Thời Kì Đen Tối Chương 8
Đám khách quí ấy vừa được cố bà Đức Sinh thân dẫn đi xem cái hầm tăng xê mới xây xong trị giá còn hơn cả một tòa nhà phố Tây, thì như một đám rước, họ lại kéo vào cổng vào sân rồi vào phòng khách của cố bà. Không cần cờ biển tàn quạt, chiêng trống gì cả, đám rước này vẫn long trọng khác thường. Đi đầu là cha Nhân. Cha vẫn mặc áo chùng thâm, lòa xòa, đội mũ nhung rộng vành, cổ đeo một tràng hạt bằng huyền nạm bạc có một thánh giá nhỏ bằng bạch kim. Tuy cha đi đầu, nhưng luôn luôn cố bà Đức Sinh bước vội lên. Tay cố cầm cái quạt Hới nhài nạm vàng và một cỗ tràng hạt có chùm thánh giá và tượng ảnh Đức mẹ cũng toàn bằng vàng, cứ giơ giơ lên quạt quạt che che như sợ ai vô lễ đụng vào gót chân cha, hay quần áo của cha chạm vào cây cối tường gạch, và nhất là chạm phải người nào đó. Thy San, Huệ Chi, Bích Nga đi đằng sau; còn dàn ra ở mấy lớp đằng sau nữa, là các vị chức sắc to của nhà xứ và mấy con chiên giàu sang nhất huyện sở tại.
Đáng lẽ vợ chồng nhà Tuần phủ sẽ đi cùng hàng với Thy San, nếu không thì Tuần phủ chồng phải đi ở phía bên kia Đức Sinh để cùng Đức Sinh mời cha tiến bước. Nhưng có thể vì không dám tranh cái vinh dự ấy của gia chủ, vừa phần vợ chồng y đang nhắm Huệ Chi hoặc Bích Nga cho một trong hai con trai của mình, nghĩa là họ sẽ chỉ bằng vai với Thy San thì không nên sóng hàng cùng cố Đức Sinh vậy. Nhưng cũng chưa phải hẳn như thế, và lý do này thì ít ai nghĩ ra nổi. Vợ chồng Tuần phủ, mà Tuần phủ vợ là chính, muốn được ngắm nghía kỹ lưỡng hơn nữa dáng dấp của hai cháu gái Đức Sinh mà y sắp định hỏi làm dâu con. Gương mặt từ đầu mày, cuối mắt đến cái trán, cái tai, cái mũi, cái môi, cái miệng, cái răng, cái cằm... y đã so đi sánh lại cẩn thận rồi. Nay còn kiểu đi đứng và hơi hướng, vậy thì không dịp nhận xét nào tốt hơn dịp này, nên y lùi lại như thế để vừa giữ lễ, vừa được cái thế lợi gần Huệ Chi và Bích Nga mà ngắm nghía tính toán.
Phải, Huệ Chi thì rất mực hiền hậu dịu dàng, nhưng người như cua bấy, vú vê, mông đít thế kia, thì đẻ đái và nuôi con thế nào? Nhất là cái sự sinh nở! Còn Bích Nga hồng hào tươi tắn, đúng vào ca tốt nái, nhưng lại sắc sảo và tinh nhanh quá, e rằng không hợp không lợi cho chồng.
Còn những ý nghĩ này mà Tuần phủ chồng và Tuần phủ vợ không ai nói với ai nhưng đều chung một điểm. Cả hai đều ngài ngại trước bộ mặt lạnh lùng trầm ngâm của Thy San, cũng như trước những cái nhìn và những câu nói giữ thế giữ miếng của Thy San bao giờ cũng nhẹ nhàng dung dị. A! Cái bộ mặt với cái thế của một ông thông gia tương lai! Nếu vợ chồng y nhờ mối manh có kết quả thì chắc chắn sẽ được nhờ cậy nhiều thứ quá sức tưởng tượng. Chẳng những chỉ được nhà cửa, tiền của và vốn liếng, mà điều quan trọng nhất là được Thy San sẽ nuôi cho "cậu" chồng Huệ Chi hay Bích Nga đi du học bên Tây, đỗ đạt thật cao và phỉ chí thi thố tài năng.
Hình như đã thông suốt những dự định của bố mẹ, nên hai công tử nhà vợ chồng Tuần phủ đều rất ý tứ trong việc đi đứng ăn nói ngay từ lần thăm hỏi trước chỉ được chạm mặt với cố bà Đức Sinh và Bích Nga rồi đến lần này mới được Thy San tiếp đón. Cả hai là sinh viên: anh trường cao đẳng thương mại, em trường thuốc, suýt soát tuổi nhau, kẻ hai mươi ba, kẻ hai mươi tư, đều khét tiếng học giỏi. Nếu không xảy ra đại chiến Pháp Đức và quân Nhật sang đây, thì cả hai đã vào trường luật chỉ mấy năm nữa sẽ cũng ra làm quan rồi!
Trong khi cố bà Đức Sinh sun soăn cứ luôn luôn giơ giơ tay mời cha Nhân đi trước, thì Tuần phủ chồng cũng cố ý đi tách ra một chút vừa để hai quý tử dẫn bước cho đĩnh đạc, phong nhã, vừa để nhắm nhía những vưu vật của mình nổi trội giữa đám người rất thèm muốn có được danh vọng và con trai như vậy.
Lúc ấy, ở trên gác, Giáng Hương vẫn nằm yên, lim dim mắt mà nhìn ánh nắng cùng lá cây chao động ngoài rèm cửa, và thở những làn hương từ bó hoa hồng vàng của Thảo Minh cho tỏa bay lúc ẩn, lúc hiện, lúc rực hẳn lên ở trong phòng. Tuy không cần trông thấy cái mũ nhung rộng vành, cái áo chùng thâm lòa xòa, và bộ mặt nhọn, đỏ sần, râu cằm loăn xoăn như râu ngô, cũng như không cần trông thấy hai cái thân hình phì nộn, dáng đi khệnh khạng, kẻ thì bài ngà kim tuyến trước ngực, kẻ thì hộp trầu khảm bạc cầm tay,... cũng như không cần trông thấy mặt mày, quần áo, và dáng điệu của hàng chục con người đến chơi nọ, - Giáng Hương cũng biết ngay rằng có những ai những ai.
- Đúng là một con chó sói đeo thánh giá và một bầy chiên no mụ vì bánh thánh và kinh bổn đến vui vầy ơn lành của Chúa ở một vườn Địa đàng là ấp An Sinh đây! Không biết con mụ Đức Xệ đã rực cả người vì những phúc lộc thọ kia, có chịu buông tha ta buổi sáng đẹp trời này không?
Giáng Hương lại trằn người, và ôm xiết lấy cái gối nhồi lông chim, quay mặt vào tường, cố không nghĩ đến những cảnh ở dưới gác... Phòng khách ấp An Sinh lại sửa sang trang hoàng thêm trong hơn bốn tháng nay để đón khách quí. Ngay khi bước vào, cha Nhân rất hài lòng thấy tấm ảnh đức thánh Pha Pha trị vì Hội thánh đã đem từ trên Hải Phòng về, lồng trong một khung sơn son thếp vàng chạm trổ có cả rồng phượng và những cành thiên tuế kết với hoa huệ, cao rộng gần hết mặt tường. Một ghế bành nệm nhung đỏ kiểu thời Lu-i đặt dưới khung ảnh, là chỗ của cha. Nhưng từ lúc vào, cha Nhân không ngắm nhìn kỹ lắm ảnh của Đức bề trên mình, mà lại chăm chú vào ảnh thống chế Pêtanh cũng lồng trong một khung sơn son thếp vàng. Khung này chỉ nhỏ bằng nửa tuy cũng treo giữa tường nhưng là trên một ô cửa. Chỗ này cũng có một ghế bành kiểu thời Lu-i nhưng thấp hơn nhỏ hơn. Tuần phủ chồng ngồi ở đây để hầu diện cha Nhân cũng như thống chế quốc trưởng hầu diện đức Thánh cha vậy.
Còn những ghế chính ở bên phải và bên trái cha Nhân thì bà mẹ Thy San, Thy San, Tuần phủ vợ và các con gái con trai hai gia đình chia nhau ngồi.
Thêm một điểm nữa làm cha địa phận ưng ý, là bức tranh phong cảnh và bức tranh áp phích của phòng khách. Tranh treo phía trên bàn nước, vẽ sơn dầu, cảnh một hồ sen và đồng ruộng giữa nổi một tháp chuông nhà thờ kiểu Gôtích tuy ở thôn quê An Nam nhưng có một vẻ gì khang khác từ màu sắc tiết tấu đến tinh thần... mà chỉ những người như cha Nhân hay quan công sứ, quan tư giám binh thuộc địa mới thấy hết được sự khoan khoái khi thưởng thức. Còn tranh áp phích là cảnh một khu đấu xảo, có đủ người bốn giới sĩ nông công thương tươi cười nô nức đưa các hàng hóa sản vật và dắt dẫn bà con cháu chắt của mình đến xem. Nền tranh có lá cờ tam tài in hình thống chế quốc trưởng, và ba khẩu hiệu Cần lao - Gia đình - Tổ quốc với mấy dòng chữ: Thống chế đã nói: Các gia tộc có nghĩa vụ giữ gìn hết đời này sang đời khác những đức tính cố cựu đã làm cho dân tộc hùng cường"...
- Xin phép lạy cha ạ...
- Xin phép lạy cha ạ...
- Xin phép lạy cha ạ...
Lại thêm mấy bọn con chiên nữa vào hầu. Những người này đều chắp tay đứng men mén ở các xó cửa, tuy cũng quần nọ áo kia, vàng đầy người và cũng là chức sắc.
- Kính trình cha, ngày lễ Đức Bà lên lời năm nay cha cho xứ đây làm lễ rước kiệu ạ.
- Kính trình cha, cụ chánh trương xứ An Sinh đã xin được phép cho thanh niên lập đội kèn đồng. Kỳ mở hội thể thao toàn tỉnh Kiến An, lên thi kèn chào mừng ngày đón các quan trên Hà Nội về phát thưởng, ăn mày ơn Chúa, đội kèn An Sinh được bằng khen thứ nhì, chỉ đứng sau đội kèn lính khố xanh của quan công sứ...
- Kính trình cha, nhà xứ lại mua được hai bè gỗ lim đưa ngoài Quảng Yên về, và nhờ người mua được cả sắt và xi măng. Như vậy sang năm xin phép cha đến ngày lễ phục sinh thì khởi công xây nhà xứ mới.
- Kính trình cha, cả bãi bồi mới bao hơn hai trăm mẫu ngoài kia, cụ lớn Thiếu Hà Đông và quan Tuần tỉnh nhà mua được hết cả, có bớt lại cho xứ nhà mười mẫu để làm chân ruộng Đức mẹ. Vụ mùa năm ngoái, ăn mày ơn Chúa được tốt, dân xin đóng cho nhà xứ ba mươi thùng thóc, nhà xứ thương cảnh họ làm ăn chân nâng và đám ruộng phải tát nước mấy mẫu, đã hạ cho họ năm thùng, vậy mà họ còn lên kêu với cha đấy ạ...
Hết cố bà Đức Sinh kính trình cha, xin phép cha, lại đến Tuần phủ vợ xin phép cha, kính trình cha. Sau những phút im lặng rất tôn kính để chờ cha uống nước và ban ơn hỏi han đến mình, những chức sắc cao tuổi và mấy người sang trọng nhất chầu ở mép ngoài mới dám cất tiếng, đầu cúi cúi, giọng nói hổn hển. Họ thấy thật là sung sướng còn hơn cả được tiền được của. Họ phải ghi nhớ và kể lại đời đời sự đầy ơn đầy phúc của hôm nay. Những chén trà ướp thủy tiên lần lượt dâng lên cho cha Nhân, cố bà Đức Sinh, Thy San và vợ chồng Tuần phủ. Tuy ra vẻ hết sức cung kính ngồi hầu cha, nhưng Tuần phủ vợ không bỏ lỡ một dịp nào để gợi chuyện và đón nhời của Thy San.
- Thưa ông, cả hai cháu đều ở Đông Dương học xá. Đây có cả hoàng tử vua Cao Miên ra trọ.
- Thưa ông, các sinh viên đều ăn uống như nhau. Thấy nói toàn cơm Tây, nhiều bữa bốn năm món thịt ăn không hết.
- Thưa ông, được đi nghỉ mát đấy ạ, nhưng hai cháu không đi...
- Thưa ông, chính quan Toàn quyền đại thần Người đỡ đầu danh dự nhà trường.
- Thưa ông... đúng là bao giờ tương lai cũng ở sinh viên. Bởi vậy cho nên gia đình chúng tôi bao giờ cũng phải lưu tâm đến sự ăn học của hai cháu.
- Thưa ông, hai cháu bao giờ cũng được các giáo sư chính và giáo sư phụ chú ý đặc biệt...
- Thưa ông chính thế đấy ạ...
- Thưa ông thật là như thế đấy ạ...
- Thưa ông bao giờ cũng vẫn là như thế ạ...
- Thưa ông bao giờ cũng phải là như thế ạ...
- Thưa ông ý Bề trên...
- Thưa ông nhờ ơn Bề trên,...
- Thưa ông... dạ thưa ông... vâng thưa ông...
Tuần phủ vợ gần như không để chồng và hai con nói câu nào với Thy San. Cũng như mụ không để Thy San kịp dứt câu hay chồng và hai con kịp mở miệng. Đã nhiều lúc Thy San định chuyển sang nói chuyện với hai "cậu" ở trước mặt mình bằng mấy câu tiếng Pháp để không những thay đổi không khí mà còn để hiểu xem đôi chút những ý nghĩ của hai trang sinh viên tuấn tú được coi là tương lai của xứ sở và mầm mống của văn minh này, nhưng thấy khó chuyển thế quá. Thy San như là cầu thủ của một đội bóng bị đối phương vừa giàu kinh nghiệm vừa giàu thể lực và mánh khóe, bắt mình bị động. Trong khi ấy Tuần phủ chồng thì như một thủ quân hay giám khảo, với bộ mặt rất tươi tỉnh, nhã nhặn, dễ dãi và thật là phúc hậu, chỉ điềm đạm ngồi xem!
Càng phải làm ra vẻ lịch sự và rất điềm đạm, Thy San càng thấy phải chịu sâu cái sự chán bã giữa một đám khách đã chẳng thích thú một tý gì lại còn thấy khinh, thấy gai cả người. Và Thy San càng phải nghĩ về Giáng Hương. Giáng Hương lại đi chơi về, nằm ở ngay trên gác kia. Giáng Hương đi chơi không những cả sáng nay mà cả ngày hôm qua, hôm kia. Giáng Hương nằm vẫn chẳng cần thiết gì, chẳng cần thấy có gì ở trong nhà, hay là những ai đang sống với mình!
Ôtô của Thy San đã bóp còi khi vào cổng. Đúng lúc Thy San và cố Nhân bước xuống xe, thì Giáng Hương ôm bó hoa hồng vàng ở trước cửa quay ra trông nhưng cứ lên gác. Chả nhẽ Thy San lại gọi. Cũng như chả nhẽ Thy San lại chạy theo. Cũng như chả nhẽ Thy San phải bảo tài xế lái xe cho Thy San đi tìm Giáng Hương khắp khu nghỉ mát Pagôđông ngoài Đồ Sơn hay khu Bãi Cháy ngoài Hòn Gai. Và cũng chả nhẽ Thy San đành phải đổi lấy cái gật đầu chứ chưa được là nụ cười của Giáng Hương lại bằng... tiền. Tiền! Tiền!...tiền đến tay Giáng Hương, vào tay Giáng Hương cứ như những ngấn nước rút xuống một cái giếng thẳm không đáy và xây bằng thủy tinh vậy. Chả nhẽ!... Chả nhẽ!...
Ở khu nhà ngang và nhà bếp bên kia, quang cảnh vẫn nhộn nhịp, tất bật không tưởng tượng được. Còn ngoài ngõ và cổng đằng sau, ăn mày lại kéo đến đông gấp đôi lần trước. Họ kháo nhau ở ấp cụ cố có vợ chồng quan lớn đầu tỉnh đến xem mặt hai cô, và lần này chính ông bà Thy San thừa tiếp. Người mù, người què, người già, đàn bà con mọn, nằm ngồi la liệt hai bên đường, bờ rãnh, bụi ruối, gốc cây. Họ van xin, vặc nhau, chửi nhau, khóc lóc, kêu gọi không một phút nào yên, bên cạnh những đàn trẻ con nô đùa ầm ĩ. Chỉ có hai người trong nhà Đức Sinh chú ý đến đám ăn mày và trẻ con nọ: bõ Quý và cậu Khòa.
Bõ Quý vẫn luôn miệng thét chửi rồi huýt gọi đàn chó cứ chực xông ra, khi những của ma của quỷ ở bên ngoài kia thò cả đầu cả tay vào gần cổng mà quờ quạng, lạy lục, kêu xin.
" - Chúa quỷ Sa tăng lôi chúng nó xuống đáy địa ngục đi. Chúng nó định gieo tai gieo vạ cho ai vậy? Chúng nó mà có bị chó cắn lòi mắt, nát cổ đi nữa thì chỉ đáng đời đáng kiếp chúng nó thôi! Nhưng cái thằng Quý này mà để cha chánh xứ, quan Tuần và ông Cả về chơi phải bận tâm bận trí cái sự lăng nhăng ấy thì còn thể thống gì nữa?!"
Khòa chỉ cười. Chốc chốc Khòa lại phải ghé mắt nhìn hay ghé miệng nói qua cái lỗ hổng rất bí mật, rất bất ngờ, ở một góc tường sau bếp mà bọn trẻ bên ngoài cứ luôn luôn thò ngón tay, thò que, thò lông gà vào ngó ngoáy, hay nghiêng mắt mà nhấp nháy gọi Khòa.
- Ốc ữa! Ốc ữa! Ốc ữa ăn à, ốc ữa ì o à (Chốc nữa! Chốc nữa! Chốc nữa thì ăn mà, chốc nữa thì cho mà!)
- Nhưng mà đói lắm rồi cậu Khòa ơi?
- Hay chưa có cơm có cháy gì thì cậu Khòa cho củ khoai bắp ngô sống cũng được.
- Cậu Khòa ơi! Chúng nó bảo cậu vừa có mấy đồng bạc kia đấy. Cậu cho chúng cháu vay hai hào thôi, rồi chúng cháu đi bơi với cậu, đánh vật cho cậu xem.
- Ê u a ạy úa ôi! ứ ế, ại ứ ế ôi! ứ i ơi âu ì i i..; ốc ữa ao o.. ốc ao o (Giêsuma lạy Chúa tôi! Cứ thế, lại cứ thế thôi. Cứ đi chơi đâu thì đi đi... Chốc nữa tao cho, tao cho...)
Tuy Khòa gắt gỏng rền rĩ nói với những đứa trẻ, nhưng Khòa vẫn thấy vui vui và sung sướng một cách lạ. Rồi khi quay vào bổ củi, gánh nước, xúc than, Khòa lại mỉm cười một mình, bộ mặt vẫn nhăn nhúm như mếu. Hôm nay, không những Khòa mặc quần dài, áo chùng mà còn đội khăn xếp nữa. Cái khăn rách có nhiều nếp tòi cả bấc, nhô lên cái chủm sọ lơ thơ tóc. Những lúc bị ruồi bâu quá, Khòa lại lấy một ngón tay thò vào, cậy cậy gãi gãi, và chỉ muốn vứt cái khăn, cởi cả áo đi...
Càng nắng to. Trong nhà, tuy hai bên cha Nhân đã có một chú bé và một quan viên đứng từ xa quạt lại, nhưng cố bà Đức Sinh vẫn luôn luôn quạt quạt thêm cho Cha. Cử chỉ này chính để cha không thể chuyện lâu, chuyện nhiều với người khác. Khi phe phẩy như thế, Đức Sinh cười hơn hớn, nhìn thẳng vào mặt cha Nhân, bắt cha Nhân phải nhìn lại mụ và nghe mụ nói. Và tất cả những câu Đức Sinh nói đều có dụng tâm làm cha Nhân phải chú ý đến Thy San hoặc phải bắt chuyện với Thy San, nói với Thy San, nói về Thy San.
- Kính trình cha, ăn mày ơn Chúa, năm ngoái anh Cả
có đi Đà Lạt về thì cũng đỡ cái mệt và người lên được
một cân.
- Kính trình cha, tuy không có tàu bè ăn hàng nữa nhưng anh Cả nó vẫn cứ phải bận về những việc gì ấy.
- Kính trình cha, vậy mà anh Cả nó chẳng trưa nào chịu ngủ đến quá hai giờ, và chẳng sáng nào khi đánh chuông nhất nhà thờ mà không dậy.
- Kính trình cha, cả mấy kỳ quốc trái anh Cả nó đều mua... kỳ nào cũng đứng đầu mọi người...
- Kính trình cha, mấy việc ấy, anh Cả nó đều để cho người khác nhận hết đấy ạ.
- Kính lạy cha, chuyến xe ấy tài xế vô ý đâm phải người, nhưng vợ chồng anh Cả nó không việc gì, còn người bị chẹt đưa ngay về Hà Nội chữa. Họ chỉ bị giập một bên đùi thôi, nhà đã cho họ hẳn hai trăm đồng. Làng xóm ai cũng bảo bị què lại hóa ra may, được như thế thì lãi quá!
- Kính thưa cha, anh Cả nó có phải chi tiêu hay mở mang gì mà rút tiền nhà băng ra! Còn con vẫn tậu thêm đất thêm nhà vì cũng chẳng muốn giữ tiền làm gì nữa phần cũng muốn giúp đỡ người ta khi loạn lạc.
- Kính trình cha... Nhà chung trả khu đất và hai tòa nhà ấy năm vạn là phải giá lắm. Nếu Nhà chung lại cần đến tiền thì xin cứ bảo con.
- Kính lạy cha, anh Cả nó không nghe ai đâu ạ! Anh Cả nó bảo cứ ở Hải Phòng cho đến hết chiến tranh...
- Kính lạy cha, chúng con xin dốc một lòng vàng theo Thánh ý và chỉ biết ăn mày ơn Chúa thôi ạ.
- Kính lạy cha thật là như thế, cả và thế gian này là trong tay Chúa là thuộc quyền của Chúa... ú úa...
Mồ hôi đã vã ra ở cả trán và lưng cố bà Đức Sinh. Càng thẫm mồ hôi, nước da hồng hào và những tảng thịt ở cánh tay, bắp vai và sống lưng của cố bà càng nổi hẳn lên. Mặt cố bà càng sáng và linh hoạt thêm, không rời bỏ một nét gì của cha Nhân cũng như của vợ chồng con cái tuần phủ. Nhiều lúc trong nụ cười và dáng điệu ngượng ngùng một cách rất ý tứ của cố bà trước đôi mắt nhìn chăm chú và lời ban khen của cha Nhân, còn thấy thêm một cái sự này nữa ngoài cái sự nực và nóng: Say! Phải! Càng nói cố Đức Sinh càng say như người lên đồng vậy.
Và càng say, càng ngắm, càng nhìn, càng nói đến Thy San thì cố bà Đức Sinh càng phải so sánh nghĩ ngợi về nhiều chuyện.
Tuần phủ chồng hình như hơn Thy San những bảy tám hay mười tuổi kia đấy. Nghĩa là nếu năm nay nó không sáu mươi lăm sáu mươi sáu thì cũng sáu mươi mốt, sáu mươi hai. Nhưng không hiểu máu huyết nó thế nào mà tóc chưa bạc, trán chưa nhăn, răng chưa rụng trông người càng mập mạp hồng hào. Mà nếu như nó không có cái thẻ ngà bịt vàng, dây vàng đeo ngực cài thêm một cuống mề đay tam tài, và nó không mặc bộ quần áo xúng xính, thì người ta phải bảo đấy là chủ thuyền mành, một lái gỗ hay một chủ lò nước mắm vô bệnh vô tật, đang tuổi làm ăn và đang gặp vận ấy... Mụ tuần phủ cũng là kế thất, gần năm mươi tuổi rồi đấy, nhưng mụ vẫn còn con bé, nuôi vú sữa trông coi, và thằng bé này là thằng thứ tám, khiến mụ vẫn thèm đẻ, vì chỉ toàn có nếp, chưa có tẻ.
Quái! Không biết tại sao mà đến giờ vợ chồng thằng Cả nhà này vẫn chưa được con cái gì với nhau? Sao cũng là hột cơm hột gạo, cũng tẩm bổ và tẩm bổ cũng đến như nhà mình là cùng thôi, mà người nhà mình thì càng ngày càng như con hạc còn thằng tuần phủ nọ thì càng ngày càng khỏe càng trẻ ra và đông con thêm mãi thế kia? Chao ôi chữ nghĩa, văn minh, lịch thiệp... chỉ là cái hương cái hoa không ai ăn được! Đàn bà cần nhất là phải đẻ, và đàn bà được vào cái cửa như cửa nhà này thì...
Cố bà Đức Sinh đưa mắt nhìn Tuần phủ vợ, ước thầm nếu Giáng Hương chỉ được một hay hai con trai bằng cái đẻ rốn của mụ nọ thôi, thì chắc chắn gia đình phải vui vẻ gấp năm gấp mười, và không khéo Thy San lại tươi tắn, khỏe khoắn, chứ không đăm chiêu gầy guộc như thế này. Nhất là lại càng làm ăn phấn chấn! Tiền gửi nhà băng, vàng mua thêm, nhà đất tậu thêm, vinla to vinla nhỏ xây thêm... và còn thêm... cứ thêm nữa!...
Chỉ sau mấy đợt cười khanh khách vì được những lời cha ban khen, hỏi han và được những câu nói của Tuần phủ vợ trúng ý thỏa lòng, cụ cố Đức Sinh lại vội bỏ ngay sự buồn bực trên đây. Rồi tới khi vợ Tú thập thò ngoài cửa, mãi mới dám rón rén đi vào, xin phép nói khe khẽ với cố bà về những món ăn đã làm xong, và chờ thêm ý kiến, thì cố bà Đức Sinh vội vẫy vẫy tay cho con dâu thứ đi ra, rồi đứng dậy:
- Xin phép cha cho con xuống xem nhà bếp chúng nó làm ăn ra sao. Lại có thêm đầu bếp đấy, nhưng không có mặt con trông qua thì vẫn không xong. Con chỉ xin phép cha mấy phút rồi lại lên hầu cha ạ ạ ạ!...
Phải, hôm nay nhà có khách không mổ lợn, nghĩa là chỉ làm "cơm thường" thôi, nhưng nằm ở trên gác, Giáng Hương vẫn như thấy tiếng lợn eng éc rin rít ở bên tai và cả trong đầu. Không những thế, các tiếng cười tiếng nói, chuyện trò thưa gởi, truyền phán ở phòng khách mà Giáng Hương càng cố không chú ý đến, càng cố không cho lọt vào tai, thì nó lại càng vang, càng lọng, càng rành rọt. Đồng thời, từng bộ mặt, từng dáng điệu cử chỉ của từng người, nhất là của cố bà Đức Sinh và của Tuần phủ vợ càng rõ rệt trước mắt Giáng Hương. "Nếu chuyến này Thy San không lì lợm cứ lên Tam Đảo và như áp tải ta về Hải Phòng, thì hôm nay ta có thể đang ở Hà Nội. Và cũng rất có thể ta sẽ tạt qua nhà hôm giỗ mẹ ta là ngày kia đấy!..."
... Mẹ Giáng Hương chết thế mà đã tám năm rồi. Đúng năm Giáng Hương lên tám thì vợ chồng lão tây đốc học nhận đỡ đầu Giáng Hương đưa Giáng Hương sang Pháp cho vào trường Bà Sờ, năm mười sáu thì sang Thuỵ Sĩ học may mặc cũng vẫn trường Bà Sờ. Rồi năm hai mươi bốn tuổi thì Giáng Hương nhận lời lấy Thy San, đi máy bay từ Pari về Hà Nội rồi xuống Hải Phòng làm lễ cưới. Vì Thy San là bên giáo, và Đức Sinh thì nhất định không cho con trai mụ làm lễ gia tiên nhà vợ, nên chỉ có mấy bà cô bà thím đằng họ Giáng Hương đưa Giáng Hương ra ôtô, chứ không có mẹ chồng hay ông chú bà bác họ nhà chồng đón dâu gì cả! Mẹ Giáng Hương đứng trên gác nhìn xuống mà dân dấn nước mắt.
Chẳng khác gì mấy cái cảnh ngày xưa mẹ Giáng Hương về nhà chồng! Cũng không có chàng rể làm lễ nhà thờ họ, cũng không có mẹ chồng đi đón đi rước. Mẹ Giáng Hương bồ côi cha mẹ từ sớm. Ông chú là một cụ đồ nho đông con ở tỉnh khác nhận về nuôi dưỡng cho đến lớn. Gả bán cháu gái là bà thím. Cả tiền sắm sửa may mặc và chia trầu cau, làm cỗ mời thôn xóm họ hàng mất đâu có trăm rưởi. Còn hai trăm rưởi trong số tiền thách cưới, thì bà thím lấy để chuộc nhà chuộc đất mà ông chú đem cầm đã lâu vì túng đói, mặc dù ông nổi tiếng hay chữ và có nhiều học trò đỗ đạt, mấy người làm đến quan huyện quan phủ...
Giáng Hương về nhà chồng vào đầu mùa đông. Không phải vì hôm đó không rét, cũng không phải vì lễ nghi quá sơ sài, nên buổi cưới con, bà mẹ Giáng Hương đã gầy còm song không chịu mặc áo nọ áo kia của các con may cho. Bà lại giở cái hòm da khóa đồng, lấy đôi áo bằng the thâm và lụa mỡ gà, chiếc quần nái và chiếc khăn nhiễu tam giang sắm từ ngày cưới mình, nếp nguyên như mới và thơm nức, mà đóng bộ với đôi nụ hổ phách, đi dép cong, để tiếp mấy bà con thân thiết nhất. Cũng với bộ quần áo, khăn và đôi nụ tai này, mẹ Giáng Hương đã mặc theo nhập quan, thêm cái quạt Hới nhài đồng tụ và cỗ tràng hạt huyền, khi còn sống bà vẫn đeo đi chùa
Chao ôi! Của nả riêng tư của mẹ Giáng Hương có những như thế đấy. Người mẹ thân hình bé nhỏ, mười sáu lần sinh nở, không một tiếng chửi con, không hề biết tủ két của nhà hay vốn liếng của các con có bao nhiêu; cả năm bà chỉ ra khỏi nhà mấy ngày Tết và tháng ba đi tảo mộ, đến lúc hấp hối bà vẫn không cho con cháu biết thật quê quán mình ở đâu và anh em chị em là những ai. Không, người mẹ Giáng Hương kia còn có thêm những thứ này nữa: một thúng Thanh quang dầu đựng các thứ lá giải cảm, thuốc ho, thuốc đi rửa, chớ, chốc nhọt v.v... của trẻ con và một cuộn các thứ mụn lụa, nhiễu, vải để vá quần áo cho cháu. Cái thúng và các thứ này Giáng Hương phải lấy vội đi, và hiện nay cất cùng với các vật kỷ niệm khác quý nhất trong một tủ nhỏ ở đầu giường mình mà chìa khóa không bao giờ rời người cả!
Sực nhớ đến mẹ, Giáng Hương lại thấy như được nằm bên mẹ, để mẹ tuốt trứng cho.
Đây là một chi tiết, và là một cảnh tượng có thể coi như hạnh phúc tuyệt vời trong đời mẹ Giáng Hương.
Thường thường, cháu gái lớn cháu gái bé, nội hay ngoại nào cũng đòi được đi ngủ với bà. Trời bức thì bao sạch sàn gác nằm. Trời rét thì trải liền chiếu hai bộ phản ngựa và đúc mấy chăn lại. Bảy, tám, chín, mười... cháu cứ nằm quây lấy bà. Mẹ Giáng Hương vừa quạt cho cháu này, vừa xoa rôm vừa gãi cho cháu khác. Tối trời lạnh giá, mẹ Giáng Hương thường chọn những cháu gái nào tóc tai bù xù nhất, cho gối đầu tay hay nằm lọt vào lòng mình mà tuốt trứng. Chính người chị thứ mười bốn đẻ trước Giáng Hương một đốt, đến năm mười bảy mười tám tuổi còn cãi nhau tranh nhau với các cháu gái cái "phần" này mà nếu Giáng Hương không đi xa thì chắc chắn là người được hưởng nhiều nhất.
Chỉ những buổi trưa và những tối khuya ấy, Giáng Hương mới được nghe tiếng mẹ nói. Mẹ Giáng Hương nói bằng các câu văn của Nhị độ mai, Tống Trân Cúc Hoa, Quan Âm Thị Kính, Thạch Sanh, Trê cóc, Kiều và thơ chữ Hán. Thơ chữ Hán mẹ Giáng Hương đọc rất nhiều, nhưng nhiều bài nhiều câu chẳng hiểu nghĩa gì cả, và Giáng Hương cũng chẳng cần mẹ giảng, cũng chẳng cần biết thơ phú ra sao, song vẫn thích nghe. Giáng Hương đã nhập tâm khá nhiều câu cho đến ngày nay tuy vẫn chẳng biết đầu bài tên gì, của ai làm, và nghĩ ra sao...
Phải! Ngày kia là ngày giỗ mẹ Giáng Hương đấy.
- "Nếu ta không lấy Thy San, hay Thy San chỉ làm một giáo sư, một chủ hiệu may, hiệu thuốc tây hay là một công chức xoàng xĩnh nào đó... không khéo ta lại!... Nghĩa là Giáng Hương có thể mời được mẹ không về ở hẳn lâu với mình, thì cũng năng đi lại. Rồi nếu chồng Giáng Hương lại nghèo hơn hết các anh, các chị Giáng Hương, và nếu Giáng Hương vụng về yếu đuối lại cũng đông con như người chị con thứ bảy hay thứ mười bốn mà chồng làm giáo học tỉnh lẻ ấy,... hoặc giả Giáng Hương phải đi làm công, phải nuôi con của mình bằng đồng lương của mình, ăn ở với một người chồng được mẹ Giáng Hương thương mến về gia thế, vì tính tình, nết đối xử của anh hợp với ý nguyện của mẹ Giáng Hương... thì chắc chắn vợ chồng Giáng Hương còn được thương hơn nữa.
" Ôi! Nếu mà... nếu mà... cứ nếu mà... như vậy thì mọi sự sẽ đảo lộn hết. Như thế làm gì có con Giáng Hương hiện nay? Làm gì con Giáng Hương phải sống một cuộc đời như giờ đây?! Và làm sao con Giáng Hương này cứ còn kéo mãi cái kiếp sống khốn nạn đến thế?!!"
Đúng tiếng dép Đức Sinh đi lên cầu thang. Rồi tiếng thở ì ạch, rồi tiếng đập cửa. Giáng Hương đang cố chậm thưa, để tranh thêm lấy mấy tích tắc không phải dàn cái mặt nọ, thì Đức Sinh đã xoay nắm sứ đẩy cửa bước vào, vừa lúc Giáng Hương ngoắt đầu quay ra và cất tiếng như người mê hoảng:
- Có việc gì vậy, me? Có việc gì thế, me?
Đức Sinh toe toét:
- Con đỡ nhức đầu chưa? Sắp cơm rồi đấy! Me sợ con mệt, me lên gọi con dậy... Con xuống nhà một lúc cho tỉnh táo... Đức Sinh kéo cái ghế ngồi sát giường.
- Me đã bảo chúng nó sắp nước cho con tắm. Con đi tắm ù đi, rồi ăn cơm nhá!
Đến câu thứ ba, rồi thứ bốn, rồi thứ năm, Đức Sinh vẫn không thấy Giáng Hương bắt nhời. Chợt Giáng Hương nhổm phắt dậy, cái giường lò xo rung bật lên làm Đức Sinh giật bắn người suýt ềnh ra.
- Không! Con không mệt, không mỏi gì hết! Con sẽ xuống phòng khách đây.
Giáng Hương lắc lắc mái tóc, hất hất cặp mắt vừa hờn, vừa khinh thị. Đức Sinh cuống quýt đến mắc, lấy cái áo khoác ngắn, nâng nâng cho Giáng Hương xỏ tay. Giáng Hương cau mặt, tự mình mặc áo, và không để Đức Sinh giục thêm, từ từ mở cửa ra trước.
Không những chỉ có Tuần phủ chồng, Tuần phủ vợ mà cả cha Nhân, cả hai công tử sinh viên cũng choáng cả người lên. Giáng Hương bước xuống như đếm từng bậc thang. Toàn thân và gương mặt không một nét một vẻ nào không uyển chuyển, lộng lẫy, khiến cả cha Nhân và hai con vợ chồng Tuần phủ đều phải nhìn như hút lấy người Giáng Hương.
- Cái con dê đực mặc áo thầy tu và cái con lợn đeo bài ngà này đều là thượng khách của ta buổi này đây! Một thằng thì nghe ta xưng tội rồi rửa tội cho ta! Một thằng thì có quyền xét hỏi và lên án ta, a ha! Nếu ta phạm tội? Nếu ta bị xử án?! Nếu con Giáng Hương này nhận mình là phạm tội hay mắc một việc gì đấy bị truy tố và xử án, thì phải quỳ gối, khoanh tay đứng trước hai con vật này?!!
... Có một người cũng choáng lên nhìn Giáng Hương, nhưng liền theo đó là một câu rủa sả:
- Tiên sư cha con đĩ ngựa. Đi chơi về lại ngủ chương thây chương xác lên rồi tý nữa lại banh cái mồm ra mà ăn mà ỏe họe, thứ này tanh, thứ kia mặn, thứ này mỡ quá, thứ kia ngọt quá, thứ kia không hợp vị, thứ thì không đúng kiểu đĩa bày... Thứ... thứ.... chỉ cho mày ăn các thứ của váy giặt thì mới đáng, mới hợp, mới thật là phong lưu đài các...
Lúc bị Đức Sinh xua xua, vợ Tú thui lủi đi ra khỏi phòng khách, y đã giận tím mặt. Tới khi Đức Sinh xuống bếp truyền cái này, phán cái nọ, một điều anh Cả, hai điều chị Cả (Anh Cả thích món... nhân ngôn ư... chị Cả thích món... vỏ nhãn ư!) thi y thấy thật là bị bóp bị cào cả gan cả ruột.
- Được mày cứ sống cứ béo khỏe mãi mà tay năm tay mười làm giàu thêm cho vợ chồng anh Cả nhà mày. Tao thì truyền đời báo danh cho mày, cái con Giáng Hương nó cho cả mày lẫn thằng quý tử nhà mày ăn của "ngon" đấy, nên chúng mày mới lú lẫn đi, rồi có ngày chúng mày đều tan cửa nát nhà vì con Đát Kỷ, Bao Tự ấy thôi!
Miệng vẫn liên liến một điều "thưa me" hai điều "thưa me" và dạ dạ vâng vâng, tay vẫn làm theo ý Đức Sinh nào bớt hành, thêm nấm, hoặc rắc hồ tiêu, hoặc bỏ hạt mùi vào các món sắp sửa nấu v.v... vợ Tú lại còn đon đả và gần như õng ẹo nũng nịu mà bàn soạn với mẹ chồng.
Bên cạnh vợ Tú có hai con gái của y. Một kém Bích Nga gần năm tuổi, tức là năm nay nó đã mười lăm tuổi rồi, mà cứ còm nhom, trông như trẻ con lên chín lên mười. Một đứa tuổi mới mười hai nhưng lại phổng người, đẫy đà và cao hơn chị hẳn một cái đầu. Cả hai đứa cũng mặc áo dài cũng toàn hàng tơ lụa, nhưng vì phải cùng làm bếp đỡ mẹ, vừa phần phải học làm học ăn, lấy lòng bà nội, vừa phần bữa nay nhà Tú cũng có khách riêng, nên không khỏi mồ hôi mồ kê và chân tay lấm láp. Biết rõ đứa con còm cõi kia rất căm rất tủi, nhưng vợ Tú cứ phải phớt như không, càng ngọt ngào bảo ban con, nhiều lúc thân lấy khăn bông ướt đẫm nước hoa lau trán lau má cho con, và gọi con cùng mình nếm các món ăn vừa suýt soa, tấm tắc, cười cợt với các người làm.
Chính cái phút Giáng Hương bước xuống phòng khách, uể oải để Thy San kéo ghế đón vào ngồi bên cạnh, thì vợ Tú qua sân nhà dưới trông lên bắt gặp. Đi trước vợ Tú, đứa con gái còm nhom của y bưng một rổ nức mây rất đẹp đựng đầy thức ăn vợ Tú lấy vụng chốc nữa thết khách của mình. Cu Chú vừa thấy chị dâu giấu bưng về, liền bỏ ngay cây đàn băng giô, nhón luôn hai miếng ăn. Đưa mắt lườm yêu con, vợ Tú không thể không nhìn hai công tử sinh viên con vợ chồng Tuần phủ. Y thấy làm sao cu Chú hay hai đứa con trai bé vừa sáng dạ, vừa chịu khó học của y, chúng nó chỉ được đỗ cái bằng của hai công tử bỏ đi thôi thì y cũng hả lòng mát dạ.
"Trong khi ấy thì có đứa nhét con gỗ vào... cũng không đẻ, mà có đẻ thì con nó vắt mũi không sạch, cũng được đi Tây đi Nhật học ngay đấy!"
Trời quá trưa càng nắng gắt, vợ Tú càng bức bối hơn khi thấy Giáng Hương vừa buông đũa buông bát ăn xong lại bắt tài xế đưa ôtô mình về Hải Phòng trước mà chẳng thèm bảo thèm nói gì với Thy San cả.
⚝ ✽ ⚝
Đến nhà, Giáng Hương lên thẳng gác. Dâng vội lên theo, lập cập sắp các thứ cho Giáng Hương rửa mặt, lau mình và thay quần áo. Giáng Hương bảo Dâng tắt quạt, mở toang các cửa và buông rèm xuống. Sau đó Giáng Hương khóa trái cửa lại, lấy cái khăn bông trắng bao lại sàn rồi nằm xuống, trên người chỉ có một tấm khăn trắng gấp tư đắp bụng. Hai giờ hơn, Giáng Hương ngủ dậy mới đi tắm, rồi bảo tài xế đưa mình đến ô-ten Thương mại để uống nước. Sau đó, chiếc ôtô rộng thênh thang lại có một mình tài xế ra Đồ Sơn để đón Thy San và Huệ Chi, Bích Nga.
Đúng lúc Giáng Hương lững thững đến đầu vườn hoa Sông Lấp, thì Ông Trẻ từ một ghế gỗ dưới gốc cọ cao và trụi như một cây đa già chạy chạy ra. Vẫn mũ mốt săng chuột gặm vành cuộn lên, áo gấm bạc phếch vá cả ở ngực ở lưng, quần lụa cháo lòng xơ hết gấu, giày Gia Định khíu mõm gót mỏng vẹt... Ông Trẻ lại sẵn sàng một bộ mặt vừa hoan hỷ vừa thiểu não và một vẻ hết sức ý tứ giữ gìn đến trước Giáng Hương, và ông cũng sẽ sẵn sàng nhận lấy tất cả những sự kinh tởm, khổ sở, nặng nề của Giáng Hương đón nhìn mình. Y gọi tên Giáng Hương, chào và hỏi thăm sức khỏe Giáng Hương bằng tiếng Pháp, với một giọng cố ý run rẩy vì thương nhớ, quý mến và hồi hộp, đoạn cúi cúi đầu chờ đợi.
Lạ lùng quá, không như mọi lần, Giáng Hương đã không tỏ vẻ gì bực bội, gớm ghiếc, mà còn gật đầu chào lại Ông Trẻ, đáp nhời ông không phải bằng tiếng Pháp mà bằng tiếng ta:
- Cậu giáo xuống Hải Phòng từ bao giờ? Cậu giáo xuống đây đợi tôi thì ở đâu?
Và Giáng Hương mỉm cười:
"- Cậu giáo lại bấm độn hay gieo quẻ mà biết, đón tôi ở đây vậy?"
Ông Trẻ toát hết mồ hôi trán, ngượng nghịu.
- Cậu xin lỗi cô... Cậu xin lỗi cô... Cậu làm cô phải bận tâm...
Giáng Hương lắc lắc đầu, nhíu nhíu mày nhìn Ông Trẻ, đôi mắt như không có vẻ gì khó chịu cả. Ông Trẻ càng kinh ngạc, cố lấy hết tâm lực, sự thông minh và từng trải để đối phó với cái trường hợp bất ngờ trước một người có thể oai quyền còn hơn cả Thượng đế hay Đức chúa Giêsu này. Chật mũ phớt ra quạt quạt cái đầu tóc bờm xờm bạc cũng nhiều, gầu bụi cũng nhiều, và cái mặt xám bủng xám nhợt, rồi lấy cánh tay áo gấm chấm chấm trán, Ông Trẻ lặng hẳn một lúc rồi mới dám thều thào:
- Lâu lắm cậu không được gặp cô, thật lòng cậu nhớ cô quá! Họ hàng con cháu thì đông, nhưng người biết thương cậu nhất, và độc nhất biết thương cậu vẫn chỉ có cô. Hôm mồng một vừa rồi cậu ốm, lần ốm này cậu phải nằm liệt đến ba ngày. Cậu cứ mê mệt và cậu bỗng nằm mê thấy mẹ cháu. Lạ thật! Bao lâu nay chưa cơn mê nào lại rõ như thế. Nghĩa là cậu lại như thật ngồi uống nước chè trưa rồi ăn ngô rang trộn mật với mẹ cháu, và mẹ cháu không khác gì ngày ở nhà, vẫn mặc quần nâu áo vải, thắt lưng bó que, vẫn... Cháu ạ cậu tỉnh dậy bâng khuâng đến hơn tiếng đồng hồ, thì ra ngày hai mươi tư này là ngày chị mất!...
Đáng lẽ Giáng Hương phải hét lên và nói bằng tiếng Pháp:
- "Hỡi chúa quỷ Sa tăng hãy lôi ngay của cậu xuống tận cùng hỏa ngục đi thôi! Giời ơi! Giời ơi! Im ngay! Im ngay! Đây lại tiền đây! Năm chục ư, không đủ thì bảy chục, tám chục, một trăm đây! Một trăm cũng chưa đủ thì hai trăm! Hai trăm cũng chưa thỏa thì cả sắc đây, dốc hết ra, không cần đếm xem là bao nhiêu, cứ cuộn cả lại thành một bó mà ôm vào ngực... và cút ngay đi... Khốn nạn! Khốn nạn! Quỷ sứ phải lấy kìm mà rút lưỡi nhà ông ra!"
Giáng Hương im lặng, bước chậm chậm vào bờ hè vườn hoa. Chẳng cần phủi bụi và cũng chẳng cần biết ghế đã nát gẫy gần hết những thanh gỗ, Giáng Hương thản nhiên ngồi xuống, mặc kệ cả mấy người đi đường tò mò nhìn vào. Trống ngực Ông Trẻ đã đập đến mức chừng như có thể đứt mất. Y lếch thếch đi theo; thấy Giáng Hương ngồi xuống ghế y lại không thể sao hiểu và quyết định nổi mình phải đứng ngồi như thế nào ở trước mặt Giáng Hương bây giờ. Cuối cùng y đánh bệt đít xuống một chiếc giày, chân để lên một mô cỏ, mũ đội thấp xuống nửa trán, người quay nghiêng như kiểu chầu phục dưới chân Giáng Hương. Giáng Hương cúi cúi mặt, trông ra xa, và khi ngừng suy nghĩ thì lại nhìn Ông Trẻ một lúc lâu lâu.
- Thôi cháu đi đây.
Giáng Hương đứng dậy tay bấm bấm khóa sắc. Không kịp xỏ giày, Ông Trẻ lập cập đứng lên theo, đầu lưỡi lo le dưới môi, mắt hau háu nhìn vào miệng sắc.
- Cậu định về quê phải không? Đây tiền tàu và cả tiền... để cậu góp giỗ mẹ cháu. Tùy cậu, cậu chỉ làm mâm giỗ xúi cũng được.
Ông Trẻ mừng rơn:
- Giời ôi! Ngần này việc, và lại có cả giỗ nữa! Bao nhiêu đồng? Phải làm bao nhiêu tiền cho ta lần này đây?
Đúng một tờ giấy bạc khổ to thơm phức gấp tư bỏ vào tay Ông Trẻ. Nhưng chỉ là tờ giấy hai mươi đồng mà y dù có hoa mắt hay có mê man cũng không thể lầm lẫn với giấy một trăm. Và cũng đúng chỉ là một tờ. Chỉ có một tờ thôi.
Thấy Ông Trẻ sững sờ hai tay run bần bật, Giáng Hương dốc ngược hẳn sắc lên:
- Đấy! Tất cả cho cậu đấy! Ít quá, ít ghê quá! Ít không thể tưởng tượng được, phải không cậu? Nhưng cậu xem đây... Tất cả sắc của cháu chỉ còn có thế.
Chợt Giáng Hương reo lên, như tìm bắt được một vật gì.
- À! à!... Có lọ nước hoa đây! Lọ nước hoa duy nhất của hiệu Pônxabô còn lại cháu vừa mua được, tuy không còn nguyên tem, nhưng cậu có đem bán vứt đi cũng được hơn mười đồng... Này đây cậu cầm lấy - Giáng Hương chuyển sang tiếng Pháp - Cũng tùy ý cậu, cậu muốn để nước hoa lại mà dùng thì dùng...
Giáng Hương ngoẹo đầu giơ tay:
- Nhưng mà dùng làm gì thì dùng chứ đừng uống đấy! Với nước hoa tự tử chết cũng ngọt lắm!
- "Một cối thuốc ba đồng, một vé tàu hỏa về Hà Nội mất hai đồng! Bữa cơm chiều nay ăn ở hàng cơm mèng nhất cũng mất một đồng! Thế mà chuyến này tôi chỉ được có hai mươi đồng và thêm một lọ nước hoa, thì... Giáng Hương ơi! Cậu đến thật phải tự tử mất thôi!...".
Cặp mắt của Ông Trẻ long lên, chiếu vào đôi hoa tai, vào sợi dây chuyền, vào cả ngón tay đeo nhẫn của Giáng Hương mà nức nở, nghẹn nghẹn, thầm nhủ. Và y nhìn quanh quất như xem xét để có thể thì sụp xuống mà lạy và níu giữ lấy tay Giáng Hương...