỉ thích ở nhà với anh thôi, anh đi cắt tóc về rồi lại dạy em như ở trên gì ấy!
- Không được! Em phải đi học! Sau này muốn làm gì cũng phải biết chữ! Em biết chữ, em lớn, em lại về Hải Phòng hay ra Hòn Gai xin vào nhà máy mà làm chứ không được đi chợ đi búa lăng nhăng.
- Thế cả u, cả anh, cả chị Lê cũng đi làm nhà máy! Sao bảo, u chỉ đội than với anh đi cắt tóc?
- U cứ đội than mãi à? Ba anh em ta sẽ đi làm cả, để nuôi u. Còn tao rồi sẽ vứt mẹ cái bộ đồ này đi, tao sẽ xin xuống tàu làm, làm ở buồng máy như ngày bố còn trẻ ấy!
- Thế cả nhà ở đâu? Không phải sợ nữa à?
- Đâu tốt thì ở! Ở đâu cũng phải có làm mới sống! Cẩn thận giữ gìn và ăn ở tốt với mọi người, mọi người ăn ở tốt với mình, thì không sợ gì cả! Thôi mày đừng có hỏi nhằng hỏi nhùng nữa!
Anh em La đến trọ nhà người em họ ông đi rừng trên Yên Thế, cách tỉnh lỵ ba cây số. Ông này cũng vừa cấy ruộng chủ, đóng thóc thuế vừa đi rừng. Vợ chồng ông gần bốn mươi tuổi, sinh nở mười hai bận còn đậu được một thằng con năm nay lên bảy. Vợ chồng ông quý nó hơn vàng, thấy nó mến La và có bạn chơi là cái Lu, cả hai anh em La đều hiền lành, thảo lảo, nên vợ chồng ông nhận anh em La là cháu bồ côi dưới quê lên và giới thiệu với bà con hàng xóm như thế. Cân chè mạn Hà Giang của La đem pha thết khách rỉ rả hàng tuần. Còn nấm hương mộc nhĩ, ông bà chỉ cho bớt lại mấy lạng vụn vặn, còn đem ra chợ tỉnh bán lấy tiền mua một đôi chiếu mới cho anh em La vừa nằm vừa đắp.
Thế là anh em La vẫn chưa phải đi tìm đến họ hàng nhờ cậy. Hơn nữa, lại được ở một chỗ vừa gần tỉnh vừa kín đáo. Ngày ngày xách bộ đồ thợ cạo đựng trong một hòm gỗ như của những ông phó cạo chính cống, La đi làm hôm nay ở quãng đường gần bến ôtô, nhà ga, hôm sau ở cạnh xóm chợ hay gần bến tàu thủy, hôm khác dọc bờ sông có các thuyền buôn, thuyền đá, các sà lan, boọc chở gạo, xi măng, sắt. Rồi La đến cả các đám thợ thùng đấu, thợ nề đi làm trường bay của Nhật ở Cầu Lồ hay các tràn các lán phu đông đúc. Tin tức rõ ràng nhất là ở Hải Phòng cũng bắt bớ khám xét nhiều và thêm không biết ba nhiêu xú doóc, a dăng mật thám, từ khi Nhật bỏ bom giữa phố Cầu Đất rồi đổ bộ lên đò Khuể. Các nhà máy Tơ, nhà máy Chỉ, nhà máy Xi măng, đều dãn người làm. Bến Sáu Kho vắng hẳn tàu to các nơi. Xóm nhà mẹ La thì buồn lắm, nhiều gia đình quen đã dọn đi nơi khác. Bà cụ Xim và cô Xim nghe đâu dọn xuống bãi rác ngoài thành phố, vẫn nuôi cái Lê. Còn mẹ La không thấy ai nói bị bắt lại hay gặp đâu cả!
- "Cái con mẹ ấy nó như con tinh con ranh ấy. Đi tù phát vãng Hà Giang, mà sống mà trốn, thì không đời nào nó về Hải Phòng đâu! Chắc nó ra Vàng Danh, Hòn Gai, Cẩm Phả, Mông Dương lại đội than để nghe ngóng tìm cách nhắn nhe nhờ người đón các con nó thôi!"
Có người quen biết đã nói hẳn ra miệng như thế. Thằng La càng vững dạ hơn nhưng cũng bồn chồn hơn. Nó thấy thế nào nó cũng phải về Hải Phòng ít lâu rồi sẽ đi ra mấy vùng miền mỏ kia...
... Sang xuân vẫn còn gió bắc nhưng tiết trời đã nắng ấm. Mấy ngày tết vừa qua, La lại sốt rét, phải gượng lắm mới ngồi dậy đi mừng tuổi mấy nhà sáng mồng một mồng hai, và ăn mấy miếng bánh chưng, chè con ong cho ông bà nhà chủ bằng lòng. Suốt tháng giêng, sang giữa tháng hai, La chỉ đi cắt tóc quanh xóm. Tuy đi làm buổi đực buổi cái như thế, La vẫn không chịu ăn lận vào món tiền non chục bạc giắt lưng, cố kiếm đủ gạo hai miệng anh em ăn. Cái Lu ngoài việc đi kiếm củi rác về đun, còn biết đi bòn rau khoai, rau tập tàng và theo trẻ con đi hôi cá rồi về luộc lấy, kho lấy.
- Chú phó nhỏ ơi! xuống quá dưới phố Đò mà cắt. Hôm nay lại có nhiều thuyền và sà lan ở Hải Phòng lên đấy!
Có mấy người làm xe ba gác và kéo xe tay đã quen La, gọi. La chào, cảm ơn họ, rảo bước hơn. Dẫy núi Neo ở trước mặt và núi Kai Kinh ở phía trên càng gợi La nhớ đến những quả đồi bên Kiến An và ngọn núi Yên Tử trong Uông Bí. La đi qua một điện thờ bên bờ sông đang nhộn nhịp tiếng đàn hát chầu văn và sực nức mùi nhang khói, hoa quả, thì lại có người gọi từ ghế hàng nước góc phố.
- Đi cắt đâu thì cắt, nhớ chiều về qua đây sửa cho tớ cái tóc mai tớ còn về Đáp Cầu trẩy hội nhé.
Người nọ còn bảo với mấy người khách cùng uống nước hút thuốc với mình:
- Nó bé mà cắt tốt hơn cả mấy ông ngồi ở đầu cầu và trong chợ. Đã khéo tay lại còn làm kỹ nữa, mà chỉ lấy có mỗi cái tóc ba xu! Ngoan đáo để! Chẳng thấy ăn quà hay chơi bời gì cả, chuyện trò có vẻ đúng mực, con nhà gia giáo hẳn hoi.
Mấy thằng chạy hàng xách và đi bấu xấu lại tụ bạ ăn uống giữa phố càng đông với mấy bọn chi tiền là những ông sếp Nhật, cai Nhật, ký Nhật mới phất, diện toàn quần áo sơ mi cụt tay gácbađin, đội mũ vải ka ki chum chủm và quàng cổ khăn bông trắng; luôn luôn các ông lại xổ ra mấy tiếng Nhật bồi: "Giôtô, giôtô nay" (2)với các đàn em hót như khướu ở chung quanh, ghẹ gẫm những hàng sắp càn sắp dỡ như gạo thóc, ngô, đỗ, bông sợi và dầu mỡ.
-----
[2] Tốt, không tốt.
La đặt hòm ở gốc gạo cổ thụ hoa nở ăm ắp trông xa như một mâm bồng xôi gấc. Lối đó gần bến thuyền sà lan đang chờ dỡ hàng. Trên một thuyền buồm to đỗ lút vào hai sà lan đầy chặt ngô, đỗ, có một đám xóc đĩa, con bạc chen chúc vòng trong vòng ngoài chốc chốc lại ầm ầm lên. Xóc cái là một người, quần áo đũi nhuộm màu gụ, khoác một va rơ dạ rộng thùng, nếu không là chủ thuyền thì cũng là ông lái hàng chuyến. Dưới đùi y kẹp từng cuộn giấy bạc, có cả giấy một trăm đồng. Bên cạnh y, mấy mụ và mấy gã ăn mặc rất diêm dúa, mặt mày cũng rất bợm bãi. Có mấy đứa trai gái trạc tuổi La chầu chực săn đón chung quanh để mời chào ăn uống và đi chơi thuyền, hút thuốc phiện, nghe hát...
Chợt một gã quần áo phin đen, quấn một khăn len sặc sỡ lòng thòng chỉ chực buột ra, lử thử lừ thừ lên bờ.
- Con mẹ nó, bạc đang "rền" mình theo "rền" thì lại đi "lệch"; mình liều phải theo "lệch" thì lại "rền"! Bạc bẽo thế này cứ húc mãi vào thì phải bán cả mả bố đi mất!
Gã dừng lại gần gốc gạo, vứt cả nửa điếu thuốc xuống sông, khạc một cái rất to rồi quay lại nhổ như định nhổ vào chiếu bạc hay lên đầu người xóc cái:
- Đến phải cắt tóc rồi đi kiếm hàng thịt chó ăn cho giải đen thì mới chơi tiếp được. Này! Cậu phó nhỏ, cậu mần tốt, không phải như úp nồi úp rế lên đầu người ta đấy chứ. Này! Tỉa thật khéo cho tớ, rồi tớ "paydê" cho đúng một hào cẩm như khách vào hiệu Pari mốt vậy.
La thấy khó chịu nhưng không thể không tiếp. Nó vâng ạ đánh thượt một tiếng rồi lẳng lặng choàng khăn chải tóc. Khi La bắt đầu bấm tông đơ thì chột dạ:
- Quái! Thằng này như thằng Ba lé ấy!
Để nhận diện kỹ hơn, La lùi lại nửa bước, lim dim mắt nhìn nghiêng nghiêng mặt gã nọ. Đúng cái sẹo mà lươn ở dưới cánh tóc như cánh gà rù xõa xuống thái dương vừa để che sẹo vừa ra kiểu tay chơi. Đúng cái khổ mặt choắt, mắt như mắt rắn, nhưng vì thức đêm và thuốc sái đĩ bợm nhiều quá nên đục ngầu và hiêng hiếng. Và đúng cái giọng ấy, vẫn là cái giọng giở ma cô ma cậu, giở xú doóc mật thám ấy.
Trong khi ấy, Ba lé cũng ngờ ngợ tên phó cạo nhóc con này hình như quen quen, hoặc đã gặp không ở trên phố thì cũng ở dưới xóm nào ấy của Hải Phòng. Khi loáng nghĩ như thế, cặp mắt đục ngầu của Ba lé liền nhoi nhói cố ý nhìn La, nhận La một cách kỹ hơn.
- Ừ thằng này trông quen quen thật. Hay nó là thằng... thằng gì làm cháy nhà Đờvanhxy rồi bỏ trốn? Thằng gì con con mẹ giết chồng rồi trốn tù? Hà hà... nếu đúng là thằng ấy, thì hôm nay không phải mình ra ngõ gặp gái nên thua bạc, mà là vớ được bổng giời cho đấy!
Đưa thêm mấy mũi tôngđơ nữa, La càng thấy có vẻ khang khác, bèn hết sức trấn tĩnh. La xoay ra đằng sau, bảo Ba lé cúi hẳn đầu cho La bấm gáy, đoạn La ngật hẳn mặt Ba lé lên cho chói nắng mà cạo trán, cạo cằm, cạo cổ. Lúc đưa đi đưa lại lưỡi dao, lia sồn sột xuống gần vai và quá mỏ ác Ba lé, La khiến Ba lé phải nhắm hẳn mắt lại để hưởng cái khoái lạc hiếm có mà không hỏi chuyện và cũng không nghĩ gì nữa. Trong khi ấy, La làm cho mắt mình hơi lác, cái mũ đội sụp xuống và giọng nói ngạt ngạt, đôi lúc khừ khừ như người hen xuyễn, nhiều đờm dãi, sắp kéo cơn. La thật là một phó nhỏ tỉnh lẻ, quê kệch mà làm nghề hết sức chu đáo.
Ba lé cho La thêm năm xu. Nó toan hỏi thêm La mấy câu thì có hai gã và một ả nữa lên bờ cười nói rất rôm rả:
- Ba ơi Ba! Chốc nữa thuyền của mày nhổ sào đấy thôi. Lão lái Quảng Yên nó bảo tối nay vừa xuôi vừa làm canh xóc đĩa nữa. Nó cũng nghỉ để gỡ lại món tiền hơn hai trăm đồng bị thua vì mấy tiếng bạc ngửa tư xấp bốn lúc mày lên bờ được một lúc ấy.
Ả trong bọn thọc tay vào túi áo tây của gã đi cặp kè với mình:
- Cậu có khao gì cho mợ không nào! Gỡ ngon ba trăm đồng mà không cao lâu Quảng Đông, thì khao đâu mợ cũng ỉa vào...
- Ừ thì Quảng Đông! Quảng Đông! Gọi xe tay đi rồi còn theo thuyền.
Ba lé bổ choàng người, quấn quấn lại khăn len, díu
cả lưỡi:
- Cho tao đi tòng với! Tao phải lên phố lấy thêm tiền về để gỡ gạc chứ. Mẹ nó, nó mà lại xóc cái, cánh mình lại thua, thì phải chờ nó lên Hải Phòng mà chịt cổ cướp lại tiền thôi!
Hai xe tay ngật ngưỡng chạy lên cầu, một xe chí chóe cười nói hô hố ầm ĩ cả đường. La vội xách hòm đi vào một ngõ hẻm rồi tắt về nhà. La càng nghĩ càng ân hận mình đã vô ý không nhận ra Ba lé ngay từ trong đám bạc. La tự nhủ phải cẩn thận hơn nữa mà nghe ngóng, đề phòng để chuộc lại cái lỗi nọ. Bữa cơm chiều hôm ấy, La chỉ ăn được hai lưng bát. La thấy trong người cứ thế nào ấy, từ trước đến giờ chưa bao giờ như vậy cả.
⚝ ✽ ⚝
Tuy La đã khẩn khoản bảo đừng, ông chủ nhà vẫn dậy sớm bắt con gà sắp thiến để làm cơm. Ông còn lấy cả cút rượu cúng tháng trước cất trên bàn thờ xuống, rót ra đúng ba chén móng cho ông, vợ ông và La. Thấy cái Lu càng ngơ ngác, lo lắng, La càng phải tươi cười và làm như rất bình thường. Ngoài mặt thì vậy, nhưng trong lòng La thật như xé như thắt.
La nói với ông chủ bà chủ chỉ đi có một tuần hay lâu lắm là mười lăm hôm rồi về. La sang Phúc Yên, tỉnh liền ngay Bắc Giang chứ không xa xôi gì cả! Còn việc La phải đem cả hòm đồ nghề đi thì như ông bà đã biết tính La siêng năng, bòn nhặt, đi đâu La cũng phải lo chạy gạo cho hai miệng ăn, cần nhất cho em, mặc dầu La đi thăm đi tìm người nhà.
Ông bà chủ nhà cứ chọn hết miếng thịt này tiếp miếng thịt khác gắp cho em La. Chén rượu phần La, La phải cố uống hết rồi, ông còn định xẻ thêm chén của bà vợ. Nhưng bà vợ giữ lấy:
- Ông này mới hay chứ, của tôi phải để tôi uống cả. Còn ông chỉ được uống một nửa thôi, kẻo hết chén ấy ông lại ngủ đến tối mất. Cái chân ruộng đám mạ không cày bừa, gieo ngay hôm nay thì rồi đến khi lạy người ta mà mua lại mạ thôi!
Cơm xong, sang tuần nước, mặt trời đã lên cao. La càng thấy lấn bấn. Cái Lu, mắt cứ hoe hoe, có vẻ không những sẽ òa lên khóc mà còn túm giữ lấy anh, theo anh đi. Nhưng rất lạ, khi La xách hòm ra cổng, cái bé không đi cùng như mọi khi, mà chỉ đứng trước bậu cửa nhìn theo, mắt đau đáu, môi bậm lại. Trong khi ấy, thằng Cục vàng của vợ chồng ông chủ lại nắm lấy tay La, dung dăng vừa nhảy lên vừa bảo La nhớ mua cho "hai đứa" nào đình, chùa, lợn bằng đất nung và mấy con tò he nữa.
Gạo ăn La để lại những một tháng, tiền ba đồng. La đưa cho bà chủ nhưng bà nhất định trả lại La:
- Nếu anh mà cứ thế thì tôi giận lắm!
- Không, cháu gởi bá cơ mà!
- Gởi tôi cũng không nhận! Đi đường phải dư dật cái đồng tiền. Anh gặp bá ấy và các ông các bà thì phải tiêu nhiều đấy.
Khỏi mé đồi ra đường cái, La đi như chạy. Chính La giàn nước mắt và phải cắn chặt lấy môi. La kịp chuyến đò về Phả Lại. Sang tháng tư, trời nóng bức, đò lại chật, các thúng mủng, quang gánh lồng sọt chồng chất gần như đè cả lên những người ngồi, nhưng La vẫn thấy lạnh lẽo chống chếnh thế nào ấy. Nhất là đến những quãng sông rộng, đồng ruộng, bờ bãi và đồi núi xanh tươi bát ngát, gió thổi đùng đùng làm đò chồm lên chúi xuống, thì La lại càng tê giá trong người. Nhiều lúc, La thở rít hẳn lên.
- Không! Không! Ta phải quay lại đón cái bé đi cùng thôi. Dù nguy hiểm vất vả hay gì gì đi nữa, ta cũng không được xa nó, nó cứ phải ở bên cạnh ta! Vả lại chuyến này đi ta có về Hải Phòng đâu. Ta mới đến Đông Triều, Uông Bí thôi mà!
Mấy lần nhấp nhổm định đổi ý như thế, nhưng tự chủ được, La lại thấy người bừng bừng, vui vui và như tỉnh hẳn lại. Đò đã qua ba bến sông chính. Nếu kịp chuyến ôtô, chỉ trưa mai La sẽ đến Đông Triều. Đông Triều có mỏ than Tràng Bạch Mạo Khê và Bí chợ. La sẽ ở đây mấy ngày rồi vào Uông Bí. Uông Bí có mỏ than Vàng Danh. Những mỏ ngoài Đông Triều vừa nhỏ vừa làm ăn xập xệ, chưa chắc mẹ La chịu ở đây. Còn mỏ Vàng Danh, tuy ở sâu trong núi, nước rất độc, nhưng lại sẵn công việc. Vừa phần phu phen ở đây đông đúc, còn tứ chiếng hơn cả phu phen Hòn Gai. Toàn những kẻ sờ không ra, rà không thấy gì nữa, trốn sưu, trốn thuế, trốn nợ, hay cũng là những kẻ có can án, trốn án, mẹ La dễ trà trộn lẩn lút, không mấy ai để ý đến mình nữa. Ở đây mẹ La sẽ kiếm ăn được, mẹ đã có nghề đội than và lại chịu thương chịu khó.
Tám chín tháng, ngót một năm rồi, nếu mẹ La không ở mấy nơi ấy, mà đánh thấy hơi hướng anh em La, thì mẹ La sẽ lên Bắc Giang tìm thôi: Như vậy, sau chuyến này, La sẽ về Hải Phòng nghe ngóng thêm cho chắc chắn.
Trưa, La đến Đông Triều. La đàng hoàng vào một hàng cơm ở mé chợ. Để không phải ân hận như lần chạm trán với Ba lé tháng trước, La đều xem xét kỹ lưỡng từ lúc lên ôtô, tới khi ăn uống chuyện trò ở nhà trọ, rồi đến chiều tối và sáng hôm sau mới đi các nơi. La thay cái áo nâu vá mặc cái áo nâu còn mới và quần chúc bâu trắng, đi giày vải cho tươm tất hơn. La dán một miếng như miếng cao ở một mé mắt để phòng gặp phải người quen tò mò mà không tốt.
Ngay trưa hôm sau, La đi xe ngựa vào mỏ Tràng Bạch. Đây vẫn có ít công việc, còn hai mỏ Mạo Khê và Bí Chợ gần như hoàn toàn đóng cửa đã nửa năm. Rồi mấy tháng nay, Nhật về đóng quân sát Đông Triều, ngựa la kéo đàn kéo lũ, đêm đêm canh gác chặn các ngả đường chính, thu mua hết thịt cá rau đậu ngon ở chợ, sức giấy làm công việc gì hễ ai trái lệnh liền bắt giam hay đánh chết ngay... thì chẳng còn thấy chủ hay đốc công đốc kiếc gì đoái hoài tới sở mỏ nữa. Đến Tràng Bạch, La cũng chỉ ở lại có hai đêm và một ngày. Đây phu phen các xóm các lán cả thảy vài trăm người, bị thất nghiệp hơn nửa. Những nhà có người đi làm, La chỉ đảo qua vài lượt là biết hết. Phố chợ và bến xe cũng lèo tèo, tối đến chỉ mấy hàng sáng đèn. Đông nhất ở bến xe có đám nghe xẩm bên hàng phở...
Anh Khóa ơi! em tiễn đưa anh xuống tận bến tàu. Hai tay em nâng lấy khăn trầu giọt lệ chứa chan...
Người hát là một con bé trạc cái Lê, còn người đánh đàn bầu là ông bố mù, gầy xác như con ve, lưng gù. Chiếu hát chẳng có đèn đóm gì cả, nhờ ánh sao, ánh lửa bếp, ánh đèn chai của gánh phở, và hai ngọn đèn treo đỏ đục của hai hàng nước, họp thành một khu phố đêm với một xe ngựa và hai xe kéo trơ trỏng chờ khách sáng mai.
Giọng hát the thé, khàn khản, cố ngân nga và tiếng đàn phập phưng nắn nót của một bàn tay gầy guộc cóc cáy, lâu lắm La mới lại được nghe, nó vẫn làm La thấy luyến thấy thương một cách lạ. Chỉ có vài người thưởng tiền. Trong số mấy xu ném xoeng xoẻng vào cái chậu thau nhỏ đã rách cả miệng mà ông bố sờ sờ cố vét thật đủ, có cả đồng xèng Bảo Đại.
Mặc dầu La đã bỏ rất nhẹ như phải giấu giếm đồng kền năm xu vào chậu, nhưng không hiểu vì linh tính hay vì có tai nghe đặc biệt thế nào mà ông xẩm vừa dứt cung đàn đã quài ngay vào lòng chậu, chộp đúng ngay được.
- Năm xu đấy! đồng năm xu đấy.
Giữa ngay câu hát và điệu hát đang vút bổng lên, người con gái cũng cứ nói. Chưa đủ cẩn thận, cô còn cầm lấy hẳn tay bố và tiền. Sau đó, đôi mắt cô ở cái gương mặt bầu bầu bủng bớt cứ luôn luôn ngước lên nhìn La mà càng ngân nga giọng hát. La nghe thêm một bài nữa, bỏ thêm cả ba xu còn trong túi vào chậu rồi lách lách ra khỏi đám xẩm càng đông thêm sau khi được ông khách bé con không hiểu từ đâu về, và đi chơi với bà con làm ăn gì ở đây mà thưởng hào phóng thế?!
Vào Uông Bí, La tìm một hàng lúi xúi ở ngõ gần chợ để trọ. La nghỉ ngơi một lúc lâu, hỏi han và xem xét chung quanh rồi mới gọi mua cơm. Ăn xong La hỏi chuyện thêm rồi gửi bà chủ hòm đồ, để đi phố. Trước khi ra đường, La soi gương lượt nữa, sửa lại mũ áo và miếng cao dán. Nếu như trên Thái Nguyên La đi qua mật thám rất đông và khám xét rất ngặt, thì Uông Bí cũng không kém mấy. Ngày trước La đã nghe nói nhiều về đây. Hơn nữa Uông Bí lại đông người Hải Phòng vào ra. La sẽ được gặp nhiều người quen thì cũng đáng lo.
Không hiểu vì liền rừng núi hay vì thời tiết mà La thấy buổi chiều hâm hấp, lạnh không ra lạnh, nóng không ra nóng. Đâu đâu cũng có than có xỉ. Vừa khói nhà máy, vừa than bụi, lại còn gió nữa. Vừa gió ngoài cửa sông Bạch Đằng thổi vào, vừa gió núi thốc xuống, luôn luôn trời đất cứ đen sầm, xoay xoáy những đám bụi khói và rác rưởi. Đứng ở ngã tư đường chỗ đầu cầu sắt, trông ra ngoài bến than Đền Công đoàn xe goòng và cái đầu máy bò bò trong những đám khói đám sương chiều và mây biển nghi ngút, La lại càng nhớ đến các bến, các lán, các tràn ở Hải Phòng nơi trước kia mẹ La lần hồi, và nơi La đi boòng theo mẹ và bán bánh. Lúc còn con gái và mấy lần giận bố La, mẹ La cũng ra cả ngoài Uông Bí đây đội than hàng hai ba tháng.
Tối thắp đèn phòng thủ, nên phố xá, đường ngõ, cảnh vật càng mù mịt. Mặt người nào người ấy cứ xám xịt, dáng dấp cứ lừ lừ, lừng lững. Nếu không có những nón, những mũ, quang gánh, choòng cuốc xẻng, thì khó phân biệt được đàn ông, đàn bà, kẻ đi làm về hay chạy chợ. Mới hơn bảy giờ tối mà nhiều quãng không thấy ai đi lại. Khu chợ chỉ còn những ăn mày. Ở đầu cầu và bến ôtô cũng thế. Khu nhà sàn và nhà máy, lửa lò rừng rực phập phù, và những bóng người đứng máy hoạt động trông như ở những hầm sâu hay hang núi.
Lúc trở gió to, La mới ăn cơm. La gọi đơm một hào cơm, năm xu cá kho và ba xu canh đậu phụ. Ngoài mỏ dạo này càng khan hiếm, La xót ruột quá muốn ăn một bát canh dưa hay rau muống mà không có. Nhà hàng chỉ có ba đám khách trọ. La và một người phu trong Vàng Danh ra, về quê ăn giỗ mẹ. Còn là bốn mẹ con, có bố làm phu trong mỏ, người vùng biển Nam Định.
Hàng đủ giường chõng cho khách nằm, nhưng gia đình nọ khẩn khoản xin được nằm đất kẻo con mọn bẩn thỉu. Người mẹ có chiếu hẳn hoi nhưng lại nói bà hàng cho mượn mấy mê chiếu bằng bao bì đường để trải nằm. Và chỗ nằm là cái xó để than củi và cối xay bột giáp vách với bếp. Bà hàng và người mẹ nọ đã mặc cả đi mặc cả lại với nhau rồi ngã ngũ như sau: Nhà hàng không lấy tiền trọ và mẹ con không muốn dọn cơm cũng được, nhưng sáng sớm mai, trước khi vào trong mỏ, bà hàng có đống than cám mua ngoài bến than, mẹ con sẽ gánh hết đánh đống gọn cho bà ta ở chỗ mẹ con nằm nhờ ấy.
La đã chú ý xem mẹ con nhà nọ có nắm cơm hay gạo ngô gì thổi nhờ, nhưng từ chiều đến giờ vẫn chẳng thấy động tĩnh gì cả. Tới lúc La gọi dọn bữa, nhà hàng như không còn khách nào nữa, nồi cơm gần hết, thức ăn chỉ còn bát chậu cá kho và liễn canh đã nguội, thì người mẹ mới nhấp nhổm vừa ru vỗ đứa con bé trong lòng, vừa lào thào nói với thằng con lớn:
- U không đói đâu!
- U không đói nhưng hai đứa nó đói!
- Tao đã cho chúng nó ăn cả gói bánh đúc ngô mua ở chợ mà. Tao có động đến miếng nào đâu!
- Cả ngày được mấy miếng bánh đúc làm gì nó chả quấy!
- Thì tao vẫn cho nó bú!
- U cho nó bú cái vú da ấy à?
- Thôi tao không nói với mày! Đấy mày có tiền mày muốn mua giời mua đất gì thì mua!
- Đến cơm ăn còn chả dám mua nữa là!!!
- Cơ cực, cay đắng quá với con với cái! Thôi chuyến này tao đưa chúng mày vào ở với bố chúng mày, mấy bố con tha hồ mà làm mà ăn, còn tao lại về nhà quê hay đi chết đâu thì chết thôi!
Người mẹ bế đứa bé đứng lên, khúm núm lại chỗ bà hàng đang gắp gắp chọn chọn cá kho và đậu phụ cho La.
- Thưa với bà, bà đã thương cho mẹ con nhà cháu ở đỗ...
- Thì tôi có nói gì đâu!
- Vâng thế mới là bà thương, chứ các nhà hàng khác thì ai người ta chịu chứa chấp... Nhưng thưa bà thế này thực là không phải...
Bà hàng càng nhăn nhúm nét mặt:
- Thôi... để tôi dọn cơm cho khách và còn dọn hàng kẻo chốc nữa con bé nhà tôi nó đi đò về, nó phải thu xếp nó lại chửi tôi!..
Người mẹ rung rung cánh tay bế con, chờ bà hàng đưa thức ăn và ngồi hẳn vào chỗ mới nói tiếp:
- Con đã thưa với bà như thế. Giờ con muốn thưa thêm với bà, là nếu nhà còn cơm mà cậu khách gọi không hết và không còn khách ăn nữa thì bà...
- Bác mua à? Còn hơn ba bát đấy!
- Thưa bà, con muốn thưa với bà, như không còn khách ăn nữa, thì bà làm ơn... bà làm ơn cho... cho các cháu... rồi mai còn những việc gì làm nữa... bà bảo mẹ con cháu xin làm cả ạ...
La đứng lên, cầm đũa huơ huơ:
- Bà hàng ơi! chỗ cơm ấy bà cứ đơm cả cho cháu và cho cháu nốt chỗ canh...
Cả người mẹ và nhà hàng như cuống lên. La tươi cười:
- Bà hàng để cả chỗ cơm cho cháu, tính thêm cháu bao nhiêu cũng được... Bá Nam Định ơi! Bá và các cháu ăn với tôi; tôi giả cả tiền cho.
La móc ví lấy đồng hào đôi đặt lên tấm tải đậy nồi cơm ủ trong thúng, đoạn bưng hẳn liễn canh lên, để sẵn sàng bên mép chõng trước mặt người mẹ.
- Bá gọi cả hai cháu ra ngoài này... cứ ra cả ngoài này mà ăn với tôi.
Bà hàng lườm mẹ con nhà nọ một cái rất tươi, rất ngọt.
- Thế là mẹ con nhà bác ra ngõ gặp giai đấy! Thì cậu khách đã cho, mẹ con cảm ơn đi...
Người mẹ tay ôm con bé, tay bưng bát chậu đầy cơm, cùng thằng con lớn bưng liễn canh vào chỗ mê chiếu trải dưới đất. Trong khi hai đứa con lớn xẻ mỗi đứa một bát cơm ăn, thì người mẹ nhá nhót cho đứa bé. Thằng nhỏ cứ nuốt thun thút, nhiều miếng nó đớp ngay từ miệng mẹ, không để mẹ kịp cúi, mớm cho...
Gió thổi như bão. Tiếng nhà máy chạy và tiếng sóng nước ngoài xa càng ầm ầm, nhiều lúc dồ lên tưởng như có hàng hồi còi tàu biển hay đoàn xe nào rúc. Bóng tối và khí núi mịt mùng thêm trên mặt đất toàn than bụi. Người m?