← Quay lại trang sách

Thời Kì Đen Tối Chương 9

Chỉnh men mén bên bàn, mở rộng tập sổ ra trước mặt Thy San. Sự trân trọng và lo lắng làm Chỉnh vừa run run cả tay, vừa nói như bị nghẹn. Thy San vẫn lặng nét mặt - một gương mặt vốn đã lạnh lùng và nghiệt ngã - nhìn những hàng, những cột, những ô con số và tên hàng hóa trình bày cho mình xem, và nghe giải thích cặn kẽ từng tình hình, từng thời kỳ giá cả thị trường. Thấy mọi việc vẫn tiến hành đúng như ý định và sự tính toán của mình, nhất là thấy Chỉnh nói rất rõ lý do cái khoản phụ tùng ôtô hơn ba vạn đồng bán hớ bán vội chính vì Giáng Hương đã nể nang với người nhà của Giáng Hương, Thy San gật gật đầu, tỏ vẻ bằng lòng về tinh thần làm việc nghiêm túc của Chỉnh. Nghĩa là Chỉnh vẫn là một gia nhân tin cẩn của Thy San, và tuy đang ở cái tuổi đua đòi ăn chơi nhưng Chỉnh không bị lôi kéo, mà làm việc cũng như sinh hoạt thật đúng như cái tên của bố mẹ mình khai sinh cho: Chỉnh.

Nếu Chỉnh là một gã con trai khác, tuy gia đình không bằng vai phải lứa với Thy San, mà chỉ thuộc vào hạng con một kỹ sư hay giáo sư nào đó, học đỗ bằng tú tài hai phần, và tính khí quật cường giỏi giang hơn người một chút, thì có thể Thy San gả Huệ Chi và cho ở rể đấy! Cơ nghiệp của Thy San không thể nhờ một kẻ như thế sẽ nổi thêm lên, nhưng không phải lo vì sự phá tán, rỡ đụn đi ăn mày, và sẽ yên tâm có người gìn giữ, dù kẻ nọ chỉ là kẻ tọa hưởng.

Quạt trần trên bàn giấy quay rất nhẹ, mồ hôi Chỉnh lấm tấm mấy giọt ở trán. Sắc mặt Chỉnh hơi ửng lên không phải vì trời nóng bức mà vì trong người hồi hộp, mừng rỡ. Lần kiểm tra này lại không bị sơ suất gì cả. Cái món hỏa hồng hơn ba nghìn đồng săm lốp xe đạp ôtô người ta biếu Chỉnh, nếu có đến tai Thy San, thì Chỉnh cũng vẫn được quyền nhận vì Chỉnh đã làm lợi nhiều hơn cho hãng nhà.

Thy San xem xét lại lần nữa những món kết toán rồi đưa mắt bảo Chỉnh gập sổ lại. Chỉnh lại lấy hết sức tỉnh táo và trí nhớ để nghe công việc mấy tháng tới, trong đó khoản giá hàng vẫn là quan trọng đầu tiên. Chỉnh sẽ phải lên Hà Nội ở hẳn nửa tháng để nghe giá và xem xét mấy nhà quản lý bán chác như thế nào. Nhất định rồi lại phải tăng giá hàng từ năm mươi đến bảy mươi phần trăm, và chỉ cho họ ăn theo chừng mười hay mười lăm phần trăm thôi.

Dặn Chỉnh phải hàng ngày tự tay khóa các cửa phòng và luôn luôn đi xem xét các kho xong, Thy San trở về nhà, lững thững đi trước, Chỉnh cắp cặp theo sau. Thy San đang đi thấy một bù loong đồng còn mới vứt dưới gốc cây bèn hỏi ngay Chỉnh ai để vương vãi và làm sao người quét dọn không chịu chú ý thu vén. Y nhặt lên, phủi phủi đưa cho Chỉnh bảo cất vào kho đồ cũ. Thy San còn mời Chỉnh một điếu thuốc lá thơm, tự tay đánh diêm cho Chỉnh hút, rồi cho phép Chỉnh trở ra cửa hàng. Thy San lại lên gác, u Hùng đón Thy San ở mé đầu cầu thang.

- Bẩm ông đã về ạ.

Thy San toan hỏi Giáng Hương lại đi đâu nhưng nén được. Y đưa mũ cho u Hùng cất rồi vào buồng làm việc. U Hùng bưng rón rén đến bàn Thy San một bát con bằng sứ Giang Tây có vung đựng nước sâm âm ấm vừa độ uống. Thy San đón lấy từ tay người đầy tớ đặt lên miếng đăng ten lót mặt bàn:

- Cảm ơn u, à bữa nay u lại làm món rau cho tôi ăn nhé.

- Thưa ông, vâng ạ.

U Hùng đi ra khép rất nhẹ cánh cửa; khi xuống thang, u vẫn cẩn thận từng bước chân như sợ phạm đến cái yên tĩnh và trang nghiêm của tòa gác với người chủ nọ. Thy San xấp xấp lau mặt bằng cái khăn bông rẩy sẵn nước hoa ủ trong một phích nước đá to. Y vừa uống sâm vừa giở một tập sổ khác ra xem.

Như thế, không kể những kho trên Hà Nội và Hải Phòng, số hàng phụ tùng ôtô và thuốc tây tích trữ lúc này trị giá trên hai mươi vạn đồng, nhà Thy San lại còn những kho ở Sài Gòn cũng khoảng tiền đó. Nếu như chiến tranh vẫn kéo dài, đường xe lửa sẽ bị phá nhiều quãng chính, và cả đường biển cũng bị nghẽn, thì nhà Thy San vẫn chẳng chút gì lo ngại. Mấy hãng ôtô to của cả Pháp lẫn Nam chỉ mong y hé một tiếng là cho hàng xốc xe đổ đến chuyên chở. Ấy là không kể những lõng chạy bằng ôtô nhà binh Nhật, đã chở cả phụ tùng ôtô và thuốc men của Nhật mà Thy San mua được và sẽ còn mua nhiều nữa, tích trữ tiếp nữa! Như thế thị trường vẫn là của y, với số hàng nhiều nhất, quan hệ nhất mà y cho bán nhỏ giọt. Mặt khác, cho dẫu giấy bạc nhà băng Pháp sẽ in thêm bao nhiêu nữa để Nhật tiêu dùng, thì cũng chỉ vét được thóc, được ngô, được đay, được muối, được trâu bò, ruộng vườn của người ta, chứ không thể động đến lông chân y được. Càng khó khăn, khan hiếm, cùng kiệt, thì càng lợi cho y thôi; tuy chẳng bằng như thời kỳ 1939 - 1940, ùn ùn hàng Mỹ hàng Tàu đổ vội vào Hải Phòng...

Thy San gấp sổ lại đặt sang một bên rồi cầm hai tờ báo chữ Pháp, một in trên Hà Nội, một ở Hải Phòng, mở đọc trước tiên mục tin chiến tranh. Quân Nhật vẫn tiến, vẫn thắng. Bên này thì thế, bên kia quân Đức tuy bị Nga Xô phản công nhiều mặt nhưng... cũng vẫn thắng! Thy San đọc kỹ thêm mấy tin nữa về quân Nhật rồi bỏ kính, đặt tờ báo xuống.

- Chớ có thấy đỏ mà ngỡ rằng chín!

Để kết luận về cái tình hình thời cuộc đã làm Thy San phải ngừng lại một chương trình kinh doanh lớn có thêm những tay quyền thế ở Đông Dương, ở Pháp hùn vốn, và mở rộng buôn bán cả với Anh với Mỹ với Nhật nữa về lâu về dài... Thy San nói hẳn lên thành lời với một tiếng cười khẩy. Không như mọi khi chuyện trò hay bàn tán về thời cuộc, Thy San chỉ lặng thinh nghe mọi người, hoặc bất đắc dĩ lắm mới mỉm cười mặc ai muốn hiểu mình thế nào thì hiểu.

Ừ! Thì cách đối phó và xử sự của Thy San giờ đây là không biểu lộ một thái độ gì về chính trị, mà chỉ như cô đầu giữ nhịp, và Thy San có giao thiệp buôn bán gì đều rất cẩn thận để vừa nghe ngóng thời thế, vừa không bỏ lỡ dịp kiếm lãi. Nhưng rồi đây khi chiến tranh kết thúc...? Thy San vỗ nhẹ tay vào trán, gật gật đầu:

- Cố nhiên Pháp sẽ không làm chúa tể ở Đông Dương nữa và sẽ bị Mỹ Anh hất cẳng ra khỏi vũ đài Đông Á, điều này một ai kia chẳng cần thông minh lắm cũng thấy rõ! Như vậy, Đông Dương sẽ là một trong những thị trường tự do, không những chỉ phục hồi được lại mà còn mở mang phồn thịnh gấp bội. Tình hình ổn định và có cơ hội tốt là chớp liền để khuếch trương...

Thy San vứt tờ báo tiếng Pháp Thời sự Hải Phòng của Đờvanhxy vào gầm bàn cạnh giành giấy lộn:

- Lúc ấy ta sẽ cho thằng Chính em thằng Chỉnh đứng ra lập một nhà in. Ta sẽ mở hai hay ba tờ báo bằng cả tiếng Anh nữa. Máy in của Đức, giấy của Thuỵ Điển và đứng đầu tòa soạn sẽ là một thạc sĩ văn chương Tôn Thất Bằng hay tiến sĩ thần học Lê Văn Thái gì đó...

Thy San uống nốt chén sâm, lại lấy khăn mặt ướt xấp xấp trán, đưa mắt nhìn qua bản đồ về phía Viễn Đông và cái tầng tủ đã sẵn sàng các dự án, rồi đứng dậy đi đi lại lại trước cửa sổ mở toang, gió sông thổi vào lồng lộng mà không thấy gai người hay bị hắt hơi gì cả. Đã gần mười giờ. Nhưng cả đường phố ngoài bờ sông, cả các xóm ngõ chung quanh khu biệt thự Bờ biển xanh và bàn giấy hãng Thy San, cũng như cả khu bên kia nhà máy Xi măng và bến tàu, bến xe đều vắng xơ vắng xác.

Những xưởng sửa chữa xe cộ, máy móc, xưởng đúc, xưởng cưa ở đằng sau vườn nhà Thy San không một lò nào, bễ nào có khói. Hai nhà máy Carông và Comben của chủ Tây chỉ rì rì xào xạc mấy cái máy tiện, máy khoan với người quai búa chặt sắt. Các lán gạch ngói, than gỗ, các xà lan, xà lúc, boọc, đều không bốc xếp khuân vác hàng hóa gì cả, mà người trông coi cũng như bỏ đi đâu hết. Khu Xi măng chỉ ri rỉ ống khói ở nhà điện, còn các lò nung, máy đá bãi đất và bến cần cẩu, chỉ thấy thợ thuyền phu phen loáng thoáng, phờ phạc, lểu thểu không biết đang làm việc hay làm gì. Còn mấy ôtô chở hàng và chở khách thì vì bị hỏng máy, hay không hàng, không khách mà từ sáng đến giờ vẫn chưa nhúc nhích.

Có vẻ hoạt động lại là ở mấy cổng chợ, mấy gầm cầu và đầu ngã tư với những hàng buôn bán nhỏ, hàng quà, hàng nước và các người thất nghiệp cùng các ăn mày ngồi la liệt, đi lại vật vờ...

Chợt Thy San thấy trong ngực như bị xóc lên:

- Sao lại thế kia! Giời ơi!...

Dưới vườn, ở một cành cây dại nắng, lủng lẳng cái đàn viôlông, dưới đó là mặt bàn gờrannitô tung tóe những miếng bánh còn nguyên các nhân mứt nho lổn nhổn trong khay sứ gần ngập nước chanh, nước cam bỏ mứa.

Thy San quên cả bấm chuông, thò cổ xuống sân:

- U Hùng!...

Nghe tiếng gọi thất thường và bực tức của Thy San, cả u Hùng và Dâng từ trong bếp chạy ra. Hai người luống cuống nhìn lên thấy Thy San nhăn mặt trỏ tay xuống chỗ Bích Nga vừa kéo bạn đến chơi, thì hiểu ngay ra duyên cớ. Thy San trông theo mãi, u Hùng và Dâng đem đàn vào và dọn dẹp cốc đĩa, dao dĩa, bánh kẹo xong, mới quay vào. Hắn lẩm bẩm bằng tiếng Pháp:

- Thật là quân khốn nạn! Thật là đồ mất dạy! Cây đàn phải gởi mua hơn trăm đồng ở Đức về đấy! Nó chuyên bừa bãi phí phạm như thế, vậy mà bố động nói đến thì liền dằn dỗi, rỉa rói lại bố... những... những...

Thy San phải bỏ dở cả câu nói và ý nghĩ vì không thể chịu được sự nhức nhối đau đớn với những câu cãi lại của Bích Nga, trong đó Giáng Hương và một số sự việc bất chánh của y, Bích Nga đã gợi đến rất sắc rất ngọt để trả miếng lại cha! Không! Không! Những câu nói mà Bích Nga đối đáp cha một cách không còn thương xót, tình nghĩa gì nữa kia, không phải chỉ hai lần, ba lần, mà không biết bao nhiêu lần rồi! Một năm, hai năm, ba bốn năm nay rồi!

Thy San càng cố tìm đủ cách uốn nắn Bích Nga cũng vừa là cố hết sức nín nhịn Bích Nga nữa, nhưng không hiểu tại sao Bích Nga cứ càng quái ác hơn và đánh càng mạnh hơn vào cái "huyệt" yếu nhất này của Thy San là sự sống của Thy San với Giáng Hương.

... Tuy Thy San ở cách biệt như một thế giới xa lạ với các người nghèo khổ làm ăn lam lũ đây kia, nhưng Thy San vẫn thỉnh thoảng được trông, được nghe những câu cãi cọ, chửi rủa lộn bậy giữa cha con, vợ chồng họ. Song, hình như chưa bao giờ, chưa lần nào, Thy San lại thấy có sự tàn nhẫn, ma quái và ác độc giống như của Bích Nga đối với Thy San, mặc dầu những câu nói hay hành động của họ rất tục tĩu, hung tợn, nhiều khi còn điên rồ, đến mức đánh xé nhau nữa! Chao ôi! Thy San đã thấy họ như thú vật, trong khi ấy, vợ chồng, cha con Thy San là người, và là người có cả một đời sống cao đẳng văn minh, sung sướng tuyệt vời, thì ăn ở với nhau, và có những cử chỉ đẹp đẽ thơm tho như thế đấy!

- Chỉ có cô Hương, cô Giáng Hương của ba thôi là có quyền... có các thứ quyền!... Kể cả thứ quyền gì gì ấy...

Phải, nếu bây giờ mà Bích Nga thấy cha gọi u Hùng và u Hùng cùng Dâng cuống quít cất dọn các thứ như thế, chắc chắn Thy San sẽ lại được nghe ngay một câu rất gọn rất nhanh, giọng nói và kiểu nói trên đây ứng đáp tức khắc... Thế là mặc dù Thy San là chúa là vua là triệu phú, là gì gì đi nữa, cũng đành bất lực, đầu, óc, tim gan thâm tím héo hắt thêm, trước đứa con gái của mình là Bích Nga!... Không được! Không được thế, không nên thế! Nếu như trong truyện Tam quốc có một câu nói của viên tướng nào kia là: "Cha dẫu bất từ, con cũng không nên bất hiếu", thì đối với con ta, ta nên đổi lại: "Cho dẫu con bất hiếu, cha cũng không nên bất từ". Nhất là phương ngôn Việt Nam lại có câu: "Nước mắt bao giờ cũng chảy xuôi"...

Giời ơi! Ta mà giận nó, ta mà ghét nó, hơn nữa, ta còn thù oán nó, còn muốn, còn định không nhìn nhận nó, thì đời ta còn có ý nghĩa gì? Tất cả những tiền bạc, của cải và sự sang trọng quyền quý ta mưu tính gom góp xây dựng được sẽ để cho ai và còn để làm gì?

Thy San trân trân nhìn khoảng không trước mặt. Phút chốc từ trong các khe ngách và cái vắng lặng xơ xác của xóm ngõ, đường phố, nhà cửa, xưởng máy, bến bãi, cầu quán chung quanh, như có những con mắt vừa xanh lét, vừa trắng bệch lừ lừ lồi ra, dập dềnh, chờn vờn, ẩn hiện, cái tiến cái lùi, cái cao cái thấp, bâu đến rồi lại lảng ra, cuối cùng đứng lặng hẳn mà cùng nhìn vào mặt Thy San. Nhưng, nếu một ai được chứng kiến cái phút giây này, thì thấy chính cặp mắt của Thy San cũng vừa xanh lét vừa trắng bệch, giữa gian phòng lộng gió, ánh sáng rất rực rỡ, nổi lên với cái hình hài khẳng khiu, bất động của Thy San; và hắn ngồi không phải ở chiếc ghế bành có nệm nhung phủ đăng ten, mà là một ghế điện đang chuẩn bị hành hình vậy.

- Ừ, ta nhất định phải để lại và sẽ để lại tất cả tiền bạc, của cải và sự sang trọng quyền quý của ta cho các con ta, cho cả Bích Nga, dù đứa con này có hành hạ ta, chứ không thể để cho con Giáng Hương khi ta chết. Nhất là khi ta chết mà "nó" vẫn cứ trẻ, cứ đẹp, cứ khỏe như bây giờ, và sau đó thật một đứa con đẻ ra mà không phải khí huyết của ta! Một vạn lần không. Một triệu lần không. Một xu nhỏ cũng không. Nếu ta chết trước Giáng Hương với một đời ân ái như hiện nay. Trong khi ấy, "nó" vẫn cứ phải ở với ta cho đến già, "nó" cứ phải là của ta cho đến già, tốt nhất là "nó" phải chết già ở trước mặt ta.

Và cũng một vạn lần không, một triệu lần không, một xu nhỏ cũng không... Thy San cũng đối xử với cái thằng em tên là Tú kia mà mẹ Thy San muốn mưu chước, phù phép đến thế nào cũng không thể làm Thy San tin được nó là cùng dòng máu của cha mình. Trái lại, càng mưu chước và phù phép bao nhiêu, mẹ Thy San chỉ càng làm Thy San ghê lợm mỗi khi đến gần người Tú, phải giáp mặt Tú mà Thy San thấy đúng là một thứ hơi người và kiểu mặt người vừa quái quỷ vừa dốt nát vừa lỳ lợm của cái giống nhà thầy dòng dâm dục đã thông dâm với mẹ Thy San. Chỉ vì phải giữ tiếng tăm cho nhà Đức Chúa Giời, cho thể diện của gia đình và cũng vì sự mưu sinh và tương lai của đời con mình, và cũng vì sợ cả mẹ Thy San tráo trở, nhiều thủ đoạn, nên người cha lù đù ốm yếu của Thy San đã cắn răng chịu đựng nghịch cảnh cho đến chết!

Thứ tiếng vo vo của cái im lặng chờm ngợp trên người Thy San càng âm lên. Lại một đôi mắt cũng xanh lét, cũng trắng bệch, hiện nữa ra. Nó còn có một bộ lông mày rậm rì, một mi mắt hùm hụp, một nước da tái mét và một vẻ gian quyệt vô cùng, nhưng nếu nó ở trước mặt Thy San thì lại làm ra vẻ khép nép, phục tùng, biết ơn vô cùng và cả quý mến vô cùng nữa. Cũng với đôi mắt và bộ mặt ấy, sẽ chỉ trong một tích tắc thôi, nếu có cơ hội thì nó sẽ thành ngay của một kẻ tranh cướp, trả thù, cứng rắn, quyết liệt cũng vô cùng trong số những kẻ kình địch với Thy San.

Đôi mắt và bộ mặt của Tú đấy. Cái thằng em cùng mẹ khác cha của Thy San đấy! Nó cũng đang phục dịch Thy San như bao nhiêu kẻ khác, nhưng đặc biệt là nó lại ở gần Thy San, nghĩa là nó sống với cha con, vợ chồng Thy San mà tất cả những điều gì bí mật nhất của nhà Thy San không thể nào nó lại không biết hay đoán biết, kể cả những ý nghĩ của Thy San!...

Còi báo động lại rú. Tiếng rền rĩ và ưng ức càng vang xa vì có gió, và cảnh vật thành phố sẵn đã hoang vắng. Quang cảnh chỉ nhộn nhạo trong chốc lát. Những cửa hiệu đóng cửa; những sạp hàng thu dọn; những xe cộ chạy vội; những quang gánh lếch thếch, nửa muốn đi chỗ khác nửa muốn ngồi lì... Ở hầu hết những hầm công cộng nông choèn, mỏng mảnh, không ngập nước thì đầy rác, người chạy đến trú ẩn rất ít và chỉ nhấp nhổm muốn bỏ lên. Các hàng quán ở đầu đường, gốc cây và những phu phen, người kéo xe, gánh đất và những người không có việc làm, những người ăn mày,... tất cả đều ngại chạy hay không cần chạy. Họ vẫn ngồi túm tụm, chẳng nghe ngóng mà cũng chẳng để ý gì đến chung quanh. Người nào chuyện trò vẫn chuyện trò. Người nào nằm ngủ vẫn nằm ngủ. Người nào cậy vẩy ghẻ, bắt chấy rận, hay lẩn mẩn thờ thẫn, trông không biết là trông gì, nghĩ không biết là nghĩ gì, thì cũng vẫn như thế, khi nổi còi, chung quanh ồn ào túi bụi, và sau khi dứt tiếng còi, không khí bằn bặt lặng ngắt.

Cả dòng sông Lấp gần chỗ ở của Thy San, sông Tam Bạc ngoài kia và sông Cấm bến cảng xa xa, cũng rào rào lên một chốc rồi cũng lặng lì ngao ngán dưới vùng trời biển nắng chói, gió thổi sóng vỗ dạt dào.

Mặc dầu Thy San đang lừng lững bước xuống thang gác, cả u Hùng và Dâng đều hớt hải chạy vào báo tin đã còi ủ. Đẩy cửa hầm trú ẩn và chờ Thy San vào hẳn bên trong, hai người đầy tớ nọ đóng lại xong mới trở xuống bếp làm cơm.

Lần này Thy San hắt hơi luôn mấy cái và thấy sởn cả người. Qua một lối đi ngập hơn một thước dưới đất, xây xi măng, Thy San thấy lành lạnh. Thế rồi khi vào hẳn gian hầm rộng gần bằng một phòng ngủ, cũng xây ngập sâu xuống đất, bốn bề đóng móng cọc sắt và đổ bê tông trộn với sỏi mài nhẵn thín như đá hoa, Thy San càng như bị một làn hơi băng giá phả ra ập lấy người mình. Đã vậy lại còn làn gió xoáy xiết của chiếc quạt máy vun vút qua mặt Thy San, làm Thy San suýt bị choáng.

Thy San phải né né mình lần lần đến vặn bớt quạt rồi ngồi xệp xuống cái ghế dài nệm nhung, quay mặt ra phía ngoài. Phải một lúc lâu, Thy San mới định thần được. Nhưng Thy San lại thấy mỏi mệt một cách lạ. Y bèn tắt ngọn đèn ở giữa hầm, bật ngọn đèn có chao hồng đào trên đầu ghế dài, và xích lại cạnh cái bàn con lấy một chai cam tươi trong tủ ướp lạnh mở uống.

Vẫn chưa có tiếng bom tiếng súng gì cả. Đúng! Không thấy tiếng bom tiếng súng gì cả. Cái im bặt của gian hầm càng như thăm thẳm và nó chỉ có thể xóc lên hay vỡ ra một khi có những quả bom hàng trăm cân, trên trăm cân rơi gần đây, nếu không thì phải bỏ trúng nóc, trúng cửa hầm. Thy San chỉ nhấp nhấp cốc nước cho đỡ khô cổ và ăn thêm mấy quả nho lấy trong tủ ướp lạnh ra cho đỡ háo người. Chiếc Ômêga đeo tay của Thy San đã trỏ đúng mười giờ bốn mươi lăm phút. Nếu phải chờ thêm một lúc nữa mới còi báo yên, hay một lúc nữa thật có máy bay Mỹ đến bỏ bom, thì Thy San lại sẽ ăn uống đủ lệ bộ như ở trên nhà rồi ngủ ngay dưới hầm này như mấy lần trước với cả nhà.

Chợt một làn hương nhu quất vào não cân Thy San. Thy San run run cả người, quay lại nhìn ngay xuống cái gối trắng để ghếch lên một góc ghế. Hình như có một sợi tóc dài và vài hạt gầu, hạt bụi vương trắng trên mặt gối. Đúng mùi nước hoa quen thuộc và bụi gầu tóc của Giáng Hương. Thy San toan cúi mặt xuống, thì như có một bàn tay vô hình kéo giật đầu Thy San lại. Ngay đó tiếng bom đã rùng cả trời đất. Đèn trong hầm phụt tắt, chiếc quạt quay xè xè, đứng lại.

Bóng tối ụp xuống người Thy San. Thy San bưng lấy mặt lặng đi. Cái đèn bốn pin to ở ngay góc ghế, nhưng Thy San không bật. Không chỉ mình Giáng Hương mà cả Huệ Chi, Bích Nga và Hùng, ba con của Thy San vẫn chưa thấy về. Tay chống cằm, mắt quăm quắm nhìn ra cửa hầm mờ mờ ánh sáng ban ngày, Thy San lại như khô cả cổ họng và trong ngực thở cứ như hẫng như hụt, cơ hồ sắp lên cơn hen, còn ngang lưng thì mỏi sụn, mỏi thắt lại.

Sau một cái ợ mạnh, cả nước cam và nước nho xộc lên chua lợ. Thy San càng thấy mệt rã trong người, cùng lúc đó một thứ như nước sắt như khói dầu nhờn ri rỉ mãi thêm trong tâm trí Thy San gần như không còn cách gì ngăn cấm nổi.

⚝ ✽ ⚝

Đúng là Thy San không thể chợp mắt được lấy một phút. Không phải vì trời nóng. Trưa nay tuy nắng nhưng có gió nam. Cửa sổ các tầng gác chót vót mở hết ra, các phòng cứ mát lộng. Cũng không phải vì bữa ăn không ngon miệng lắm hay khó tiêu. Lại khác lệ thường, Thy San hôm nay cũng uống rượu. Thứ rượu bằng nếp cẩm đã hạ thổ ba tháng mới lấy lên, sánh như mật ong. Không hiểu rượu nho để làm lễ nổi tiếng của các cố đạo, các đức cha ngon như thế nào, chứ uống thứ rượu của cố bà Đức Sinh làm này, tự tay cố bà chọn từng hột gạo, thổi xôi đặt mốc, và cho người đi chuốc từng quả men, thì đến kẻ khảnh ăn, hay chê ỉ chê ôi như Giáng Hương cũng phải chịu là ngon đặc biệt.

Chả lẽ lại nói rằng hay hơn cả sâm banh của Pháp!

Còn ăn thì mấy món u Hùng làm đều rất khéo và toàn thức nhẹ.

Cũng không phải vì máy bay Mỹ bỏ bom. Ừ, Mỹ vẫn đánh phá Hải Phòng đấy, nhưng chỉ mấy phố gần chợ, gần bến tàu thủy giơ lưng ra chịu, chứ tuyệt nhiên các phố Tây, các nơi có kho tàng và quân Nhật đóng, vẫn không bị động chạm gì đến. Tuy vậy ở các phố lớn trên hải cảng nọ, các hầm trú ẩn nhà riêng vẫn xây rất nhiều, rất kiên cố và rất đẹp cũng nổi tiếng như hầm của tòa Đốc lý, của nhà Đờvanhxy hay hầm nhà Thy San. Còn ở trại lính và các kho thì ai mà không biết rằng đây có bao nhiêu quân, bao nhiêu kho và là những hàng gì! Và đây có bắn lại bao giờ đâu, mặc dầu cũng thấy đồn rằng có những súng cao xạ và nhiều thứ súng khác to lắm!

Phòng đủ cả quạt trần và mỗi góc một quạt bàn, nhưng Thy San chỉ mở hai quạt nhỏ ở phía Giáng Hương. Nằm trên giường lò xo nệm bông, Thy San luôn luôn trở mình, và chỉ ngừng tay phe phẩy quạt được vài phút. Trên bụng Thy San vẫn đắp tấm khăn vải mỏng gấp gọn, vửa đủ có một khối nặng nặng ấp lấy người cho êm, nhưng tay Thy San vẫn phải quạt cho mặt mát. Và cho cả đầu óc, tâm trí mát nữa. Trong khi ấy, ở dưới sàn, trước cửa sổ, Giáng Hương nằm như không cần biết đến một tý gì ở bên cạnh và chung quanh mình. Tóc xõa trên gối, ngực và bụng đắp hờ một khăn vải trắng cũng như của Thy San, quần áo lụa phong phanh, Giáng Hương đọc sách! Giáng Hương đọc mê mải say sưa ra mặt. Toàn kịch và tiểu thuyết bằng tiếng Pháp. Có nhiều tập kịch của Anh, của Nga, Thuỵ Điển, Ý v.v... tên tuổi rất lạ mà Thy San láng máng nghe nói nhiều trí thức và nhà văn đang cố tìm đọc nhưng không thể mua, không thể mượn được.

Cạnh đống tiểu thuyết này, có một bát mơ xanh đập dập ngâm với nước mắm, đường và gừng, xiên ăn bằng cái tăm tre. Nhà có phòng đọc sách riêng nhưng Giáng Hương cứ thích như thế. Cũng như bao nhiêu việc khác mà lâu nay Thy San càng thấy rõ rằng Giáng Hương cố ý chẳng cần quan tâm đến ai cả.

Sự tỉnh khô và phớt lạnh của Giáng Hương, nằm vừa xem truyện vừa chóp chép, xuýt xoa ăn mơ giầm, cũng một phần làm Thy San không chợp được mắt.

- Nó đã không muốn đi ngủ, không thích đi ngủ mà ta cứ phải nài nó lên nằm ngủ!

Thy San cười thầm, gằn tiếng.

- Chả là nó sợ nằm nệm nóng và chỉ thích nằm yên một mình mà!

Không muốn để những ý nghĩ kia kéo dài, làm mình trằn trọc thêm, và cứ đành phải mặc kệ Giáng Hương để giữ cho mình đỡ khổ, nên Thy San càng lặng lẽ, phe phẩy phe phẩy quạt và cũng như cố không bận tâm gì đến Giáng Hương nằm dưới sàn kia.

- Khi nào người ta muốn ngủ thì không phải giục, phải nhắc. Xem sách mà đã đến lúc díp mắt lại thì ngủ...

Đã mấy lần Giáng Hương thẽo thợt bảo Thy San như thế. Và đây kia, Giáng Hương đã buông sách xuống, díp mắt lại thật rồi. Cũng là lúc Thy San thấy nếu mình còn cứ cố nằm thì đúng là để chịu một hình phạt. Vừa bải hoải rã rượi thêm, vừa mất thời giờ. Đã hai giờ rồi! Phải dậy mà đi tắm rồi làm việc chứ!

Dâng đã pha sẵn nước ấm để Thy San tắm và cả nước gội đầu cho Giáng Hương.

- Thưa ông xơi chè ngô đãi bây giờ hay đợi bà dậy ạ...

U Hùng chờ Thy San sắp vào buồng giấy mới dám hỏi. Thy San lắc đầu:

- Lúc nào tôi ăn tôi bảo... Mà trưa nay tôi cũng không muốn ăn gì cả. U cho tôi một chai nước suối ướp lạnh.

Ở bàn giấy, Thy San cũng không mở quạt trần và quạt bàn. Tắm táp và uống sâm rồi nhưng Thy San vẫn cứ thấy trong người mỏi và càng háo háo thế nào ấy. Bên ngoài, trời rất cao và xanh. Gió nam càng thổi lộng. Thỉnh thoảng Thy San lại nhìn ra cho đầu óc bớt nặng bớt mệt, sự suy nghĩ được thông thoáng trước tập sổ và cái kẹp thư từ, giấy tờ đặc biệt. Chiều nay thứ Bảy, sắp hết tháng Năm. Vậy mà Thy San chưa bứt đi nghỉ mát được. Cũng như giờ đây, Thy San muốn phóng ôtô ra chơi Đồ Sơn hay Quảng Yên, ngủ gà ngủ vịt một lúc trên xe rồi tắm biển, ăn một món lạ miệng, đến tối trở về nhà, thì cũng đỡ háo đỡ mệt đấy. Song chỉ vì thói quen và kỷ luật! Nhất là vì cái kỷ luật mà từ trước đến nay Thy San không bao giờ cho phép mình phạm, là giờ giấc, kỳ hạn công việc, sự ăn tiêu và sử dụng tiền!...

Dù là chiều thứ Bảy, nhưng đã định bốn giờ xong công việc mới được nghỉ, thì phải đến hết bốn giờ, giải quyết chu đáo mọi công việc, Thy San mới được cho phép mình rời khỏi bàn giấy. Vì thế Thy San cứ phải ghì mình lại trên ghế này đây. Chợt Thy San thấy mắt nhức nhối và nhìn hơi loa lóa, bèn bỏ cặp kính trắng ra. Thy San mở ngăn kéo để lấy cặp kính râm thì không có. Lục tìm thêm mấy chỗ cũng không thấy, Thy San thở hắt ra một cái mạnh:

- Lại bà Giáng Hương lôi đi của mình thôi! Không hiểu cái kính bà mới mua ấy lại mất nữa, hay tiện đâu thì bà ấy vớ đấy của người ta!

Thy San giật cửa sang phòng ngủ. Vừa lúc Giáng Hương vặn trở mình.

- Giáng Hương! Giáng Hương, kính của tôi đâu? Có lấy kính của tôi không?

Giáng Hương vẫn ầm ào:

- Kính nào! Kính nào?!

- Kính râm để ở ngăn kéo bàn giấy của tôi ấy...

- À... à... có... có...

- Để đâu, đưa cho tôi...

Giáng Hương nhổm dậy, vẫn ôm cái khăn che mảng ngực, bầu vú nần nẫn trong áo lụa cúc cởi phong phanh:

- Đây à, ờ... ờ... tôi để... kia kìa, đâu rồi?!

- Sao lại cứ thế? Lấy của tôi dùng, đã không bảo tôi, lại còn vứt bỏ đi!

- Tôi không vứt, không bỏ của ông đâu. - Giáng Hương chau chau mày, im lặng một lát, rồi nhoài người ra cái ghế mây gần bàn đánh phấn.

- Đây! Đây, kính của ông đây!

Thy San tím mặt lại nhìn cặp kính đã đeo từ mấy năm rất ăn với mắt mình, và là loại mắt kính của Đức bây giờ không thể mua được. Nó kẹp trong một cuốn truyện dày cộp, bỏ kềnh kệnh trên mặt ghế mà nếu không bị người vô ý ngồi phải thì cũng sẽ vỡ hay dập, một khi cuốn truyện bị nhấc lên rồi đặt xuống mạnh... Giáng Hương hất một bên bìa lên, quay mặt đi, cầm kính quài tay đưa cho Thy San.

Choang... cặp kính mắt mỏng tang rơi xuống sàn vỡ vụn. Thy San nói như thét:

- Tôi đã bảo mà... cứ cái thói quen ấy... Đưa cho ai cái gì chẳng bao giờ cần biết người ta đã cầm hẳn chưa mà cứ buông tay ra...

- Đã vỡ rồi thì thôi chứ sao! Thói quen, à tôi không thể có cái thói quen quá chắc chắn như ông.

- Thế cứ vứt đi là tốt, là đúng kiểu cách sao?

- Chẳng tốt, chẳng đúng, chẳng kiểu, chẳng cách gì cả! Vỡ mất thì thôi! Còn nhiều cái khác gấp trăm gấp nghìn, mất, vỡ cũng bằng thôi chứ gì!

- Đừng ăn nói mất dạy!

- Đừng ăn ở bần tiện!

Cả Thy San và Giáng Hương đều thét lên bằng tiếng Pháp.

- Đồ vô tích sự, ăn hại!

- Quân tính toán ma mị!

- Con đĩ! Con đĩ lầy lụa, bừa bãi!

- Thằng bất lực! Thằng bất lực bầy nhầy, đỉa giả.

- A! Con Giáng Hương vô ơn bạc nghĩa. Con Giáng Hương trâng tráo phản bội! Tao sẽ cho mày một phát súng lục! Tao sẽ hóa kiếp cho mày bằng một phát súng lục! Tao bắn chết mày, và giá cái mạng của mày, tao sẽ chỉ thế nó bằng hai cái nhà mà mày sang tên cho cha mày, cho anh mày, hay chỉ bằng mấy mặt hoa kim cương mày bán trộm tao, trộm tao kia kìa... là tao chẳng còn phải bận bịu gì hết!

- Giời ơi, thằng đểu. Một thằng đểu chân chính! Một thằng Mã Giám Sinh đeo thánh giá và buôn người có môn bài.

Giáng Hương xông lại, thẳng tay trái tát đánh đốp vào giữa mồm Thy San. Mắt Thy San cũng như tứa máu, Thy San lảo đảo chúi xuống đầu giường, và rút đúng ngay khẩu súng lót dưới gối.

Pàng... pàng...

- Ối giời ơi, sao lại thế kia? Sao lại thế kia? Ối giời đất ơi! Ông bắn bà! Ông bắn bà! Ông bắn chết bà rồi cô Chi ơi!

- Giời đất ơi! Cô Chi ơi! Ông bắn chết bà Hương rồi cô Chi ơi!

Cả U Hùng và Dâng cứ chạy cuống lên, kêu, gọi ở hành lang và đầu cầu thang. Giáng Hương hai tay ôm bụng, lòng thòng quấn quấn cái khăn vải trắng đỏ lòm máu, quằn quại trên sàn đè cả lên bát mơ giầm với nước mắm gừng đổ nhoe nhoét lênh láng. Huệ Chi chân không, tóc xõa, chạy dưới nhà lên gác, cứ vập mặt hết vào tay vịn lại vào tường, và mấy lần ngã dúi ngã dụi. Nhẩy được đến chân Thy San, Huệ Chi liền òa lên, tay chới với cố níu cố giữ lấy tay Thy San:

- Giêsuma! Giêsuma lạy Chúa con, thế này thì ba chết... chết mất! Ba ơi! Ba ơi! Giêsuma! Giêsuma! Lạy Chúa tôi lòng lành vô cùng, xin cứu chữa cho chúng con!...

⚝ ✽ ⚝

Sếp Bảy mề đay đạp xe cùng một đội sếp ta đến gần con đường đá vào biệt thự Bờ biển xanh thì càng chậm chậm. Bộ ria mép nhấp nháy, cái mũi đỏ sùi khịt khịt, như để đánh hơi một cái gì. Từ ngày Tây cậu đổi lên sở mật thám làm thanh tra, thì Bảy mề đay càng vớ bẫm ở bến Sáu Kho, nhất là trong thời kỳ có các bọn buôn Thượng Hải, Hồng Kông chạy loạn sang Hải Phòng và hàng Mỹ ngày đêm tuồn vào như đống núi để chuyển cho Chính phủ Tưởng Giới Thạch. Thế rồi sau khi Nhật đổ bộ Hải Phòng và chiến tranh ở Thái Bình Dương bùng nổ, bến cảng một ngày một vắng, tới nay có tuần không một tàu bè nào lai vãng, Bảy mề đay liền cạy cục chuyển về làm sếp bót Cầu Đất trước kia của Tây cậu. Chả là bây giờ khu này là khu quan trọng nhất. Người vừa đông, nhiều cửa hàng vẫn buôn bán nhộn nhịp, lại có nhiều xưởng thợ, xưởng máy vẫn chạy. Và bom Mỹ chưa động chạm gì đến cả!

Cái mũ lưỡi trai đội hơi thấp vành xuống trán. Bảy mề đay chíu chíu mày, vè vè nhìn tất cả những nhà to gác rộng mà khóa trái cửa với những tầng những then sắt rất kiên cố. Đây không phải những nhà sợ bom chạy, mà nếu không phải là những kho hàng này kho hàng nọ thì cũng là những nhà có nhiều thứ của, nhiều thứ đồ quý giá. Bảy mề đay xem xét như thế không phải chú ý đến những trộm cắp hay những kẻ khả nghi đang chực chõm, mà để nghĩ ra trong đó là những hàng gì, đồ gì, có bao nhiêu kiện, bao nhiêu tạ, và đánh giá xem nó là bao nhiêu tiền, rồi đây nếu xẩy ra mất mát hay mua bán trái phép thì sẽ không hớ khi tính tiền hoa hồng với cả kẻ có của, kẻ mất của, kẻ mua của và kẻ lấy của. Và không hớ khi đã khám xét bắt giữ. Không thì thôi chứ đã dúng tay vào thì phải thật đáng công sức, đáng chuyến, đáng vụ, đáng việc.

Cửa hàng và bàn giấy hãng Thy San ở đường bờ sông vẫn đóng im ỉm như không còn giao dịch xuất nhập gì nữa. Không cần vào các kho trong ấy, Bẩy mề đay cũng biết rõ toàn là kho không. Nhưng những cái kho chẳng còn ngỗng, vịt, chim, gà, dê, thỏ, rau, đậu, hoa quả gì nữa để đưa xuống các tàu, mà nay bỏ hoang bỏ bụi ấy, lại chính là những nơi còn nhiều của hơn cả những nhà khóa chằng khóa kép ngoài phố kia. Vì dưới đấy là những hầm: hầm gạo, hầm thóc, hầm rượu, hầm đường... toàn những thóc ngon, gạo ngon và rượu quý, mà nếu chiến tranh sẽ còn kéo dài năm năm, chứ mười lăm năm nữa hãng Thy San cũng chưa cần bán!

Bảy mề đay lại phải chửi thầm khi nghĩ đến rượu và những hầm rượu ở đây kia nếu hắn chỉ được một gian hay một ngăn thôi cũng quá là sự mãn nguyện. Bảy mề đay chửi thầm từ thằng "An Nam" Thy San giàu nứt đố đổ vách, có hàng kho rượu mà không biết uống rượu, đến thằng Gôđờluy và mụ Sápphănggiông đồng bào của hắn, chúng bán rượu càng ngày càng như bóp cổ lấy tiền người uống!

"Đức Chúa Trời ơi! Sau cuốc xe đi tuần này mà được tợp mấy ly cốt nhắc hay rom, và bữa cơm tối thứ bảy này làm hẳn một chai hay hai chai vang trắng thì kiếp sống của con người sau đây mới cần lên Thiên đàng chứ".

Với hắn, được như thế hắn mới thấy cần đeo bảy cái mề đay được thưởng từ năm đi lính Đại chiến 1914 - 1918, nấu bếp ở mặt trận Marốc đến nay được làm sếp bót bên An Nam mà lên chầu Chúa chứ!

Sự thèm khát của Bảy mề đay không phải là Chúa mới biết, mà còn một người nữa: Tú, em trai Thy San. Chỉ nhìn qua Bảy mề đay, Tú liền cười xì một tiếng:

- Môi mép thế kia chắc đang thèm rượu lắm đấy! Con sâu rượu này mà được tắm trong kho rượu Tây của Thy San thì phải say đến một năm!

Tú lại đang uống rượu. Tú uống rom ướp đá ở một hàng cà phê mở bên bờ sông, xế xế của hãng anh hắn. Để tránh khi ôtô của anh hay chị đi ra bắt gặp thấy mình, Tú ngồi khuất vào một góc tường, cạnh mép cửa sổ vừa kín đáo vừa rất lợi thế cho mình trông ra các phía! Tú mới mua được mớ gỗ lúp. Mấy thợ mộc đã đến xin việc, Tú vẫn chưa nhận ai, Tú còn phải vừa đi xem các kiểu các mẫu, vừa tìm những tay thợ giỏi, thật cẩn thận. Tú sẽ đóng một tủ áo, một tủ sách và một bàn giấy để bày biện nhà cửa cho thêm bề thế. Tủ và bàn ghế, Tú đã chọn được kiểu rồi, nhưng tủ áo gương thì Tú thấy phải cóp kiểu của Thy San mới được. Cái tủ của Thy San mua ở bên Pháp, tháo từng tấm đóng hòm gửi tàu biển về. Muốn thế, Tú chỉ còn cách nhân lúc anh chị đi chơi lâu chiều nay, Tú sẽ nói với Huệ Chi cho mình lên gác, vào phòng áo của Giáng Hương mà cóp kiểu và xem xét các mộng mẹo để thứ hai ngày kia sẽ gọi gấp thợ về nhà. Tú đến đây từ hai giờ rưỡi, phải gọi rót thêm hai ly rom nữa để ngồi chờ. Ba giờ. Ba giờ mười lăm. Hơn ba giờ rồi mà vẫn chưa thấy Thy San và Giáng Hương ra đi. Bỗng Tú xớn xác vì thấy có tiếng nổ như là tiếng súng ở ngõ trong kia và vang lên đúng từ tầng trên gác biệt thự Bờ biển xanh. Rồi tiếng kêu - Ơ kìa! Lại đúng là người rất quen thuộc kêu thất thanh - tiếng u Hùng:

- Cô Chi ơi! Ông bắn chết bà rồi! Ông bắn chết bà Hương rồi cô Chi ơi!

Tú quẳng tờ giấy năm đồng cho lão chủ, bảo rồi sẽ lấy tiền trả lại, xách cặp chạy bổ sang đường vào ngõ nhà Thy San. Ngay đó hai xe đạp của sếp Bảy mề đay và viên đội sếp trẻ đã phóng như bay vào trước. Rồi khi Tú và cả mấy người ngoài phố và trong ngõ chạy đến trước cổng nhà Thy San, thì đã thấy viên đội sếp trẻ đứng gác bên trong cổng, đi đi lại lại, giơ chày cao su xua đuổi mọi người nhòm ngó. Ở trên gác Bảy mề đay thò đầu ra, mũi môi nhấp nháy, thét xuống cho viên tùy tùng phải nghiêm lệnh canh giữ, nội bất xuất ngoại bất nhập.

Tú tái mét mặt, người run, lạnh rợn và như sắp nghẹn thở mất.

- Thế này là thế nào? Sự thể này rồi sẽ ra thế nào?

Chỉ sau không đầy một phút choáng váng kinh hoàng nọ, Tú bật kêu sằng sặc trong họng. Phải! Tú cười, Tú cười với mình, Tú cười và thấy tỉnh táo sáng suốt hẳn lại, tỉnh táo sáng suốt lạ lùng:

- Còn là thế nào nữa! Đã đổi đời rồi! Đã đổi đời rồi! Vận của ta đã tới rồi! Cơ hội có một không hai đã tới rồi.

Những người quen thuộc thấy Tú cuống quýt xô đẩy, gạt rẽ kẻ chung quanh ra, đều tưởng Tú chạy đi tìm đốc tờ cấp cứu, hay tìm cách giải quyết gì đây. Tú xộc vào lối sau cửa hãng Thy San, vồ lấy ống nói têlêphôn ở bàn giấy của Chỉnh, lật đật bấm bấm máy, gọi bằng tiếng Pháp:

- Cho tôi số 885, thưa cô, cho tôi số 885, phải tám tám năm... Thưa cô têlêphôn ở nhà riêng của ông Đờvanhxy. Vâng, cám ơn cô, 885 - nhà riêng của ông Đờvanhxy...

Người đầm lai đang cắm số máy cho Tú nói chuyện, thì Tú quay mặt ra, lại cười sằng sặc, cười rít lên mà nói thầm:

- Giời ơi! Sao chiều nay tôi không đi đâu mà lại đến đây và trúng lúc này! Giời ơi! Các con ơi! Vận của cha đã tới rồi... Giời ơi! Tú ơi! Mày sẽ phải mở đến tiệc gì, và ăn mừng đến bao nhiêu ngày về cái cơ hội này hở Tú!

Đờvanhxy đang cạo râu, thấy bồi hớt hải gõ cửa, khép nép thưa có têlêphôn gọi gấp, liền chau mày định gắt chửi, mặc kệ. Nhưng rồi cứ lòng thòng cái khăn bông ở một bên vai, vừa lia lia lưỡi dao bào, đi sang bàn giấy:

- Ai! Kìa! Ai đấy! Tôi là ai đấy? Thấy tiếng người lạ và là tiếng An Nam, Đờvanhxy càu nhàu, xì ra một tia nước miếng và chửi:

- Con lợn nào lại quấy rầy tao chiều thứ bảy thế này?

- Thưa ông Đờvanhxy, tôi là em trai Thy San, tôi là Nguyễn Đức Tú em trai Thy San.

- Ừ biết rồi! Biết rồi! Nhưng có việc gì đấy?!

- Thưa... thưa ông... thưa ông Đờvanhxy... tôi xin được phép báo một tin đặc biệt, một tin khẩn cấp với ông.

- Tin gì!... Tin gì! Kìa vào thẳng ngay sự việc đi.

- Thưa ông Đờvanhxy, thưa ông Đờvanhxy, xin báo tin với ông rằng Thy San đang phát điên, Thy San đang phát điên và đã...

"Thy San phát điên à? Nó phát điên thì có làm sao? Và có việc gì đến tao hở thằng ngu thộn kia" Đờvanhxy đã toan chửi thành tiếng, nhưng lại phải cố bình tĩnh nghe tiếp cái giọng và những câu nói run rẩy, líu ríu của Tú:

- Thưa ông... Thy San đang phát điên và đã lấy súng lục bắn... bắn chết... Giáng Hương, Giáng Hương vợ...

"Thy San phát điên bắn chết Giáng Hương. Ơi! Đức Chúa Trời ơi!".

Đờvanhxy phải kêu thầm ngay lên và chấm dứt câu với nụ cười nhăn nhúm hết cả nét mặt.

Y đổi giọng, thong thả, oai vệ:

- Thy San nhà anh phát điên, bắn chết vợ, đó là một tin anh nghe nói, hay là một việc, đang là một việc anh được chứng kiến?...

- Thưa,... thưa ông Đờvanhxy... Đúng là một việc tôi đang được chứng kiến giữa ban ngày. Và không những chỉ có tôi mà còn nhiều người nữa, trong số đó có cả ông sếp bót khu Cầu Đất và viên đội sếp tùy tùng. Hiện ông sếp bót đã lên gác giữ Thy San và viên đội sếp đang đứng gác ở cổng nhà Thy San.

- Bôồng... ôôôồng.. thôi thế là đủ! Rồi tôi sẽ có việc với anh, tôi nhắc lại cho anh nghe rõ "Rồi tôi sẽ có việc với anh"... Ừ thôi chào anh và có lời khen sự mẫn cán của anh!

Đờvanhxy đập ống nghe đánh rầm cái xuống bàn, giơ hai tay lên, cắt phựt nụ cười:

- Thế là đủ! Đủ để Thy San chuyến này thấy thế nào là mày là tao... thấy thế nào là những người... là... chúng tao, những kẻ đã khai sinh ra chúng mày, và quyền hành của chúng tao. Thằng nhà quê An Nam hãnh tiến ơi! Thằng Thy San quen đục nước béo cò và định bắt cá hai tay ơi! Mày sẽ được ăn một miếng mà mày không bao giờ ngờ đến, không bao giờ tưởng tượng được. Mày sẽ được biết một mùi đời khác lạ là ngay chiều nay mày phải vào... đề lao! Và mày sẽ gặp mà không dám dàn mặt tao ở phòng dự thẩm chiều ngày kia là chiều thứ hai, Thy San ạ! Thằng khốn kiếp Thy San ạ... Phải! Dù chỉ một hay hai ngày ở đề lao thôi, cũng phải cho mày biết mùi của nó!

Đờvanhxy quay quay têlêphôn, xin số máy của phòng chưởng lý, để báo tin này và xúi phải hạ trát tống giam Thy San. Đúng lúc viên chưởng lý chơi khá thân và là cánh hẩu của Đờvanhxy, đến mắc áo sau bàn giấy lấy áo mũ, ba toong ra về... chỉ chờ cái đồng hồ quả lắc ở sau chỗ y ngồi điểm giờ xong là y đã đội mũ, chống ba toong đi ra cho loong toong khóa cửa phòng.

⚝ ✽ ⚝

Bị giải vào đề lao, Thy San tự tử ngay đêm thứ bảy đó ở trại giam. Thy San xé hai tay áo sơm mi lụa của mình và hai thân áo bện làm dây thắt cổ dưới một khung cửa sắt bưng lưới sắt và ghép gỗ sơn hắc ín. Trên sàn xi măng gần chỗ thùng xia, thân thể Thy San còn mỗi cái quần đùi nâu rách của một tù thường phạm hầu hạ tên cai trại anh chị xin phép đổi quần mình lấy cái quần đùi bằng vải phin trắng mỏng của Thy San. Còn cái quần tây hàng "đoóc mơi" màu mỡ gà cố nhiên bị lột ngay khi vừa kéo Thy San xuống đất. Nó là phần của cai trại.

Chín giờ sáng chủ nhật hôm sau, bốn tù cỏ vê khiêng thây Thy San sang phòng xác nhà thương, và chín giờ tối thì Đức Sinh nhờ người nói với cả đốc tờ chính của nhà thương và lão cai phòng xác xin Thy San về. Ngay sáng thứ ba thì làm ma.

Buổi lễ sáng ở nhà thờ chính hôm ấy là lễ cầu hồn cho Thy San. Từ năm giờ rưỡi, đã kéo chuông buồn từng tiếng, từng tiếng rền rĩ nhỏ giọt. Một ôtô khách loại sang nhất, chạy đường Hải Phòng, Đồ Sơn, dẹp hết các ghế để phủ toàn vải đen nhung đen đính sao trắng và hoa huệ trắng chở Thy San. Tất cả các cha ta ở các xứ họ to chung quanh Hải Phòng, Kiến An, Quảng Yên cùng cha phó xứ Hải Phòng và các chánh trương, trùm trưởng, các quan chức quen biết đã đến tận biệt thự Bờ biển xanh rước cữu đến nhà thờ. Một nhà mồ to như quả núi quấn vải đen bày cơ man chậu hoa trắng và cụm nến trắng thắp sáng trưng ở trên mặt và chung quanh áo quan. Tất cả các tường các cột trong nhà thờ cũng phủ vải đen đính sao trắng. Và cả trên bàn thờ, nơi tòa để Mình Thánh Chúa, cả tượng Đức Mẹ và thánh giá Chúa Giêsu và các tượng ảnh khác cũng che băng tang. Các bàn thờ nhỏ cũng bày hoa, nến tang và thắp toàn bạch lạp.

Cha Nhân chính xứ làm lễ đi chung quanh nhà mồ rẩy nước phép và đích thân quỳ trước nhà mồ cầu nguyện mà chưa bao giờ con chiên xứ Hải Phòng thấy cha quỳ lâu như thế. Rồi cũng đích thân cha mặc áo lễ tang đen, trắng và cầm thánh giá đưa linh cữu đi đường.

Lại thêm cơ man kẻ quen biết với nhà Đức Sinh đổ xe ôtô và xe cao su nhà đến đưa đám, và cơ man người các nơi rủ nhau đi xem đám. Các thứ vòng hoa, các thứ đối trướng, các thứ kính viếng với các thứ tên tuổi, chức vị kéo dài ở chỗ lạc khoản đối trướng. Các người mang vòng hoa cũng giăng dài từ đầu ngã ba đường nhà thờ lên quá nhà hát Tây vẫn chưa hết. Đám ma chỉ kém có rước lễ Săngti!

Người ta cười nói, chỉ trỏ, bàn tán ồn ào. Những người xem đứng đông nghịt hai bên hè phố, rùng rùng chạy theo như cứ muốn xem mãi, và nghe mãi các chuyện, nói mãi các chuyện với nhau về cái đám ma to nhất Hải Phòng và cái chết bất đắc kỳ tử của Thy San.

- Cái đất lão ta ở có rớp đấy! Nhà lão chủ trước vỡ nợ bán đất cho Thy San cũng tự tử cả vợ lẫn chồng chết ở trên gác đấy!

- Không biết rồi của cải gia tài ấy sẽ chia nhau và cai quản thế nào?

Nhiều người còn sấn vào mà nhìn tận mặt Huệ Chi, Bích Nga, Hùng và cả vợ chồng, con cái nhà Tú! Cũng nhiều người cố ý xem có Đức Sinh và người nhà Giáng Hương không, và xem Huệ Chi hay Bích Nga có khóc không và khóc thế nào.

- Thằng quan tòa nào đứng ra khu xử vụ chia gia tài này phải là vớ bẫm. Bao nhiêu puốc xăng nhỉ...? Eo ôi! Ăn hàng bạc triệu ngon xớt!

Người ta còn bàn tán thêm không biết bao nhiêu chuyện nữa. Vừa lúc nắng to và sắp đến giờ máy bay Mỹ đến bỏ bom, đám ra khỏi địa phận thành phố, thì các thứ xe cao su, xe ôtô đón các cha, các quan khách, các chánh trương, trùm trương và các con cháu họ đương để đưa cữu về ấp An Sinh. Xác Thy San tạm chôn ở khoảng giữa cái lăng đá to như quả núi để dành cho cố bà Đức Sinh và cái hầm tăng xê chắc chắn nhất, sang nhất, đẹp nhất, nhiều cái lạ nhất, và cũng to như quả núi mà chỉ Thy San và vợ con Thy San được vào trú ẩn thôi...

Khi tiếng khóc òa lên lúc hạ huyệt quan tài, thì cố bà Đức Sinh ở trong nhà chồm lên: "Ới con ơi!" rồi lăn từ trên giường xuống đất, giãy đành đạch, giựt tung cả cỗ tràng hạt Thánh giá và tượng của Đức Mẹ.

- Giáng Hương ơi! Cha tiên nhân mày! Cha tiên nhân mày Giáng Hương ơi là Giáng Hương ơi. Mày chỉ đáng ăn máu sinh máu đẻ người ta mà chết thôi!

Miệng phì phì bọt, cố bà Đức Sinh ngất đi...