Thời Kì Đen Tối Chương 10
Xim đã choàng tay vào cổ La, nhưng sực nhớ đến lời Bố Vy căn dặn mình về thôn quê hoạt động cần phải tránh sự làm người ta chú ý đến những cử chỉ khác lạ với chung quanh, bèn rụt cánh tay lại:
- La nhớ nhé, thư thì bỏ vào cái hốc nhỏ nhất của gốc đại phía giáp với cây hương. Còn tài liệu, thì vạch nhẹ nhẹ đám xương rồng che chân cây hương, kéo hòn gạch ra, bỏ vào cái ô hổng trong đó. Lúc để lại hòn gạch phải có ý, làm sao lại bụi bậm như cũ. Cũng như khi rấp lại những cành xương rồng ấy.
La lại cười, gật gật mà không đáp lời, nhưng bụng bảo dạ:
- Cô ấy vẫn cứ coi mình còn là trẻ con!
Thấy La càng tươi tỉnh, hân hoan, Xim lại càng làm ra bộ vui vẻ tự nhiên:
- La nhớ nhé, bảo với bà tôi phải mua chè tươi hãm, pha đường mà uống. Cứ hãm thật đặc, lúc sáng sớm hay trưa dậy thì xông mắt. Nếu như cái Lê nó cứ theo người ta đi bắt cua, bắt cá, có được mớ nào phải để nhà ăn chứ đừng đem lên chợ bán. Cua ăn không hết thì muối, cá ăn không hết thì làm mắm. Cấm chỉ nó không được ra Sáu Kho hay lên các bến bãi trên phố kiếm củi cho nhà luộc khoai, luộc dong hay nấu nước gì cả! Lúc nào hai bà cháu cũng phải quanh quẩn với nhau...
Cùng La đi thêm mấy bước, Xim dừng lại. Đến việc riêng của Xim phải suy nghĩ nhiều nhất đây. Xim đưa La gói tiền, mãi mới nên lời:
- Hai chục bạc này La bảo với bà tôi là của Tổ chức ủng hộ nhà ta. Bà tôi và cái Lê phải đem đong gạo cả mà ăn. Hai bà cháu có khó khăn quá, bán bát nước, củ khoai nhặt nhạnh không sao đủ, thì cũng chỉ nên độn thêm ngô thêm khoai mà ăn, chứ đừng bớt nữa. Về phần cái Lê, thế nào nó cũng lại phải đi học. Không học sáng thì học chiều. Cố nói với cậu giáo trong xóm cho nó học ở gần nhà.
Nghe thêm Xim căn dặn điều này, La lại ngạc nhiên và buồn buồn, vì lại không hiểu do Xim quá cẩn thận, hay Tổ chức định thế nào đây, nên bà cụ Xim vẫn phải ở Hải Phòng. Ừ thì vì công việc Xim phải đi lại luôn và giữ bí mật, nên không thể để bà cụ ở với Xim, chứ còn ở với La thì có gì đáng sợ? Đã thế Xim lại được yên tâm về đời sống. Bà cụ ra ngoài đấy vẫn bán nước bán quà bánh, còn La đi cắt tóc, cái Lê đi bắt cua, ba bà cháu quấn túm với nhau làm ăn, không những không thiếu thốn mà lại xôm xả là đằng khác.
- Thôi, La đi nhé!
Thằng La hóm hỉnh nhìn Xim: "Lại nhớ nhé!", "Phải nhớ nhé!".
- La nhớ nhé, có cần lắm, vạn bất đắc dĩ mới tìm đến Dâng, mới cho Dâng gặp mình, chị em mới gặp nhau. Và có gặp nhau thì tuyệt đối không được mang tài liệu trong người, hay ăn uống chuyện trò gì lâu đấy!
Hai tay La nắm lấy tay Xim, nói như làm tuồng, làm chèo, vừa nghiêng người, liếc mắt:
- Dạ dạ... xin nhớ ạ... xin nhớ thật là nhớ, nhớ ghi tâm khắc trí... Nhớ thật là nông, à à... thật là sâu ạ ạ ạ...
Bây giờ thì Xim cười thật. La lại như dạo nào tong tong cõng em ở ngoài phố về gọi mẹ:
- U ơi, u ơi! Cõng em vẹo cả xương sườn, được u thương cho con những một trinh để mua kho... oai... ăn no từ... sáng đến giờ đây i i i.
Và mẹ La tru tréo:
- Giời ơi!... Lại đưa nó về nhà để nó quấy rồi!... Chưa có gạo đâu! Còn đương phải đi lạy người ta mà đong chịu đây này! Củi đóm cũng chẳng còn thanh nào cả! Lấy bàn tay đút vào bếp mà đun! Còn được ít trấu thì rước các bố các mẹ về lùi khoai cho bằng hết!... Quỷ sống ạ ạ ạ! Tôi chết chỉ vì các con tôi thôi!
La đặt cái Lu xuống sân, con bé định bò đến với mẹ. La lại xốc nó lên lưng, khòm khòm người chắp hai tay vái:
- Xin tuân theo mẫu hậu, và cúi xin mẫu hậu nhớ thương lấy kẻ hạ thần đừng thổi bớt gạo, để kẻ hạ thần kiếm miếng... a a... cháy i i i....
Cả Gái đen, Cam, Xim, mẹ Nghĩa rằng và mấy nhà chung sân đều ôm bụng cười. Mẹ La cũng bậm miệng lại mà cười!...
Chào Xim xong, đi được một quãng, La còn quay lại nhìn Xim và cũng bắt gặp Xim nhìn mình. La vẫn xách cái hòm đồ cạo, nhưng bây giờ là hòm thợ mộc chính cống đóng cho. Đáy cũng ghép như kiểu thùng nước vo hai đáy mẹ La gánh đưa thư và tài liệu chuyển cho Dâng.
La đón bé Lu về cái xóm chợ cách xa Hải Phòng này đã được hơn ba tháng. Sau hai hôm ở với bố Vy, xoa bóp cho bố Vy, và nhờ bà lão cơ sở đi lấy thuốc về cho bố Vy uống, La đưa bố Vy lên Bắc Giang. Bố Vy bằng lòng cho La làm việc này, sau khi nghe kỹ các chuyện của La, đặc biệt là chuyện về những phu lục lộ, những người đi vỡ hoang, làm thợ sơn tràng tha hương cầu thực mà La đã gặp và được họ giúp đỡ. Bố Vy nhận là anh họ thúc bá của cha La, đang tìm La, nay lên thăm ông bà chủ nhà, cảm ơn ông bà, xin phép cho anh em La về. Bố Vy xếp chỗ anh em La ở nhà một vợ chồng cơ sở, nói với hai bác nhận anh em La là cháu họ, bố mẹ bỏ đi phu cao su đất đỏ, anh em phải làm ăn nuôi nhau. Tới tháng trước gặp Xim, nghe Xim báo cáo công tác, vừa dấn dấn nước mắt, bố Vy mới được tin cả mẹ La và cái bé Xim đã bị bom Mỹ giết chết. Bố Vy liền cho Xim biết chỗ ở của La để Xim thăm La, và cũng để từ nay trực tiếp phụ trách La, huấn luyện tập dượt cho La.
Xim không những quay lại mà còn đứng sững rất lâu bên một gốc cây trông theo La. Thế là đã hơn ba tháng Xim không liên lạc được với cơ sở chính trong Hải Phòng. Cũng hơn ba tháng nay, Xim không được thêm tin tức nhà, ngoài việc được biết rõ rằng bà con hàng xóm đã chôn cất rất chu đáo mẹ La và cái bé Xim. Còn mẹ Xim và cái Lê vẫn không phải đi nơi khác, vì mẹ con nhà Nghĩa rằng mua được ít cây que, nói với một cụ phó ngoài chợ chữa giúp lại nhà, làm thêm một chái rồi ở hẳn với hai bà cháu. Trong khi Xim nghĩ ngợi như có muối xát ruột sát gan, thì Xim thấy mẹ Xim còn đau đớn và mong mỏi gấp mười mình. Không cần tiền nong, cũng không cần được năm ba ngày thu xếp gì cả, mẹ Xim chỉ mong Xim về nhà ở một đêm hay gặp Xim một lúc. Về phần Xim cũng vậy, làm sao Xim được về nhà, gặp mẹ, chuyện với mẹ chỉ một giờ thôi!
Bởi vậy trông theo La, Xim thấy như cả chân mình cùng La đi băng băng, còn mắt Xim thì sẽ nhờ mắt La thu nhận cho tất cả những hình ảnh bấy nay thân thiết. La nhớ nhé! La ơi! La nhớ nhé, La không được bỏ sót một cảnh gì, một vật gì của nhà ta, để rồi kể lại, tả lại cho cô nghe nhé! Hai cô cháu sẽ phải ghi khắc thật sâu vào tâm trí, tất cả các dấu vết hơi hướng của cái nơi cái chốn đau thương, và phải bảo ban nhau làm việc ngày làm việc đêm sao cho thật tốt, thật nhiều kết quả, xây dựng được thêm cơ sở, đẩy mạnh phong trào, để cách mạng sớm thành công.
Mắt Xim như sắp nứt vì cố gắng hình dung ra mẹ La và bé Xim cùng với gian nhà lá và cái mảnh sân chỉ rộng bằng ba mặt chiếu mà tới nay Xim vẫn không thể tưởng tượng được sao lại phải chịu trận bom Mỹ tàn sát như thế?! Vẫn chính ở đó, cả người mẹ già yếu của Xim và đứa con gái bé trơ trọi của mẹ La đang sống lần hồi bữa no bữa đói, với bà con quần chúng cùng khổ, đón đợi tin tức của Xim cũng từng ngày từng đêm, và Xim chỉ có thể trở về với Cách mạng mai đây thắng lợi. Ơi mẹ! Ơi Hải Phòng! Con của mẹ và của Hải Phòng nhất định...
... Thằng La cũng qua những con đường trước đây mẹ La trốn tù về Hải Phòng. La đi xe ngựa với những người buôn bán gạo đỗ, rau quả, gà vịt. Khi La xuống ga đầu thành phố, La cũng qua khu Xi măng, qua cầu Hạ Lý, nhưng tới ngã tư Bônbe, thì La không ra bến Sáu Kho và về nhà. La đến ngay chùa Sen, tự giới thiệu mình là con trai bà gánh nước vo ở trong quê ra báo tin mẹ đã "ốm" chết, và thăm sư bà, thăm bà hộ chùa, đưa biếu sư bà và bà hộ chùa một giỏ hoa quả cây nhà lá vườn để thắp hương. Đặt thư với tài liệu của Xim vào chỗ hẹn xong, La chuyện trò một lúc nữa vừa nhận xét thêm các đường đi lối lại và tình hình nơi đây, rồi xin phép lên phố. Chờ về chiều sắp nhọ mặt người, đèn phố bật, La mới đi đường tắt về nhà và chỉ ở với bà cụ Xim, mẹ Nghĩa rằng và cái Lê hơn một tiếng đồng hồ, đưa quà bánh các thứ, dặn dò rồi ra đi.
Không một việc gì La không làm đúng lời Xim căn dặn hay đã bàn với Xim, cả việc không cho thằng Vy em, Dâng và Cam gặp mình. Nhưng La cứ nhất định tìm thằng Nghĩa, gặp bằng được thằng Nghĩa.
La chờ ở gốc đa đón Nghĩa đi đội than về. Chính chỗ này, hai thằng ngày trước thường cởi trần trát bùn ngồi thu lu trên chạc cây, hoặc bám rễ đa đu đưa giả làm ma, làm tinh, làm người thắt cổ, trêu nghịch các mẹ, các ả chanh chua buôn hàng lậu, lẻn nhà đi hầu bóng ở điện mụ đội Nhị và điện cố bà Tây cậu về khuya. Cũng chính ở bờ đầm này, hai thằng thường cất vó, bắt cá, lấy trộm ngó sen, hay rủ trẻ con tập bơi, thi bơi cứ ùm ùm những buổi trưa mùa hè.
Thằng La đã quàng tay qua gáy, bịt ngay miệng thằng Nghĩa, kéo sấn thằng Nghĩa vào bụi duối sau miếu. Thằng Nghĩa thở sằng sặc vẫn cố nói:
- La ơi La, mày đi chết đâu mà lâu thế? La ơi La! Mày về Hải Phòng từ bao giờ? La ơi La! Mày chúa thần là đểu, mày giấu cả tao, chả cho tao biết tin tức gì cả! La ơi La! Đêm nay thì ông sẽ trói mày, đóng bè chuối buông mày trôi sông Cấm cho bõ cái tội của mày!
La rú lên vì Nghĩa ngoạm vào cánh tay mình tưởng đến đứt hẳn miếng thịt. Rồi Nghĩa ngồi thụp xuống bờ cỏ, khóc cứ tu tu:
- La ơi, mày đểu quá! Với tao mà mày cũng giấu! Mày chả cho tao biết tin tức gì, chả gởi cho tao lấy một chữ! Tao với mày thế nào mà mày nỡ đối xử như thế hả thằng chó kia?!!!
Không hiểu sao La lại không khóc được, cũng như ban nãy khi thoạt tiên vào thấy bàn thờ le lói ngọn đèn dầu và ngan ngát mùi hương đen, La nghẹn ngào lên tiếng gọi bà cụ Xim đang nằm rên, sau đó thì cái Lê cắp rổ khoai ngoài sân bước vào, mặt mày tái mét, ngẩn ra giây phút nhìn anh rồi cứ mếu xuệch mếu xoạc, hưng hức hưng hức, nói những tiếng lí nhí không hiểu nói gì.
Trời không trăng, đầy sao và tắt gió. Chỗ hai thằng ngồi lại có bóng cây nhưng vẫn đủ để ngắm nhìn nhau và nhận kỹ nhau thêm. Thằng La thì thấy thằng Nghĩa vẫn còm cõi, da dẻ càng đen nhẻm, đầu tóc càng đỏ xoăn đỏ cháy, mũi như nhọn thêm, miệng cũng như dẩu thêm. Chưa kịp tắm rửa và thay quần áo, Nghĩa mặc chiếc quần cộc vốn là quần lính Nhật thải, đắp vá lại dày như mo nang, mình trần, xương sống xương sườn vêu vao, ngồi ôm lấy La, đầu Nghĩa chỉ chấm vai La. Thằng Nghĩa thì thấy La không khéo sắp thành trai gộc đến nơi rồi, không phải vì La quần áo lành lặn, đội mũ trắng hẳn hoi, mà vì người La vừa lớn phổng, vừa có dáng vững vàng của kẻ tháo vát, từng trải.
- Sao mày lại khóc? Tao về mày chả mừng thì chớ lại khóc, lại chửi tao! Ừ thì tao có lỗi, vậy tao xin lỗi mày! Nhưng mày nên hiểu lòng tao. Rồi tao sẽ nói nhiều chuyện cho mày nghe.
Nghĩa về nhà tắm gội hết cả miếng xà phòng mẹ đã cất kỹ. Nghĩa mặc cái áo sơ mi dệt trắng, quần tây vải xanh và mượn guốc của mẹ đi. Tuy biết rõ Nghĩa bỏ cơm để đi chơi với La, nhưng mẹ Nghĩa giả vờ không biết gì cả, cứ hỏi Nghĩa sao không ăn cơm, đi chơi đâu và có về nhà không.
- U là cứ hay lằng nhằng lắm! Người ta đói thì người ta phải ăn, người ta không ăn là không đói! Mà không ăn thì còn cơm nguội đấy, mai ghế lại ăn, chứ đổ đi đâu mất?! Còn đi chơi... thế cứ cả năm cả đời chỉ đi làm thôi à?!
Mọi khi bị Nghĩa vùng vằng đối đáp như thế, mẹ Nghĩa rằng thế nào cũng tru lên, nói không biết bao nhiêu cái "lằng nhằng" về sự đạo đức, lễ nghĩa, đặc biệt là về sự đau khổ, nhục nhã của đời mình... Nhưng nay mẹ Nghĩa lại cười mà chửi:
- Cha bố cậu! Giỏi lắm rồi đấy! Tôi biết cậu là giỏi lắm rồi đấy!
Cái Lê cứ nhìn mẹ Nghĩa rằng, trong lòng lo lắng. Nó chỉ sợ mẹ Nghĩa vô tâm vô ý, vạ mồm vạ miệng, để lộ mọi người biết La đã trốn về nhà. Điều e ngại nữa là không hiểu Nghĩa tắm rửa ăn mặc thế kia có phải chỉ đi chơi với La chăng?! Sao lại như thế? La không chịu ngủ một đêm ở nhà mà lại đi, đi chơi với Nghĩa, một thằng bạn nghịch ngợm tợn tạo, tuy mười bốn mười lăm tuổi, đã đi làm kiếm tiền được rồi mà vẫn làm mẹ luôn luôn lăn lộn ra đất, kêu giời và rủa sả!
Hai đứa cứ tranh nhau trả tiền, La và Nghĩa đã ăn kem cốc ở hiệu kem máy của Nhật Bản; ăn bánh tôm rau chẻ ở vườn hoa; ăn mì xào và bánh khách ở một cao lâu và uống bia. Chúng còn bá vai nhau đi chơi đến khi các rạp chiếu bóng, rạp tuồng, cải lương tan khách đã lâu mới về ngủ. Nghĩa đưa La xuống cái xà lan mình đội than, mượn chiếc chiếu trải ở đằng mũi, gác chân lên nhau mà nhìn trời sao vừa nói các chuyện với nhau. Gà gáy lần thứ nhất, các xe thùng đã lịch kịch trở về khu đống rác qua đường sau nhà thương và trước cửa đề lao, hai đứa mới chịu chợp mắt.
Chiếc xà lan La và Nghĩa nằm đỗ trước ngõ đá vào nhà Thy San, chỗ ngày trước cụ Ước dọn hàng nước, và bên này là lán than mẹ La làm với mẹ Nghĩa rằng.
Hai đứa nằm quặp nhau ngủ tới lúc mặt trời chiếu hẳn vào mặt chúng và xà lan ình ình người lên xuống thì choàng dậy.
- Chết! Ngủ thế này đúng là có bị xẻo mất giống đi cũng không biết đâu!
Nghĩa lồm cồm, dụi dụi mắt, lay người La; La cũng lồm cồm dụi dụi mắt, quờ quạng cái mũ và cười cười bảo Nghĩa. Nghĩa lên bờ, dặn một người quen hôm nay Nghĩa không lấy thẻ làm rồi cùng La xuống chợ An Dương. La mua đủ lệ bộ, vàng hương, trầu cau, một nải chuối xanh, một gói thật nhiều hoa và một bao nến. La thắt khăn xô xuống thăm mộ mẹ.
Nghĩa đưa La xuống nghĩa địa Đống rác chôn các người tù và vô thừa nhận. La hóa vàng xong còn ngồi gục đầu lên tấm bia khóc và ôm lấy mộ hồi lâu. Đứng lên, La dùng dằng không biết thu dọn đồ lễ thế nào, và sẽ đi đâu bây giờ, thì Nghĩa lại xếp tất cả hoa quả, hương nến vào cái khăn, bảo La:
- Đến đằng miếu với tao.
- Miếu nào?
Nghĩa trỏ một đám cây xờ xạc và cái miếu không có cửa và hàng rào gì cả:
- Miếu thờ Đức Ông.
- Đức Ông nào?
- Tao chỉ biết người ta gọi là miếu Đức Ông và thấy các người tù nhà pha hay phu đào huyệt đưa ma xong thì vào đây lễ.
- Lễ gì, lễ làm gì? Đức Ông thiêng lắm à?
- Lễ cho các cô hồn được sang kiếp khác sung sướng chứ còn lễ gì nữa! Mà Đức Ông không thiêng thì sao người ta lại thờ, lại lễ?
- Thế không cần Đức Ông và cũng chẳng phải sang kiếp khác mà người ta cũng được sung sướng, không phải khổ sở, có cách làm như vậy thì sao?
- Mày đi xa về, ăn nói nhiều cái nghe nó cứ thế nào ấy, lạ lắm! Thì mày cứ vào miếu với tao!
La ngạc nhiên thấy cả tòa miếu chỉ có một bệ gạch bày một cái ngai không đã róc sơn, một bát hương to bằng sành, một mâm bồng và những chân nến bằng gỗ mộc.
- Kìa Đức Ông đâu? Đức Ông đâu?
- Đức Ông là tên, là ở miếu này chứ còn đâu nữa!
La càng ngạc nhiên hơn, thấy tuy hoang sơ nhưng bàn thờ không bụi bậm, và hình như lại có hương hoa thoang thoảng. Thì ra trên mâm bồng vẫn còn một gói hoa đã héo và phía giáp bụi ô rô có một búi sói, hoa nở lốm đốm trắng vàng, và trước cửa, cách một quãng hơi xa, ở liền khu vườn rậm bên kia, có một cây đại vẫn ra hoa. Nghĩa giở khăn gói lấy trầu cau, hoa quả, hương nến bày lên mâm bồng và cái bực tam cấp. La sửa soạn làm theo Nghĩa, lễ vái và cầu khấn Đức Ông cho Nghĩa bằng lòng. Nhưng bày biện ngắm nghía các thứ xong, chợt Nghĩa nắm lấy ta La mà nói:
- Mày cho tao năm hào.
La luống cuống:
- Mày cần tiền... mày... mày... đây... đây...
La đưa cả ví cho Nghĩa, Nghĩa chọn năm hào mới, gấp gọn mấy tờ giấy một đồng mà hôm qua La trả tiền ăn uống còn lại, nhét nhét vội lòi thòi ra cả ngoài ví.
- Mày chờ tao một tí nhé, tao ra ngoài xóm mua cái này, chỉ năm phút là về ngay.
La càng ngạc nhiên:
- Mày cần mua cái gì mà phải đi như thế? Để tao đi với nào.
- Không, mày cứ phải ở đây, mày chỉ chờ tao năm phút thôi.
Nghĩa ù té chạy qua lối tắt đằng sau khu vườn rậm. Chỉ một loáng Nghĩa trở về, rút ở túi ra một cút rượu trắng.
- Mày mua rượu làm gì? À à... mày mua rượu để cúng.
La nghĩ đến bố La nghiện ngập. Phải! Bố La nghiện rượu và cuối cùng đã chết thảm thương sau một bữa lấy đồ trốn nhà đi ăn uống. Trời ơi! Thằng Nghĩa còn nhớ đến cả bố La và cúng cho bố La à?! Nghĩa rót rượu ra cái chén sành đựng nước thải mà Nghĩa đã lau đi lau lại bằng vạt áo của mình.
- Ra đây với tao, La!
La càng luống cuống, đờ đẫn nhìn Nghĩa. La cũng thấy Nghĩa lạ quá!
- Mày ra tạ Đức Ông xong thì làm lễ với tao.
- Lễ gì?
- Lễ kết nghĩa chứ còn lễ gì?
- Kết nghĩa là lễ gì?
- Kết nghĩa là kết nghĩa! Tao với mày kết nghĩa anh em.
- Thì tao với mày không còn thân nhau nhất trần đời này hay sao mà phải kết nghĩa?
- Không! Là bạn thân với nhau thôi thì vẫn chưa được. Mà phải là anh em cơ! Anh em cũng chưa được, phải đồng sinh đồng tử kia! Nên hôm nay tao phải làm lễ với mày, thề cùng nhau đồng sinh đồng tử, lúc nào cũng phải bó kết lấy nhau. Mày ra đây, tao với mày cùng nhau cắt máu ăn thề trước mặt Đức Ông, La ạ...
⚝ ✽ ⚝
Trong khi Nghĩa và La đưa nhau vào miếu, làm các sự lạ lùng tưởng như không ai để ý đến, thì có một người đã theo dõi hai thằng, không bỏ sót một cử động nào: Cam.
Cam ở khu vườn bên kia, trong một gian nhà lá nhỏ. Đây là chỗ ở của ông lão trông coi khoảnh vườn sau nhà ông ký Thái. Cam, Vy nhớn và Sơn đang khai hội. Ba người ngồi trên chiếc phản gỗ cũ, thấp gần sát mặt đất, trước mặt có một bàn cờ tướng, một bình tích nước vối, một bộ chén sành đựng đĩa gỗ. Ông vườn vừa cuốc đất ngoài ngõ, vừa nghe ngóng canh gác cho bọn Sơn. Ở bụi ruối giáp miếu Đức Ông có một lối nhỏ rấp rất khéo để lấy lối rút nếu động.
Qua tấm mành tuy đã đen xỉn, nhưng bên ngoài trời nắng to, miếu thông thống chẳng có cửa, nên Cam trông rất rõ. Thoạt tiên, nhìn thấy đúng là thằng Nghĩa xách bọc đồ lễ, Cam đã ngạc nhiên, rồi khi lại thấy có một thằng đội khăn xô, cầm gậy tang thì Cam ngờ ngợ và lấy làm lạ quá!
- Thằng La! Thật thằng La con bà La mà! Cam nhủ thầm.
Mặc dù vẫn làm ra vẻ chăm chú nghe những ý kiến của Sơn phát biểu về những điểm chính của tài liệu thảo luận, và có tập trung lại tư tưởng, nhưng Cam vẫn cứ phải chia lòng, chia trí.
Đúng ba tháng rưỡi, sau khi mẹ La chết, thì Cam, Sơn và Vy nhớn không được liên lạc với Tổ chức. Nhưng tối hôm qua, Cam đi làm về, bỗng thấy Dâng qua nhà và đặt ám hiệu có việc gấp. Cam đến chỗ hẹn, trong lòng như lửa đốt. Hay lại động, lại có cơ sở bị vỡ, lại có khám xét bắt bớ?
Nhưng không, liên lạc mới đã chắp được rồi! Có thư của Xim với tài liệu và là tài liệu mà Cam không thể tưởng tượng được, nay đã chuyển đến cho Cam và tổ của Cam.
Bây giờ lại gặp La. Thế là thế nào? Ai cho tin mà La về Hải Phòng? Hay La vẫn có liên lạc với mẹ? La vẫn có liên lạc với mẹ, sao La không về ngay hôm mẹ La bị bom chết? Và La có liên lạc với mẹ, sao La không cùng cái Lu ở với mẹ? Không! Chính cả Xim và Dâng đều áy náy, lo lắng cho mẹ La, vì bặt tin anh em thằng La cơ mà! Riêng Dâng, hôm bốn chín ngày mẹ La, Dâng còn vừa khóc vừa nhắc đến anh em La. Dâng bảo Cam sau đây thế nào cũng phải dò hỏi tìm kiếm anh em La để giúp đỡ. Ấy là bổn phận trước mắt! Còn lâu dài là phải thay mẹ La mà chăm nom dạy bảo và xây dựng cho hai đứa.
Vậy mà La đã về. La về ngay hôm Cam được liên lạc với Tổ chức. Chả nhẽ Cam lại hỏi Dâng người đó là ai? Vả lại, Cam có hỏi thì Dâng vì nguyên tắc bí mật nhất định sẽ không cho biết. Vừa phần Cam cũng chẳng dại chẳng hớ gì để phạm lỗi về kỷ luật. Nhưng người liên lạc mới này không phải là La, còn ai vào đây? Như vậy, đúng là La hoặc vẫn có liên lạc không với mẹ La thì với Xim. Mà La làm sao lại gặp Xim ở ngoài kia? Ai giới thiệu La mà La được Xim tin cậy giao cho công tác thay mẹ?!
- Thằng La đã được giác ngộ rồi?! Thằng La cũng được giao cho công tác rồi?! Rất có thể nó cũng được vào đoàn thể Nhi đồng, sinh hoạt trong khi Vy nhớn, Sơn và Cam sinh hoạt thành tổ Thanh niên cứu quốc. Như thế thằng Nghĩa có thể là tổ viên của La cũng nên? Vì thế hai thằng mới làm những việc đặc biệt đây kia!
Sơn ngồi bên bàn cờ, ở phía trong. Vy nhớn ngồi phía ngoài. Tập tài liệu chữ viết nhỏ như chân kiến, khổ bằng hai bao diêm mà Cam cử Vy nhớn đọc, cứ một phút một cuốn hút thêm trí não Sơn.
"Hỡi đồng bào!
Từ khi Pháp mất nước cho Đức, giặc Pháp đã biến thành tên đầy tớ của Đức, Ý, Nhật. Chúng để cho Nhật xâm lấn đất ta, lại cắt một phần mười đất Đông Dương cho bọn quân phiệt Xiêm tay sai của Nhật. Nước ta khác nào miếng thịt béo cho bọn phát xít quân phiệt xâu xé. Đồng bào ta khác nào con bò vắt sữa, phải nuôi sống quân cướp nước Pháp, Đức, Xiêm, Nhật. Kinh tế khủng hoảng làm ăn sa sút, sưu thuế nặng nề, lạc quyên quốc trái, sinh hoạt đắt đỏ v.v... Biết bao tai họa do Pháp gây ra đã đẩy các giới đồng bào đến chỗ cùng quẫn. Chế độ quân nhân độc tài phát xít lại biến xứ Đông Dương thành một địa ngục".
Sợ mình không giữ được bình tĩnh, Vy nhớn phải dừng lại và cố đọc thật chậm thật rõ nữa, rất khẽ mà đủ nghe:
"Thật thế, giặc Pháp đàn áp bắn giết dân ta đã hết sức tàn nhẫn. Ở Nam Kỳ chúng đốt làng, quẳng nhiều người bị tình nghi trong cuộc khởi nghĩa cuối năm ngoái xuống sông, biển, cho lính Lê dương và lính Cao Miên hãm hiếp, cướp bóc nhân dân. Ở Thanh-Nghệ-Tĩnh, Trung Kỳ hiện nay, chúng dỡ nhà những người trốn tránh. Ở Bắc Sơn, Đình Cả, Bắc Kỳ, chúng đem lính về các vùng đốt phá, triệt lũy, phá tán của cải lương dân. Tòa án binh có toàn quyền hành động. Sở mật thám chính trị thành lập khắp nơi. Bọn mật thám tha hồ bắt bớ, đánh đập nhân dân, tra tấn những người bị tình nghi để lấy của. Bọn cai trị Pháp thi nhau ăn hối lộ, vơ vét cho đầy túi tham đặng sửa soạn cuốn gói bước đi.
Giặc Nhật mới sang ta cũng đã hoành hành như một bầy thú dữ, nào hiếp dâm, nào cướp bóc, nào giết chóc, đánh đập nhân dân ta, đời dân ta như cỏ rác. Gần nơi quân Nhật đóng, những cảnh thương tâm uất máu đã đập vào mắt mọi người".
Mắt Sơn lóa lóa, Sơn phải xốc lại kính, rồi đưa tay đỡ lấy đầu, ấp vào hai thái dương như khi phải vận dụng cao độ sức suy nghĩ trước những công thức, những quy tắc, những giải đáp của các bài toán học khó khăn, mới lạ. Như đoán biết được ý của Sơn, và cũng là điều mà Vy nhớn chủ định với đồng chí thanh niên học sinh này, nên Vy nhớn ngừng lâu lâu và đọc lại đoạn "... Giặc Nhật mới sang ta... mắt mọi người".
Hết đoạn, Vy nhớn rót một chén nước uống rồi mới đọc tiếp.
"Hiện nay hàng vạn con yêu của dân tộc đang rên xiết trong các đề lao và các trại giam. Hàng trăm chiến sĩ đã hy sinh ở trường bắn vì muốn mưu giải phóng cho Tổ quốc".
Cam nghẹn ngào. "Chúng đã xử bắn đồng chí Khánh của Hải Phòng rồi đấy! Anh Khánh ơi!".
"Vì lòng tham muốn của chủ nghĩa đế quốc, nạn chiến tranh còn giày xéo lên đất nước ta, tàn sát nhân dân ta chưa biết đến đâu là cùng.
Tinh thần dân tộc của ta bị chà đạp; văn hóa bị kìm hãm, dư luận bị hắt hủi. Trong vòng hợp pháp, không ai được kêu, được nói, được viết một câu gì xúc phạm đến bọn thống trị, hoặc than thở cảnh bất công. Đế quốc Pháp, Nhật bịt mồm khóa miệng dân ta. Chúng đem tư tưởng phản quốc của Pêtanh đầu độc thanh niên ta, muốn cho nhân dân ta u mê, hèn nhát như một bầy chó, ngựa để phụng sự quyền lợi cho chúng...".
Nghe đến đây, cả Cam, Sơn và Vy nhớn đều như thấy bị nghẹt thở. Cả ba cặp mắt và nét mặt đều hiện lên một vẻ căng thẳng dữ dội. Riêng Sơn, Sơn còn cảm giác là chưa bao giờ thấy rõ trên thân thể phải chịu một sức đè nén đen tối và nặng nề như bây giờ. Và lần đầu tiên trong đời Sơn, bên cạnh khái niệm về xã hội nay Sơn đã có được một ý thức cụ thể và chính xác về sự bóc lột và đàn áp của một chế độ đối với một con người và một tinh thần. Con người và tinh thần ấy phải sống ở cái xứ sở thuộc địa tên là Đông Dương, ở trên non sông đất nước bị xâm chiếm tên là Việt Nam: xứ sở Đông Dương và đất nước non sông Việt Nam của Sơn!
"Hỡi đồng bào!
Từ khi lập quốc, xét lịch sử nước ta chưa bao giờ nhục nhằn, đau khổ như lúc này. Nhưng chúng ta có cam tâm làm nô lệ mãi không? Chúng ta có chịu cho quân sài lang đế quốc giày xéo lên thân ta, đẽo khoét dân ta đến tận xương tủy không?
Trăm lần không!
"Một dân tộc có trên bốn ngàn năm lịch sử, trước sau bị Tàu đô hộ hơn mười thế kỷ mà vẫn không bị diệt vong; một dân tộc đã đẻ ra những vị anh hùng cứu quốc Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... quyết không chịu là vong quốc nô mãi! Một dân tộc bảy mươi năm không ngớt chống chủ nghĩa đế quốc, đã viết nên những trang sử đầy hy sinh anh dũng ở Vụ Quang, Yên Thế, Bãi Sậy, Thái Nguyên, Yên Bái và mới đây ở Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, quyết không chịu làm trâu, ngựa cho quân đế quốc da trắng hay da vàng!...".
Sơn chớp chớp mắt, lại đẩy kính lên, nắm lấy tay Vy nhớn và bản Tuyên ngôn. Nhưng không phải Sơn nói mà là Cam. Cam cũng đưa tay cầm thêm vào tờ giấy, gọi Vy nhớn bằng bí danh:
- Điện ơi, Điện phải đọc lại đoạn này, phải đọc lại cả đoạn này!
Chính lúc Vy nhớn ngửng đầu lên trông ra ngoài để nghỉ mắt và cũng để bớt xúc động, thì trước bàn thờ bên kia, thằng La và thằng Nghĩa đang lấy mũi kim xâm xâm thật mạnh vào đầu ngón tay trỏ của mình, nặn cho máu rỏ chung xuống chén rượu rồi cùng quỳ thụp xuống bệ gạch, cùng nâng chén rượu máu lên trên đầu mà khấn. Rồi khi hai thằng quay ra đưa cho nhau uống và mút không để sót một giọt, thì Vy nhớn chỉ muốn kêu lên bảo Cam:
- Cam ơi, đúng thằng La kia kìa! Đúng là thằng La ở trong miếu. Nó đang làm trò gì với một thằng bạn kia kìa?!
Vy nhớn không được như Cam chứng kiến lúc Tây cậu và sếp Bảy mề đay ra lệnh cho người ta gỡ người mẹ La và bé Xim ra để khiêng lên xe xác đưa đi nhà thương. Mãi đến hôm cúng tuần bốn chín ngày mẹ La, Vy nhớn mới được Cam kể cho nghe và biết thật cái người bị chết cùng với bé Xim là ai. Nếu như sự đau xót có thể đo được hay cân được, thì phần của Vy nhớn dày hơn, nặng hơn của Cam. Ông cụ Vy và thằng Vy em đã ngạc nhiên vì thấy Vy nhớn luôn mấy ngày cứ lầm lỳ, thờ thẫn, bỏ cả bữa ăn mà không phải vì ốm. Hay vì ở Máy đá chỗ Vy nhớn làm có chuyện gì xảy ra? Nhiều lần Vy nhớn tránh cả uống nước, cả đáp lời Vy em... Vì nếu Vy nhớn chỉ nán lại một phút nữa hay uống chén nước của nó rót cho, thì nhất định Vy nhớn phải ôm lấy nó mà nói:
- U thằng La chết rồi! Bá La chết rồi!
Cũng như Vy nhớn đã mấy lần phải cắn chặt lấy môi mà nói với mình:
- Đế quốc đã giết bá La! Đế quốc đã giết mất một cơ sở của phong trào rồi!
Vy nhớn cúi xuống, cầm tài liệu đọc tiếp. Bên sự vui sướng thấy La đã được giác ngộ và giao công tác, Vy nhớn chợt thấy có một phần ân hận và lo lắng. Vy nhớn ân hận vì đã không chú ý đến Vy em. Nó cũng là người thân cận nhất của Vy nhớn; Vy nhớn biết rõ các tính nết. Vậy mà Vy nhớn đã coi thường, không chịu tuyên truyền, giáo dục một cách tích cực, cứ để thằng em muốn nghĩ gì về mình, muốn thấy mình thế nào, tùy ý. Còn Vy nhớn lo vì thấy có thể La đã vội vàng quá trong việc bắt mối liên lạc với thằng Nghĩa, dù Nghĩa là bạn cùng xóm, cũng chơi thân với La như thằng Vy em. Cái màn kịch kết nghĩa đang diễn ra kia, Vy nhớn hoàn toàn không cho là lố lăng, song hành động như thế giữa lúc này, nếu lọt vào mắt bọn mật thám hay người lạ tò mò không tốt nào đó, thì cũng đáng e ngại!
Cuối cùng Vy nhớn lại nhớ đến bố. Mẹ Vy chết đã sắp đoạn tang mà vẫn không thấy bố Vy về qua nhà. Tin tức toàn những điều làm Vy băn khoăn đến mất ngủ. Có người quen nói rõ ràng với bà con anh em làm ở Nhà điện và Lò nung rằng bố Vy đã lấy vợ. Người mẹ kế này còn trẻ, làm nghề hàng xay hàng xáo ở Đông Triều, đã có con với bố Vy và nuôi hẳn bố Vy... Có người lại bảo bố Vy thất nghiệp, bỏ Uông Bí đi lang thang khắp nơi, lúc thì bán các thứ lá, rễ cây rừng làm thuốc, khi thì đi cắt tóc. Bố Vy ốm chẳng đủ ăn vì thế nên chẳng thiết về với bố, với các con lớn và chẳng dám thăm hỏi, tính chuyện cúng giỗ vợ! May sao nhờ có liên lạc với Xim, lâu nay thỉnh thoảng được đôi chữ của bố, nên anh em Vy mới yên tâm, đỡ đau khổ.
..."Hỡi đồng bào!
"Hai trăm triệu nhân dân Liên Xô và bốn trăm năm mươi triệu nhân dân Trung Quốc đang chiến đấu anh dũng, giết bọn phát xít xâm lược. Làn sóng cách mạng thế giới đã bắt đầu nổi dậy. Nhiều lớp sóng vĩ đại nữa sẽ dồn dập tới sau.
... "Cơ hội giải phóng của dân ta đã đến! Chúng ta hãy mau mau đoàn kết đặng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
..."Việc giải phóng của ta phải do ta làm lấy. Trông cậy vào đế quốc nào là tự bán mình cho đế quốc. Chỉ có dân tộc nào cùng ta chung mối thù, chẳng hạn như dân Cao Ly, dân Trung Quốc, mới là bạn đồng minh của chúng ta thôi.
"Hỡi đồng bào!
Nước Việt Nam không thể mất!
Giống Việt Nam không thể chết!
Cả Cam, Vy nhớn và Sơn đều thấy trống ngực đập dồn. Đây không phải chỉ là những dòng chữ, những tiếng đọc mà là những tia lửa, tia chớp và những tiếng rung chuyển vang dội ở trước mặt và trong trí tưởng của ba người. Sơn như thấy khắp nông thôn, thành thị, già trẻ gái trai kéo nhau đi, cờ trương trống giục và có những đợt, những lớp tiếng hát các bài cách mạng cất lên, Sơn cùng hát hòa theo... Cam thì liền nghĩ đến những cờ đỏ sẽ treo lên ở những thượng tầng, những nóc lò của nhà máy Xi măng, bằng chính tay Cam và Vy nhớn. Khi ấy tất cả các xưởng, các lò, các kho đều thuộc về tay công nhân chia nhau canh giữ với các thứ khí giới tự mình rèn đúc sắt thép lấy ngay ở chỗ mình làm. Còn Vy nhớn thì thấy bố sẽ về hẳn Hải Phòng hoạt động. Cả Vy nhớn và Vy em sẽ đi theo bố, được bố giao cho súng cướp được của Tây, của Nhật mà luyện tập và chiến đấu. Ba bố con sẽ đánh rất hăng, tấn công các đội quân lính của Nhật cũng như của Pháp, sau đó thì cùng về giữ nhà máy với Cam, với các bác Sấm, bác Tô đi tù về... Cam lại cũng nghĩ đến bác Sấm và các bác khác nữa. Thằng Côn em Cam sẽ được theo bác Sấm, bác Chấn, bác Lương cùng với anh chị em bà con làm ở Sáu Kho, Máy chỉ, Máy tơ nổi dậy chiếm lấy Hải Phòng!...
Và Cam lại nhẩm tính con số những quần chúng của mình, những thanh niên làm ở mấy nhà máy và học ở mấy trường to có cảm tình với cách mạng, đang tích cực hoạt động. Năm này, mười này, mười hai cậu này! Như thế có thể thành bốn tổ nữa, sẽ phân công cho Vy nhớn và Sơn phụ trách. Cộng với tổ của Cam là năm tổ. Mười lăm tổ viên. Rồi tiến tới Sơn và ba thanh niên sẽ được kết nạp vào Đảng. Rồi kinh qua đấu tranh, mỗi tổ sẽ phát triển thêm, vững mạnh hơn, nhất là lúc nổi cao trào khởi nghĩa. Kỳ tới đây thế nào Cam cũng phải gởi báo cáo này cho Dâng để Xim chuyển lên Tổ chức.
Gian miếu ở cuối bãi tha ma bên kia khu vườn nhà Sơn vẫn lách nhách, vù vù tiếng chim sẻ. Những thẻ hương đã tắt, hai cây nến đỏ thì chảy rữa ra, thằng La cũng định theo lệ như mọi đám bỏ lại nải chuối, nhưng thằng Nghĩa bảo làm vậy chỉ "cúng" ba thằng du côn gá bạc ở trong xóm, chứ chẳng Đức Ông, Đức Bà và trẻ con nào được ăn đâu, nên La lại để Nghĩa gói đem về cho nhà.
Mặt trời chiếu chếch qua nóc miếu, soi đúng vào gốc đại, làm bừng hẳn lên những vầng hoa đã vàng thắm đã ngọt lại càng vàng càng ngọt. Cả mặt đầm lăn tăn sáng rực. Cánh ruộng lúa chín vàng ối bốc lên những đám hơi như lửa. Trời xanh ngun ngút thêm với những đám mây trắng ngời.
... "Hỡi đồng bào!
Nước Việt Nam không thể mất!
Giống Việt Nam không thể chết!
Đất nước Việt Nam này do ông cha chúng ta đổ máu, dựng lên và truyền lại cho ta, chúng ta có bổn phận hy sinh mà giữ lấy và làm cho nó mỗi ngày một thêm tốt đẹp.
... Chúng ta hãy nhìn lại quá khứ vẻ vang của Tổ quốc mà tin ở tiền đồ rực rỡ của giống nòi...".
Bản Tuyên ngôn của Việt Minh đã đọc hết. Cam, Vy nhớn và Sơn lặng đi hồi lâu. Sơn giằng hẳn lấy tập tài liệu, cứ lật hết trang này sang trang khác, mắt kính loang loáng, loang loáng...
Cam vẫn phải luôn luôn đưa mắt nhìn bên ngoài xem xét, vừa sắp xếp những đề mục hướng dẫn cuộc thảo luận.
⚝ ✽ ⚝
Chiều hôm ấy thảo luận phần tài liệu chương trình hành động xong, Sơn đạp xe ngay về làng ngoài Đồ Sơn. Tuy đã hơn bảy giờ, trăng lên lâu rồi, nhưng ông ký Thái vẫn chờ ăn cơm với Sơn. Ông rất bằng lòng thấy Sơn ăn hết cả soạn cơm để phần hai bố con. Tức là ngoài ba bát thường lệ, Sơn còn xới thêm hơn bát nữa. Ông cũng bằng lòng thấy Sơn chỉ nằm chơi ngoài sân và đi dạo ngoài đồng chừng một giờ đồng hồ đoạn lại vào nhà, ngồi vào bàn học với ngọn đèn chao lụa màu xanh nhạt quen thuộc.
Sơn chép cả hai bản tài liệu của Cam đưa và hẹn trưa ngày kia phải hoàn lại. Cho dẫu Cam không hẹn, Sơn cũng phải chép gấp để đưa cho Vy nhớn. Sau đó Sơn phải nghiên cứu thêm rồi đi phổ biến cho một số học sinh của lớp và một số bạn tin cậy nhất của Sơn vẫn ở lại học trên Hải Phòng mà Sơn đang nhằm phát triển thành hai tổ.
Lúc trăng chiếu giữa trời, khu vườn và sân gạch trước phòng học của Sơn càng sáng, ù ù gió, những cây cối hoa lá, hòn giả sơn, bể nước mưa cùng các chậu cảnh cứ nhấp nhô, rung rinh cả lên, thì Sơn chép xong bản Tuyên ngôn.
Để vẫn giữ được tinh thần tỉnh táo, phấn hứng, và cũng để tự thưởng sau một ngày làm việc liên tiếp đầy những sự mới lạ, Sơn nhìn đồng hồ báo thức trên bàn, cho mình một thời hạn nghỉ hai mươi phút, sau đó sẽ chép tiếp tài liệu khác. Đây cũng là thói quen của Sơn trong những giờ học toán và triết.
Tiếng sáo lại bay tỏa lên, sang cả ấp An Sinh, ra cánh đồng và mặt sông, ra ngoài bãi bồi ven biển. Những dải mây trắng ngần, hồ thủy, cánh trả... ngời ngời, khi tan, khi tụ, lúc ẩn lúc hiện, bồng bềnh xô cuốn, như trở như bay theo tiếng sáo của Sơn nổi vút trên cái nền vi vu của không biết bao nhiêu sáo diều ở bãi trong, bãi ngoài, ở trên đê, hay giữa đồng đang gọi trăng gọi gió.
Không! Còn gọi cả biển nữa. Biển khơi xa đang sóng. Những ngọn sóng, những lớp sóng vang âm như muốn tung tiếng gọi mênh mông bát ngát của mình vào rừng núi, xóm làng, trời mây trong kia...
Bọn Thái Trang, Trần Văn đang hút thuốc phiện ở nhà Tú bên ấp An Sinh. Một gã chạy hàng cho Tú lay lay người Trần Văn:
- Các nghệ sĩ giang hồ ơi! Tiếng sáo, tiếng sáo! Nghe tiếng sáo kia kìa.
Thái Trang cau mày, xua xua, còn Trần Văn đặt nhẹ cánh tay ông bạn mới quen ra khỏi vai mình. Một lúc sau, Trần Văn è è giọng:
- Thái Trang nhỉ, trong thơ hay thì có quỷ, vậy trong nhạc hay thì có gì?
Vẻ mặt Thái Trang càng lạnh. Mấy người đã tưởng Thái Trang làm thinh vì khó chịu, nhưng rồi anh khẽ khẽ như chỉ để nói với mình:
- Có hồn! Có hồn!
Trần Văn ngồi nhổm dậy, xòe bàn tay vuốt ngược mái tóc bù xù, rồi vê mồi thuốc lào hút, vừa lập bập hỏi:
- Hồn gì? Hồn ai? Hồn nào?
Thái Trang càng trầm giọng:
- Hồn Ngàn xưa, hồn Đất nước, hồn Tình yêu, hồn Thơ và hồn Người... Tất cả viết bằng chữ hoa.
Trần Văn vái Thái Trang luôn ba vái và ôm lấy người Thái Trang:
- Tuyệt! Tuyệt! Em út này vẫn cứ phải xin lạy bằng anh và xin cắp roi theo hầu ngựa đại huynh mãi!...
... Trong giường, ông ký Thái phải buông hẳn quạt xuống, trở mình, để trông ra sân. Sơn đã bưng ghế vào nhà, lại ngồi vào bàn trước cây đèn dầu chao lụa màu xanh nhạt, chép phần Chương trình hành động.