← Quay lại trang sách

Thời Kì Đen Tối Chương 13

Chiều hôm nay, như thường lệ, ông ký Thái vẫn ôm cái cặp và đeo cây sáo nhỏ ra đi, thì có một người theo sau ông, dõi ông từng bước, từng cử chỉ, và có lúc vượt lên trước, lấm lét nhìn hẳn vào mặt ông, tuy y cố ý làm ra vẻ tự nhiên, nhưng bề trong thì không thể không run sợ.

Người đó gương mặt da xanh mướt, cặp mắt rất sáng, quần áo tuy xốc xếch nhưng không phải kiểu bừa bãi, cẩu thả. Còn gương mặt tuy hơi hốc hác nhưng cũng không phải là một thanh niên ốm yếu, hoặc ăn chơi trác táng, và tuy anh không giữ được vẻ bình thường thẳng thắn trước một người mà anh chú ý, nhưng vẫn không phải là kẻ có ý gian hiểm, cố nhiên, anh không phải là chỉ điểm, phụ mật thám hay mật thám mới tập sự được công sinh tìm hiểu, nghe ngóng, theo dõi ông ký Thái và bất kỳ ai đó quen thuộc với ông ký Thái, hay những kẻ khả nghi phát hiện trên quãng đường từ nhà ông ký Thái đến sở mật thám!

Ông ký Thái ơi! Chắc ông không thể biết được người kia đâu! Hay dù ông đã thấy hai lần người kia đến nhà ông, ngồi nói chuyện rất lâu với thằng Sơn của ông mà ông phải lẩm nhẩm làm sao nó lại có một người bạn lạ nhưng thân thiết, trân trọng, tin cậy như thế, thì giờ đây ông cũng không thể nào nhận ra được họ. Trừ phi thằng Sơn của ông sống lại, cái cặp của nó lại to phình những sách quý về toán, triết và kinh tế học, cái sáo của nó lại treo trên khung cửa bên bàn học, chiều chiều hay đêm khuya lại thổi lên réo rắt bay bổng, và lúc ông đi đây là ông đến sở Đờvanhxy với một bộ não còn ngăn nắp, tinh tường, chính xác hơn cả những máy tính và tủ két hiện đại nhất.

Thanh ở nhà xuống đến đầu đường Trại lính khố xanh thì gặp ông ký Thái.

Hôm nay và có thể cả ngày mai nữa, bên nhà Đào Xuân Hồng, Lê Thị Thảo Minh vẫn tiệc tùng đàn hát, bài bạc. Ông chú Lê Thị Thảo Minh khẩn khoản bảo Thanh cứ cho các cháu nghỉ học hẳn ba buổi và cứ tự nhiên sang đây "chơi" với ông, nhất là ngồi đánh tổ tôm với ông, nhưng Thanh cáo ốm và nói xin phép lên Hải Phòng để cụ lang xem mạch lại như đã hẹn. Giữa lúc khách đến đông. Hầu hết là những tai to mặt lớn ở trên tỉnh chạy loạn về và những người ở trong huyện đều đến. Họ hàng thân thuộc của những người quen, người chạy công việc đi theo bọn họ cũng có. Khách nhà ngoài, khách nhà trong, khách nhà trên, khách nhà dưới, khách của chủ, khách của con cháu chủ, khách của kẻ hầu hạ chủ... cứ nhộn nhịp như một đám hội.

Hoài Giang đang tiếc vì cả bọn Trần Văn không hiểu nghĩ ngợi thế nào, đã nhảy xe trốn lên tỉnh từ đêm qua, bỏ ngày sinh nhật này của Đào Xuân Hồng vừa mở tiệc vừa hát cô đầu, lại còn gọi mấy phường chèo về đóng đám thi nữa. Như thế không những bọn Hoài Giang chỉ ở đây mấy ngày mà còn chơi kéo dài với hết đám mời này sang đám mời khác, tha hồ ăn, hút và thưởng thức tất cả những gì là phong lưu đồng ruộng với đám hào lý giàu có nhất đây, họ trọng vọng những khách tài hoa văn thơ nếu có kém thì chỉ kém vua Đường Minh Hoàng chiều chuộng Lý Bạch thôi! Mặt Hoài Giang đã hay nhăn nhó, đăm chiêu tư lự lại càng làm ra vẻ uất hận bạn mình vô tình. Từ lúc uống trà với Thiết Phủ và Huyền Linh, tới lúc thấy cả cái cậu giáo dạy con cháu nhà là người cũng thích văn chương thời thế và rất ý tứ, trân trọng khi được ngồi tiếp bọn mình, cũng lại bỏ lên Hải Phòng nốt, thì Hoài Giang vội lẹp xẹp đôi dép dừa Nhật Bản, xúng xính bộ quần áo lụa nhuộm màu cà phê sữa, chạy theo ra gọi Thanh. Khi Thanh dừng lại, y đến bên, vỗ vỗ vai Thanh rồi ỉu xìu nét mặt:

- Cậu giáo không ở đây với các cháu được mấy hôm vì nhà có công việc, thì cố lưu lại ngày nay thôi. Dịp này mấy cụ cử, cụ tú bên sông sang chơi, cả mấy cụ đều là những thâm nho vừa cũng là những kẻ giang hồ lạc phách, đánh trống cô đầu và trống chèo nghe thật tuyệt vời! Còn hai phường chèo bên ấy nữa: đào Mai với kép Bảy già, đào Lụa Vân Hà với đào Lựu rỗ mà sắm các vai trong Lưu Bình Dương Lễ và Quan Âm Thị Kính thì thật cụp! Cậu giáo phải về Hải Phòng âu cũng là lỡ một dịp vui hiếm có đấy!...

Thiết Phủ đã chú ý đến Thanh, vì đánh hơi thấy Thanh có một cái gì khang khác trong đời sống tư tưởng và sinh hoạt hàng ngày, cách biệt hẳn với bọn thanh niên cùng trạc, bèn đặt tách cà phê pha đặc xuống, lập bập cái điếu tẩu ở góc miệng nói như truyền phán:

- Nhà mô phạm khắc khổ của chúng ta cũng phải để ra một thời gian giải trí chứ! Nhất là phải có một tham dự xã hội với quần chúng, thưởng thức và nghiên cứu những giá trị tinh thần và nghệ thuật đã phản ảnh tâm lý một xã hội, một chế độ chính trị ở như thế nào...

Thanh phải len lén lùi lũi đi lối cửa sau ra ngõ. Thấy bọn khách có đầy tớ bưng khay, bưng quả đựng câu đối và bánh mứt ồn ào đi qua, Thanh dẹp hẳn vào mép tường, nhường lối. Đến bến ôtô, Thanh càng bã người vì các chuyện trò bàn tán về những cung cách buôn bán một vốn bốn lời và sự phú quý hiển hách của những người đến ăn mừng ngày sinh của Đào Xuân Hồng thức thời và sang trọng nọ. Ôtô vẫn chưa chịu chạy. Khách đông lắm rồi. Tài xế và ét vẫn cứ díu lấy mấy ả hàng chuyến ở hàng phở to nhất bến xe, bên trong, có một bàn đèn thuốc phiện và một bàn chắn người nằm, ngồi, kề đùi sát cạnh nhau tưởng đến sập giường mất! Hiệu khách bán thuốc bắc và tạp hóa ở cách đấy mấy nhà thì có những hai bàn đèn, khách hút là lão thừa phái về hưu, hai ông phó lý và mấy người chạy việc trên huyện. Hàng lòng lợn tiết canh ở cuối dãy cũng có bàn đèn, bàn tổ tôm và bọn lính lệ, phu tuần và các lái lợn, lái gà. Hai hàng xén và hàng mã ở đầu bến ôtô lại bày la liệt thêm các cỗ mũ áo và những dép, những chồng tiền giấy, vàng giấy. Người mua phần đông là những người đến đây đi tảo mộ tháng ba, hoặc bán gạo bán gà bán đậu xong thì mới có tiền mua hàng, hay mua chịu rồi đem gạo, gà, rau, đậu bán trừ... Sau hơn nửa giờ ngồi ôtô đến nhà, gội đầu thay quần áo và ăn bữa cơm rau dưa với mẹ, với em gái xong, Thanh ngủ một giấc tuy ngắn nhưng rất khoan khoái, Thanh thức giấc vì quên cả khép cửa sổ, thấy trưa ùa vào như đàn ong với tiếng chim hót như rao hàng, như rung chuông, rung nhạc trên những cây xoan, cây bưởi đang ra hoa ở vườn hàng xóm. Một thứ khói sương hồng hồng ngào ngạt của tháng ba đang rải trời.

Nhưng làn khói sương ấy càng rực lên thì đường phố càng xào xạc vắng vẻ. Tuy vào ngày lễ nghỉ nhưng cả mấy khu buôn bán to nhất này cũng chỉ dăm hiệu mở cửa và không đủ mặt hàng, còn đều nửa khép nửa mở, sắp dọn gọn gàng đề phòng báo động và chạy loạn. Đầu đường này một đám xe cao su xe ba gác; đầu đường kia mấy bọn phu khuân vác ngồi chầu hẫu chung quanh những chõng hàng nước; đảo đi đảo lại, mấy hàng bán rong rau đậu và quà bánh mời chào ríu rít những người hàng phố quen thuộc. Và tất cả những người hàng phố quen thuộc gan lỳ ấy đều ngồi như bụt ốc sau những tủ kính, quầy hàng, chẳng buồn nói năng, chuyện trò, nhất là để ý và bàn tán về sự đi lại của ông ký Thái nhà ta.

Càng nhìn ông ký Thái và quang cảnh đường phố, Thanh càng thấy như có một tảng băng giá tuốt lấy cân não Thanh. Biết vậy Thanh cứ ở nhà, lấy sách đọc hay đi mấy nhà hàng xóm chuyện lại hóa hay. Trốn được sự nung nấu ngột ngạt ở nhà Lê Thị Thảo Minh thì lại trở về với những day dứt bấy lâu. Không phải chiều nay Thanh mới gặp ông ký Thái. Từ ngày được tin Sơn chết, Thanh đã có ý định về thăm ông. Nhưng nghĩ kỹ, Thanh lại e ngại bị sở mật thám chú ý. Tết năm nay, Thanh không còn việc gì làm ở Hà Nội nữa phải về ở hẳn Hải Phòng dạy học bọn con cháu Lê Thị Thảo Minh, nhiều dịp Thanh gặp ông ký Thái ở ngay vườn bên cạnh, hay cùng đi ra bến ôtô, mà Thanh cũng chỉ chào hỏi qua... Rồi khi ông ký Thái ngước cái trán nhăn nheo mốc mác, lờ ngờ đôi con mắt gần như vô giác nhìn Thanh, rồi cúi xuống lẩm bẩm tiếp tục một câu chuyện gì, thì Thanh có cảm giác đúng là tim mình bị bóp chặt...

Sơn ơi! Không biết tập Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô (B) và quyển Văn hóa và quần chúng, Chấn bảo mình đọc rồi mình lấy ở đại lý báo Đời nay đưa cho cậu, cậu còn giữ được không hay cũng theo cậu vào sở mật thám, bị đốt, bị xé cả rồi? Sơn ơi! Thế ra sau này cậu lại sinh hoạt với thằng Cam à? Vậy cậu có biết thằng Kiều tằng tịu với chị thằng Cam nó đã quay không? Hoặc giả cậu và thằng Cam bị bắt vì bị thằng Kiều mai phục hay vì cớ khác? Trong đám các cậu có còn ai bị bắt thêm không? Sơn ơi sao mà tao nhớ cái mái tóc bò liếm, cái gương mặt trái xoan, cái môi mim mím, cái mày chau chau, cái vẻ ít nói chín chắn và cái cười rất mến của mày thế! Lại còn tiếng sáo của mày nữa Sơn ơi!

Đúng là Thanh như cuồng. Thanh cuồng lên nhưng Thanh không thét, không chạy mà từ từ lùi bước lại sau ông ký Thái, cúi mặt xuống cắn môi nuốt nghẹn trong cổ họng. Buổi chiều hôm Sơn và ông ký Thái gặp nhau lần cuối cùng, Thanh cũng gặp ông ký Thái đi từ nhà qua quãng đường này. Rồi chính Thanh đã nghe tiếng kêu tiếng rú ầm ầm cả sở mật thám, nhưng Thanh chỉ được đứng xa ở ngoài cổng Sáu Kho mà trông và cố đoán ra cảnh tượng một tù chính trị, một học sinh làm chính trị, nhảy từ tầng ba đâm đầu xuống đường tự tử. Tối về nhà, cả đêm Thanh cũng như bị tra tấn. Tin đồn từ sở mật thám đi các phố và các xóm thợ rõ từng chi tiết. Con trai út của ông ký Thái đầu bàn giấy sở Đờvanhxy cùng bị bắt với Cam đã "làm việc" này. Khi đổ xô ra cửa sổ trông, ông ký Thái cũng định nhảy theo nhưng không hiểu sao ông lại khuỵ người xuống, ngã dụi vào chân tường, hai tay ôm lấy đầu, mắt ngơ ngác - mở trừng trừng, tuy vậy, lúc mấy tên adăng ta dìu ông ra xe, cho ông về nhà, ông lại biết còn cái sáo của Sơn. Ông đã cúi xuống hít hít từ trán, mũi, cổ, tới bàn tay, bàn chân, vạt áo, ống quần Sơn, và đã ấp ngay ống sáo của Sơn vào ngực, nói bằng tiếng Pháp, xin với Tây cậu cho được phép mang về với cái quần đùi cái sơ mi rách bươm Sơn thay trước khi mặc bộ quần áo mới giặt là của nhà gởi cho để lên buồng tra vấn...

Tất cả mọi người đều bảo khúc sáo mà người con ông ký Thái, cái anh học giỏi toán nhất trường Sông Lấp, thổi là bài hát cộng sản, là Quốc tế ca. Người ta còn nói rất rõ rằng cả Tây cậu, cẩm Mặt đỏ, cẩm Môê đã xúm nhau thít lấy cổ Sơn, đấm vào mặt Sơn, nhưng Sơn vẫn giữ lấy sáo và thổi vút lên,

Tiếng sáo cuối cùng ấy, Thanh chỉ tưởng tượng và đoán biết ra thôi, cùng với những tiếng sáo man mác những điệu xa xưa Thanh được nghe trước đây ba năm, khiến mỗi lần nhớ tới Hải Phòng và những bạn trẻ của tuổi xanh của mình thì Thanh lại náo nức và cũng quặn thắt cả người...

⚝ ✽ ⚝

Đến đầu đường Cầu Đất, khi ông ký Thái vẫn đi thẳng đến sở Đờvanhxy rồi tạt lên sở Mật thám để vòng qua trường học ngày còn bé của Sơn rồi trở về nhà như thường lệ, thì Thanh cũng theo thói quen, trước của mình xuôi theo đường Sông Lấp.

Đây, cái vườn hoa bây giờ đã thành bến ôtô, bao quanh có những gian nhà bán bánh kẹo, cà phê, nước chanh đá và mở hàng thợ may, cắt tóc, nhưng bên cạnh đó vẫn y nguyên khoảng đất khô lại toàn một giống núc nác tây. Phải! Vẫn cái vườn hoa Đưa người ấy. Các đàn bà, con gái, đàn ông, trẻ con, nhà quê cũng có, thành phố cũng có, đang đói rách, ai gọi làm gì cũng làm ngay, chẳng cần biết bom đạn, tàu bay, và chẳng còn thể chạy đi đâu hết, vẫn cứ túm năm tụm ba, nằm ngổn ngang và có kẻ gần hấp hối, đắp chiếu kín ở ngay bờ đường, miệng cống và đống rác...

Qua một mặt đường là qua bờ con sông cụt. Nước chưa lên, lòng sông bùn đen nhờn, trơ trật lởm chởm đủ các thứ thối nát lưu cữu của thuyền, đò, sà lan, thùng phuy, mảnh vại, bao tải, chai, bát và các thứ rác của các cống trong phố tháo ra. Suốt dãy lán gỗ, lán củi, lán gạch ngói, lán than đều bỏ hoang, vơ vất mấy bóng người không hiểu còn cố tìm kiếm bòn nhặt gì.

Và đây cái ngõ hai ria lát đá tảng đi vào khu biệt thự Bờ Biển Xanh của vợ chồng Thy San. Đầu ngõ, trong ngõ, trống hoang, chẳng có hàng nước hàng quà và phu phen nào tụ tập cả. Không như dạo Thanh mới ra Hải Phòng lang thang tìm việc, cứ hễ đến đây thì tưởng như lại gặp chiếc ôtô bóng lộng hoặc mình Giáng Hương, hoặc mình Huệ Chi ngồi trong đó vút ra, làm Thanh luống cuống gần như không biết tránh né thế nào, đứng nép vào đâu. Cũng không như mấy lần trước đi vào đây, sau khi tấn bi kịch xảy ra Giáng Hương thì chồng bắn chết, Thy San thì thắt cổ tự tử trong đề lao, Thanh đã không thể nào không bùi ngùi tê tái vì bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu suy nghĩ.

- Ừ thì ta cứ tạt qua đây xem sao, rồi sang nhà bên kia cũng được mà! Thanh nói thõng và cười nhếch mép.

Cái cổng sắt biệt thự vẫn chằng một xích sắt với cái khóa đồng quá khổ chỉ thấy ở những cổng nhà băng hay các kho hàng quý giá. Tất cả cửa trên gác dưới nhà vẫn đóng kín. Chỉ có hai cánh cửa sổ gian bếp Kình ở là mở, nhưng cũng không thấy tiếng động gì cả. Chợt Thanh thấy có bóng người đi ra lối cổng sau và tiếng dặn dò ồm ồm theo sau. Dâng và bếp Kình. Dâng xách một làn mây to và đẹp, tươi cười chào bếp Kình. Bếp Kình đúng là đang say mèm:

- Thế nào cô mày cũng phải nhớ đưa lên cho tớ hai chai mà là hai chai lít đằng lồi chôn đựng rượu vang, hay chai cổ dụt vẫn đựng giấm ấy nhé, và có thật nước trong và tăm hạt trai thì hẵng lấy. Rồi cuối năm nay hay sang năm, tớ làm thợ cỗ, tớ nấu rượu và tiếp hộ khách trong quê ra cưới cô mày!

Dâng chỉ bẽn lẽn "vâng ạ" rồi men mén bên tường đi lối ngõ ra mặt đường đằng kia.

- Dâng vẫn có việc đi lại ở cái nhà ma này à? Dâng lên phố rồi về ngay dưới Đồ Sơn hay ở lại? Huệ Chi có lên với Dâng không?

Một ý nghĩ ngờ ngợ khác chen ngay đến:

- Lão Kình nói đúng cũng nên. Cuối năm nay hay sang năm thì Dâng có chồng đấy.

Thanh nhìn theo Dâng. Cái vóc người bé nhỏ gầy yếu lâu nay đã thon lẳn. Cái dáng đi đã chao đưa, óng ả. Đôi mắt đứng trước người lạ - cả trước mặt Thanh cũng vậy - vẫn cúi cúi, nhưng khi ngước lên thì vành mi chớp chớp long lanh. Nhiều giây phút, cặp lông mày không tỉa rướn cao hẳn khiến vẻ mặt tuy vẫn ngây thơ nhưng đã có sự suy nghĩ và chủ động. Và cái nét buồn buồn vẫn còn nhiều chịu đựng, nhưng không âm thầm tủi tủi như trước.

Dâng đã đi khỏi lúc lâu.

Thanh vẫn thấy rõ Dâng. Dâng đứng phả hơi thở bên người Thanh. Không phấn sáp nước hoa, cái thân thể quần thâm áo vải lành sạch và mái tóc giấu rất khéo mùi nước gội và hoa ngọc lan vấn lẳn, chít khăn vuông ba ga, lại như muốn nấn ná với Thanh và nghe Thanh nói nhiều hơn mình nói.

Lần gặp dạo mùa hè năm ngoái ở gian nhà cũ của Dâng nay có gia đình cô bạn làm đồ thêu cho xưởng Lê Thị Thảo Minh mới dọn đến, và lần mười rằm tháng giêng năm nay ở nhà Thanh, buổi nào cũng vậy, cứ sau khi Dâng ra về thì Thanh lại tiếc không chuyện nhiều chuyện lâu với Dâng. Nhất là đi với Dâng, đưa chân một quãng đường, qua làng dưới hay tắt qua ruộng sang hồ làng An Đà bên kia. Và Thanh lại tiếc không tìm thêm sách cho Dâng đọc. Dâng đã biết đọc biết viết. Dâng có chăm tập viết không mà chữ Dâng rất đẹp! Tập ca dao hay những chuyện Quan Âm Thị Kính, Tống Trân Cúc Hoa, Lục Vân Tiên thì hợp với cô em gái hiền hậu quê mùa này biết mấy!

- Thế còn mày thì bây giờ mày có những sách gì và nên đọc những sách gì cho hợp?!

Câu hỏi ấy nghiến vào tâm trí Thanh. Thanh đứng sững lại suýt vập mặt phải một cột đèn ở bờ hè. Đã rẽ ra con đường sau xưởng Carông, Nhà thương và đề lao, sát đến bức tường của cái xưởng máy này. Thanh mới nghe thấy những tiếng rì rì kẽo kẹt của mấy cỗ máy cổ lỗ không hiểu hôm nay có công việc khẩn cấp gì của Nhật giao cho mà thợ vẫn phải đi làm thế? Cảnh tồi tàn xập xệ càng nổi rõ hơn ở trước cái miếu Bà Chúa ngục. Miếu xây xế cổng đề lao, trông thẳng đến cửa nhà thương, tấp nập náo nhiệt một cách lạ. Những tiếng chập choeng đàn phách chầu văn, cúng lễ, truyền phán, chuyện trò, cười nói ồn ào cả đầu đường. Trong đề lao thì như ri. Có lẽ ở bốn trại giam, tội nhân đang chuẩn bị ra sân và đón cái bữa ăn mà mùi cá mắm nướng đã bốc vừa khét vừa tanh mù ra cả ngoài đường...

Thanh phải rảo bước. Thanh vừa đi khỏi cái cầu sắt xộc xệch để sang phố chợ bên kia, chợt thấy chờn chợn. Mấy lán củi, lán than ở hai đầu cầu đều rào rấp rất kỹ nhưng vẫn bị phá vỡ, tan hoang thêm. Suốt hai bên đường trông ra phố chính thì chẳng thấy hàng quán người đi lại nào cả. Còn mấy nhà Hoa kiều cửa nửa đóng nửa khép vẫn có người nhưng đó là mấy người già ốm yếu, hoặc mù đang sưởi nắng, lần mần bắt rận, gãi, và rê rê những quần áo chăn chiếu cũ rách. Nhìn lên trời, Thanh càng có cảm giác màu xanh và ánh nắng như đang âm âm chờ đợi một sự rùng chuyển nổ vỡ. Trong khi ấy ở ngã tư, đúng là mấy người kéo xe đang rỏng hết cả tai mắt chờ xem khách gọi, nhưng bốn phía cứ vắng ngắt...

Thanh ra ngã tư.

Những dẫy nhà chồng chất bốn năm tầng, không hiểu có bao nhiêu gian, bao nhiêu chủ, bao nhiêu người và có bao giờ được quét vôi hay sửa chữa không, và những buồng nhỏ chắp nối thêm bằng các thứ gỗ, thứ ván, thứ phên, thứ tôn bị bom tháng trước đây, nay cũng bừa bãi lỏng chỏng vì các người phá trộm lấy đồ, lấy ván, lấy củi.

Dưới chân những tầng gác ấy là những đống gạch ngói, sắt và mảng bê tông, đè giập lên những gian nhà làm bên các cống rãnh chuồng xí, và ria tường chung quanh. Không hiểu bao nhiêu gia đình với bao nhiêu sinh mạng đã sống trong những ô, những ngăn đó có còn không và còn lại được bao nhiêu người và nay ở đâu? Thanh lại không dám nhìn kỹ nữa những mảnh vải mảnh quần áo bị đốt cháy bị tung xé còn mắc vào những bờ tường, những cột sắt, những gốc cây bị chém cụt và những khám thờ, bàn thờ đã cũ đã mọt, dán các thứ giấy màu đỏ, màu xanh xỉn bị đốt cháy còn sót lại, với những bài vị, thần chủ và những bát hương vỡ nát, tro than tung tóe.

Cả một khu chen chúc nhất trong dẫy phố đông người nhất này không có một hầm, một hố trú ẩn nào cả. Nhưng những nhà, những hiệu vàng, hiệu thuốc bắc và kho hàng ở hai đầu phố và trước đường lớn thì kiên cố một cách ghê gớm, sau những lần cửa ngoài bằng rào sắt và những hàng cửa gỗ lim bên trong. Thanh quay nhìn hiệu Vạn Bảo. Cửa nhà này mọi khi phải có cút lít gác để giữ những người cầm đồ và những kẻ túng đói khỏi "làm loạn" thành phố, cũng đóng rất chặt. Thì ra đây chỉ làm việc buổi sáng và chỉ phát vé lốt có hạn, cầm đồ từ 6 đến 9 giờ. Nhưng ở mé đường bờ hè vẫn có mấy đám người nằm ngồi la liệt, trông ai nấy đều xanh xao buồn bã, cứ như sắp rũ sắp thỉu đi...

Mặt trời vẫn chói rực.

- "Chết! Mới có 3 giờ thôi! Ở trên Hà Nội hơn 3 giờ còn bị ném bom nữa là Hải Phòng liền ngay bờ biển".

Nhưng Thanh vẫn đi thong thả qua đây ra đường bến tàu Quảng Đông. Từ cái trận cả tàu thủy đường sông Nam Định cũng bị bắn phá, thì đỗ bến này chỉ còn lèo tèo mấy sà lan, boọc và thuyền chở hàng. Nhưng người ở chẳng ai chịu đi đâu. Vẫn đủ cả những mái, những túp, những thứ "nhà nổi", mái và tường ghép bằng bất cứ thứ gì có thể ghép được dựng trên những cọc sắt, gỗ, xi măng bám lấy hai bên bờ. Dân cư là những người ta và Hoa kiều họ không phải chỉ sống nghề sông nước mà còn bằng các nghề khác trên phố, trên chợ...

Nhà Trần Văn hoàn toàn bằng gỗ. Nó như hai ngăn boong tàu. Nền boong dưới là mặt kè xi măng bị sập gãy còn lại một khúc nhô trên miệng cống to chảy ra sông. Cũng kê cả giường tây và bộ ghế gọi là kiểu sa lông nhưng vừa hẹp vừa lùn tịt đã có chỗ tay vịn và tựa lưng phải chằng buộc dây đồng. Tầng boong trên, nền trải chiếu, nếu một người cao lớn đứng lên sẽ chạm đầu.

Cửa sổ mở bốn phía. Khung cửa nào không có những gáo dừa, quả dừa trồng hoa leo, thì lại có những dò lan những gióng trúc trồng cỏ. Gian dưới có lẽ là chỗ tiếp khách và đi về của ông chú. Còn gác trên mới là Linh hương các hay Tháp ngà của Trần Văn, bởi vì tất cả những thứ bày biện đều hình như không giống của ai hết! Trần Văn thò đầu ra cửa sổ lại "ới" một tiếng rồi cười huế huế đón Thanh. Thanh lại giơ tay nắm lấy tay Trần Văn lấy gân như kiểu người chơi xà ngang, trèo lên hai bậc sắt đóng vào tường gỗ để lên gác. Thanh lại bỡ ngỡ, hồi hộp nhìn mọi vật chung quanh.

- Hừ! Ta phải cho ngay tên Thanh xem một kỳ diệu này!... Huế huế...

Trần Văn vuốt ngược món tóc gọng kính lên, vẫy vẫy rung rung ngón tay như làm phù chú, nhích nhích người đến cái bàn đã tróc sơn kê ở xó cửa, kéo rất nhẹ một miếng lụa vân Hà Đông, từ từ nhấc lên. Đó là một gộc sắn còn bám đất, rễ mấu lờm xờm, đặt trong một đĩa sành to men xanh rạn. Trần Văn suýt soa xoay xoay cái gộc sắn, giơ lên, hạ xuống và đưa ra hẳn ngoài cửa và ánh nắng.

- Giống như một đại bàng hồi tiền sử! Không! Giống như cây đa che bóng cho Thạch Sanh của một họa sĩ táo bạo tạo hình. Không! Còn giống một tiên nữ đang múa cùng Tôn Ngộ Không! Không giống cả Trương Chi cùng chèo thuyền đêm đông! À à... huế... huế. Như cả thần Néptuyn xuất hiện...

Trần Văn gượng nhẹ đặt cái gộc sắn xuống đĩa, rồi với chiếc đàn ghi ta trên mặt dán một hình đầu lâu nằm giữa một trái tim, phía trên là một ngọn cổ tháp hình búp sen vẽ rất lằng nhằng phải đoán kỹ mới hiểu nổi.

- Nghe nhớ! Hãy tạo mấy phút trong lặng để nghe mấy nét nhạc của mình vừa ghi được đêm qua viết theo một bài thơ...

... Ơi! Đại dương ngàn xưa ta nghe ru

Ơi! Đại dương ngàn sau ta nghe ca

Hồn Mẹ tuyệt vời mây bay mùa thu

Hương lúa tuyệt vời trong sữa mẹ Ngân sa

Đại dương ơi! Đại dương võng đưa đời ta...

Hai cánh tóc của Trần Văn sã hẳn xuống, cái đầu ấp lấy cây đàn, gương mặt xanh xao hốc hác tê lặng. Trần Văn như vừa tự vắt cạn người mình khi buông tay khỏi phím đàn. Cùng lúc, tất cả những gộc tre, gốc cây, mảnh sành, gạch rêu, tượng cụt, thành giá gỗ mốc meo và chân nến, đỉnh trầm han gỉ ở chung quanh chiếu ngồi và ở các xó xỉnh mái nhà góc nhà, cũng như tê lặng và lim dim mắt nhìn Trần Văn.

Mặc dầu Thanh là đạo gốc,... mặc dầu suốt tuổi thơ ấu Thanh đã theo bà ngoại và theo mẹ hàng ngày không đi lễ thì đi chầu, đọc kinh buổi tối khuya và sáng sớm ở nhà... mặc dầu Thanh đã được biết nhiều nhà thờ xa lạ và nhiều ban thờ của nhiều gia đình đặc biệt,... mặc dầu Thanh đã chung đụng với nhiều con chiên thuộc lớp người cùng cực nhất... nhưng chưa bao giờ Thanh thấy một dáng chịu nạn, một vẻ chịu nạn, một hình thù chịu nạn như Trần Văn lúc này!... Chịu nạn trong một phút say sưa mê ly tuyệt thú tuyệt vời!

Huế huế... Trần Văn lại cất tiếng cười rất hồn nhiên, tựa cây đàn vào mép bàn, vẫy vẫy ngón tay, gương mặt sáng hẳn lên, tươi vô cùng:

- Thanh này! Thanh này! Mình bắt được rồi! Mình bắt nhập được rồi! Mình làm lại bài thơ và phải viết ngay bản nhạc này chỉ trong đêm nay không thì đến sáng ngày mai thôi. Tên trước là Hồn đại dương, mình thêm và thay là Hồn Mẹ Biển Đông. Hồn Mẹ Biển Đông ru ta! a ha! a ha!...

Trần Văn quài tay rút bao hương cài trên một bức tranh, lấy ba thẻ, đánh diêm châm, cắm vào cái bát sành trên bàn viết.

- Này! Này mình còn nửa chai rượu Thanh Mai đấy. À... còn cả ống cân gạo tám đong chịu được sáng ngày nhưng trưa nay gặp hàng có ngô mới bẻ luộc, mình ăn đến no, bỏ cả thổi cơm. Hì hì hì... mẹ bố các chú chuột: gạo tám xoan thế này thì lại không vầy không sục ăn, mà cứ đi cắn các bản thảo và tranh của ta...! Thanh nhá! Thanh nhá! Cậu ở đây mình thổi ăn cơm chiều với mình thôi! Huế huế... đểu quá...! Đểu thật!... Thôi thế là các ông chuột nhà tôi đả đúng vào cuốn lý luận Nhân loại tiến hóa luận của ông Thiết Phủ của chúng ta... Ôi ối bỏ mẹ chưa! bỏ mẹ chưa! Lại cả cuốn triết học Thần linh và duy vật, cuốn Hiến pháp và đại chúng của ngài luật gia chủ bút tạp chí Công lý nữa!

Thanh biết tiếng Trần Văn từ lâu, nhưng được gặp thì mới hơn ba tháng nay. Lần ngồi chuyện lâu với nhau thế này là lần thứ ba. Bố Trần Văn trước đi lính kèn, đóng được lon bếp. Ông vốn giỏi cả đàn bầu nên khi bị mù về hưu còn dạy thêm đàn bầu kiếm tiền nuôi vợ con. Năm Trần Văn vừa đầy tuổi tôi, bố chết, mẹ đi bước nữa, ông chú đón về nuôi. Lớn lên Trần Văn chuyên học và tập cả vẽ, làm thơ và sống bằng mài tranh cho mấy họa sĩ sơn mài trên Hà Nội. Tất cả những cảm nghĩ về cái điệu sống của Trần Văn mà Thanh nghe đồn nghe tả trước đây, không phải đến giờ Thanh mới xóa bỏ, mà rất lạ, ngay buổi đầu tiên gặp bọn Thái Trang, Thiết Phủ v.v... ở nhà Hoài Giang, Thanh đã ngạc nhiên vì thấy Trần Văn ở trước mặt mình không những không đến nỗi quái dị, nhố nhăng mà lại còn chân thật và rất tốt. Nếu như được làm bạn với Trần Văn, thì Thanh sẽ rất mến Trần Văn, rất quý Trần Văn. Tài hoa của Trần Văn đến mức nào, Thanh không cần đánh giá, nhưng sự cởi mở và cách đối đãi của Trần Văn với những người đến với mình chưa thân lắm, Trần Văn cũng rất trân trọng, chơi hết mình, duy điểm đó cũng đủ quý vô cùng!...

"Nghệ sĩ mà lại khác với đời kiểu như thế ư?! Nghệ sĩ cũng có tiếng tăm mà tính nết và cách giao thiệp như thế ư?! Hay vì còn trẻ, vì cũng nghèo, cũng bị học hành dở dang, và cũng lăn lộn ở nhiều nơi nhiều cảnh nên mới như thế?!"

Nước sông đã lên. Nắng to. Gió tung thêm những làn bụi nắng từ đầu đường đến. Sóng vỗ tung tóe lên quá hè. Mặt sông phăm phăm, ràn rạt, chói lòa những tiếng rung vang của các thứ dây thép, dây đồng, thủy tinh, đồ gốm và tôn sắt bị rung động làm thành nền cho gió thổi, sóng reo. Khúc sông Cấm ngoài kia không còn tàu to, thuyền lớn gì cả. Đỉnh trời với những dải mây và rặng núi Yên Tử mở ra thêm bát ngát. Nhà máy Xi măng chỉ còn chạy một lò, trên ngọn ống khói, từng sợi khói như bị nghẹn, nhả ra rất chậm và nhiều lần nhòa hẳn trong mây, trong nắng khiến cho cái im lặng của ba ống khói sừng sững lầm lẫm gần đấy càng giống như ở một trận địa những nòng pháo khổng lồ đang xếp hàng chờ lệnh.

Ấp đầu vào cây đàn, gương mặt Trần Văn càng nổi gân và hừng hừng vì dồn máu. Mắt anh thoạt nhìn có vẻ lờ đờ, nhưng sau quắm lại và sáng rực.

... Biển Đông! Biển Đông ơi biển Đông võng đưa đời ta...

Cung đàn chợt ngân lên như tan như xé.

- Giời ơi! Hải Phòng lầm than đau khổ sao mà yêu thế này?! Và sao mà lại càng phải nhớ thằng Trần Vũ Sơn thế này?

- Anh Trần Văn định viết bản nhạc này tặng Sơn?

Trần Văn đau đáu nét mặt, lặng lẽ lúc lâu:

- Nhạc của tôi cũng như thơ của tôi xứng đáng làm sao để tặng thằng Sơn!...

Trần Văn xòe bàn tay bóp bóp trán:

- Nhưng rồi đây còn đời tôi, tôi phải có và thế nào cũng phải có một bản nhạc để tặng nó.

- Và tặng cả Hải Phòng nữa chứ! Thanh vội tiếp.

- Phải, với cả Hải Phòng nữa! Không thể nào không được! Không thể nào không tặng Hải Phòng được! - Trần Văn lắc lắc đầu: Không thì tôi là một thằng vô dụng, một thằng tồi, một thằng hèn hạ bội bạc. Không thì tôi chết!

Thanh muốn ôm lấy Trần Văn. Mãi sau Thanh mới cất được tiếng và càng không thể nén được nghẹn ngào:

- Chiều mai Trần Văn cho tôi nghe bản Ơi Biển Đông Mẹ ru ta chứ?

Trần Văn trìu mến nhìn Thanh:

- Xin lỗi cậu, chiều mai mình đi Đông Triều, mình đã hẹn...

- Anh và Thái Trang đi chơi núi Yên Tử.

- Không! Mình vào chùa Bạch Vân thăm Thái Trang và sư cụ ở đấy! Mình đọc lời nhạc cho Thái Trang nghe đã...

- Bao giờ Thái Trang và anh về Hải Phòng và có dịp xuống Đồ Sơn?

- Mình sẽ ở đây mấy hôm thôi! Nhưng còn Thái Trang không biết thế nào! Nghe nói nó định bỏ Hải Phòng để lên ở một thời gian với sư cụ. Nó không tu nhưng sẽ học chữ nho và nghiên cứu kinh phật đồng thời cả mấy học thuyết chính trị nữa. Còn xuống Đồ Sơn ở những nhà Đào Xuân Hồng và thằng Tú Mông nhà Đức Sinh với bọn Hoài Giang thì thật là ớn! Ớn quá rồi. Bỏ mẹ! bỏ mẹ! (Trần Văn lại cười huế huế, vuốt vuốt hai cánh tóc lên) bộ quần áo rét Thái Trang gởi mình đi cầm được có ba đồng thì làm sao đủ nó mua rượu... mà ngâm cứu các thứ vấn đề cao siêu nọ ở chân núi Yên Tử hàng tháng, không!, chỉ nửa tháng, nửa tháng thôi!!!

⚝ ✽ ⚝

Thanh mượn lại Trần Văn tập những truyện ngắn của Goócki. Trần Văn cũng mượn lại của người cháu viên trông coi thư viện. Cả Trần Văn và Thanh đều không phải là sinh viên, hay đóng thuế thân hữu sản, hay có năm đồng ký quỹ, nên phải nhờ cậy như thế. Còn một lẽ nữa, mượn riêng để có thể đọc lâu mà không bị chú ý! Thanh đi khỏi đầu cầu Hạ Lý đến cái vườn hoa đặt tên một viên quan cai trị - Mácti - nhưng dân Hải Phòng cứ gọi là vườn hoa Dái ngựa hay vườn hoa bến tàu Tây điếc, vì khu vườn mở trước bến tàu thủy của lão chủ người Pháp bị điếc!

Mặc dầu đã ngồi và đã nằm gần một buổi chiều với Trần Văn, nhưng Thanh vẫn cứ vào vườn hoa, nghỉ lại trên một cái ghế chỉ còn mấy thanh gỗ mà trông ra cửa sông ngoài bến tàu to Sáu Kho. Thế là Thanh lại đi về đúng những quãng và ngồi nghỉ ở cái độ đường năm xưa khi Thanh bỏ quê hương ra Hải Phòng tìm việc làm ăn. Cũng như trước mặt Thanh vẫn chạy dài những bến bãi cầu kè với những nhà máy chỉ, máy cống, cốt phát, xi măng và những kho hàng, những tràn phu, trước đây đã làm Thanh náo nức vì sự nhộn nhịp, sầm uất, và chỉ mong sao được vào đây làm bất kỳ công việc gì, lương trả thấp đến đâu cũng nhận.

Cảnh vắng lặng lại càng hoang tàn hơn vì nhiều nhà máy đóng cửa hẳn, mà chuyển sang công việc khác vẫn có lãi, và chẳng phải dây với sự nguy hiểm bom đạn chiến tranh. Không khí lại càng dữ dội, đe dọa thêm dưới trời chiều cuối xuân sang hè nắng quái. Vơ vất hai bên đường trước các khu nhà máy và hai bên bờ cửa sông, vẫn còn những người cặm cụi, lúi húi. Phần đông là đàn bà, người già. Họ đương bòn nhặt ở những bãi than xỉ, sắt vụn, rác, các đống nhà cửa đổ nát, không còn ai ngăn giữ, và họ chẳng phải tranh nhau như trước kia. Có mấy bóng người ngồi trên miệng cống, ở những chân tường, những bực đá, chẳng thấy buồn nhúc nhắc gì cả.

Mượn được quyển truyện quý và qua bao nhiêu phút dạt dào, Thanh đã tưởng ngốn ngay được hàng chục trang sách, nhưng đi đường, Thanh càng tập trung thì càng thấy chẳng chịu đọng vào tâm trí Thanh một dòng chữ nào cả!

- Thôi để đến khuya hay sáng sớm mai thôi!

Thanh gấp sách lại, rảo bước.

Khi Thanh về đến nhà, mẹ Thanh đang đọc kinh còn cái Ngơ đang xay bột để quấy bánh đúc ăn chiều nay. Thanh chưa kịp cởi dép, đã nghe tiếng Ngơ líu ríu:

- Anh Thanh em đã về rồi đấy! Chị Thơm có đi dạy tối về phải sang em ăn bánh nhá, em để phần chị đấy!

Thanh phải đứng ngay dậy đón cô bạn của Dâng lâu nay đã thành bạn của cả Thanh và rất thân với cái em Ngơ. Thơm không những mặc áo len mà còn trùm khăn. Người Thơm đã béo lùn, mặt to và lấm tấm tàn nhang lại đỏ hừng, đi cứ như chạy, trông càng vất vả. Thơm không dám chào to vì sợ mẹ Thanh chia lòng chia trí, và bà đã phải ngồi trong màn giường trong. Thơm cố giữ cho khỏi run và được tự nhiên:

- Anh Thanh về như thế nghỉ cả ngày mai, ngày kia mới xuống Đồ Sơn nhỉ?

- Không! Ngày kìa tôi mới xuống.

- May quá! Thế thì em không phải lo nữa!

Thanh tủm tỉm cười:

- Việc gì mà quan trọng thế?

Thơm bẽn lẽn, gần như bặt nhời, Thanh phải lấy lại nét mặt, vẫn tươi cười mà trân trọng. Thơm rụt rè:

- Em chỉ ra Vàng Danh có hai chuyến thôi mà bị sốt rét ngã nước đấy! Tối nay lớp em học trò vẫn đi học. Em muốn nhờ anh dạy thay. Lớp ngoài xóm học trò vỡ lòng và nhiều trẻ con đã nghỉ rồi, còn lớp em các bà các anh các chị nhân công tư gia ấy nhất định giữ buổi. Vì tối ngày kia Truyền bá trên Hà Nội xuống thăm, đoàn sẽ về làm báo cáo về lớp xóm chợ Cấm này để làm mẫu, củng cố lại những lớp chợ Bưởi, chợ Bạch Mai và bãi Phúc Xá trên Hà Nội. Nếu em không sốt thì chiều nay em đi giả hàng, nhưng... (Đúng là Thơm ngập ngừng vì đến đây phải nói dối).

Thanh nhìn Thơm ái ngại và tự trách buổi trưa đã không thăm hỏi Thơm. Thanh càng thấy quý mến và phục cái người con gái út này, một mình đi thêu đan phải nuôi ông bố lại còn phải luôn luôn may mặc, và đưa cả tiền đong gạo cho vợ chồng hai anh chị đông con. Hiện nay, một đứa cháu ốm cũng lại phải đến Thơm thuốc thang và giữ nuôi cho anh chị đi làm! Hình như hàng ngày Thơm chỉ được hai bữa cơm chăm mắm chườm, không hề biết miếng quà, nhất là biết cái cửa rạp hát, chiếu bóng là gì!

Thanh định theo Thơm về nhà, nhưng Thơm có ý không muốn:

- Bài em đã soạn rồi! Buổi nay đến mấy vần hơi khó thôi! Em đưa vở ngay cho anh.

Ngơ gọi với:

- Chị Thơm đừng có mua củi đấy nhé. Em đã quét cho chị được đầy thúng lá đa. Chị đun hết ngày mai thì em lên Ao than kiếm củi ván hòm và rơm ngựa của trại lính Nhật cho cả nhà em và nhà chị...

Tối Thanh đến lớp cùng lúc với hai người đầy tớ ở cho nhà đội Nhị và một hiệu thuốc bắc xóm ngoài, buổi nay hai cô nhận công việc kê dọn lại bàn ghế và thắp đèn. Ba gian nhà sau của ngôi miếu này mọi khi gần như bỏ hoang. Trẻ trâu và người đi đường chợ búa tha hồ vào đây thổi nấu và bày bẩn. Tuy những buổi tuần rằm đông người cúng lễ, miếu cũng được quét dọn nhưng vẫn không bằng có người ở và trông nom. Bởi vậy khi thấy Hội truyền bá quốc ngữ trên phố cử người đến nói với các cụ xin mở lớp dạy học tối cho những người mù chữ ở xóm ngoài và xóm chợ, thì ai ai cũng vun vào. Chỉ vì trường sơ học của làng trong không được phép cho mượn bàn ghế nên những người đến học đây lúc đầu cũng ngại vì phải kê gạch ngồi và viết bằng bảng phấn tỳ ngay trên đầu gối. Nhưng sau bọn Thơm và người đi học mượn được mấy bộ bàn ghế đã xộc xệch ở ngoài phố đem về chữa lại và xin được mấy tấm ván giàn giáo thợ nề kê gạch làm bàn viết cũng tốt. Vừa phần từ chỗ mu mi mù mì phải bắt đầu bằng o tròn như quả trứng gà và i tờ giống móc cả hai, thế mà chỉ sau một tuần đã thuộc đã viết được nào chữ e chữ u, chữ v rồi lại tờ tu bờ bê, nên từ con số 12 học trò dần lên đến 20 rồi 25. Có cả những người kéo xe, đội than, làm phu khuân vác trên phố. Có cả những người đi ở cày trong làng.

Thanh đã giúp Thơm những ngày đầu tiên và góp rất nhiều kinh nghiệm của mình năm xưa dạy những thằng La thằng Nghĩa.

Thấy tối nay cái cậu giáo trẻ người cũ trong xóm, trước kia nổi tiếng là dạy giỏi, đến không phải chỉ bắt tay cho mình tập viết và nhắc nhở mình những mặt chữ tập đánh vần, mà thay hẳn cô giáo cả buổi, thì tất cả lớp đều xì xào, bấm chí nhau che miệng cười. Còn Thanh, từ lúc luống cuống vì những câu "chào cậu giáo ạ, chào thầy giáo ạ! cháu chào cậu ạ" và cả "con chào thầy ạ" của hơn hai mươi con người, có kẻ gấp rưỡi tuổi Thanh và suýt soát tuổi Thanh, tới lúc Thanh ngồi xuống cái ghế đẩu đầu bàn thứ nhất có hẳn một cây đèn thông phong trong suốt, thì Thanh nóng rực hẳn người, mặt cứ phừng phừng.

Bên ngoài tối đen. Sương và tiết trời cuối mùa xuân càng làm ban đêm thêm êm ả. Cánh đồng trước mặt và dòng sông phía xa âm vang, tiếng gió thổi vào những xóm trong này, gột nhẹ dần đi cái không khí chật ngột và hôi hám. Không có những ngọn đèn điện chụp sơn đen và bóng vàng ố, nhiều mạng tóc chỉ còn lập lòe đỏ như sợi đờm máu, thế mà cả đường trong xóm trong ngõ trông lại bớt tồi tàn, thảm hại. Hoa bưởi ngoài vườn, hoa xoan ngoài xóm và những hoa bên chùa nhiều lúc thoảng cả vào trong lớp.

Cạnh những đèn nhỏ thắp dầu tây có những đĩa đèn bấc thắp dầu chẩu và dầu luyn. Mấy người có tuổi, mắt mũi kèm nhèm, cứ phải kéo đĩa đèn sát mặt, sát vở viết, mặc kệ khói bốc nghi ngút! Thanh đã viết xong cả bài trên bảng và mấy cuốn vở của những người mắt kém. Mấy cô gái lắp bắp đánh vần theo những nét chữ phấn, nét mặt cứ biến đổi dần dần. Một cô thích vào sườn bạn:

- Hôm nay tập đọc bài con cò mày ạ!

- Ừ, đúng con cò...

- Đúng rồi... đúng con cò rồi!

Cả mấy cô bậm miệng vừa để nhịn cười, vừa để không đọc lên thành tiếng đúng là cái câu mình đã thuộc miệng.

... Con cò mày đi ăn đêm

Đờ ớ đớ u đâu nặng đậu... đậu phải cành mề ê mê em mêm huyền mềm... lộn cổ xờ u ô xô en dê xuông sắc xuống... xuống ao...

- Gớm cái con đĩ này! Mày hãy để cậu giáo viết xong cả bài nào!

Một bà lườm ngay. Một bà khác nét mặt lạnh như dao:

- Mồm miệng các cô chẳng bao giờ để nó lên da non cả.

Cả mấy cô gái đều mặc kệ, càng ngặt nghẹo bấu chí nhau, che miệng rúc rích cùng cục trong họng:

- Bài học hôm nay của cậu giáo soạn hay quá! Thế này mà trên Hà Nội xuống thanh tra thì còn ai là không thuộc là không nhớ!

Thanh gọi từng người đánh vần những từ mới, những chữ khó. Thanh xuống hẳn chỗ mấy bà mấy bác, trỏ thước kẻ gợi nhắc và hỏi từng nét để họ đánh vần. Tới khi không còn ai ngắc ngứ, thì Thanh cho viết tập. Thanh cũng lại bắt tay cho cả mấy người cứng tay, viết còn lẫn nét với những chữ x, chữ g, chữ h và các dấu, Thanh giúp họ nắn nót thật đúng mới thôi... Có bà gãi gãi bắn cả gầu sang đầu Thanh. Có bà vẫy vẫy cặn mực suýt vào mắt Thanh. Hơi trầu thuốc thơm cay có lúc làm Thanh sặc sặc phát ho, như dạo Thanh còn bé ngồi đọc kinh hay nghe chuyện cổ tích bên bà ngoại hay các bạn của bà...

⚝ ✽ ⚝

Thanh lại mong gà gáy. Thanh đã đẩy toang tấm liếp cửa sổ, lại còn đùn chăn vào góc giường và chỉ đắp cái áo sơ mi ngang bụng. Sau cùng Thanh cũng đùn nốt áo đắp bụng vào đống chăn mà vẫn thấy trong người phừng phừng và càng dấm dứt. Mấy mớ hình ảnh chẳng ra đâu vào đâu cứ vừa bị rũ bị giập đi lại trở lại ngay, vấn vít lấy tư tưởng Thanh. Lúc thì một bức tượng, chung quanh khoa múa những cờ những phướn bày trên miếu. Lúc thì một nữ tướng kiểu Phàn Lê Huê quần áo sặc sỡ. Lúc là hai con khỉ nhảy cỡn và nhăn răng ra như chửi như mắng. Lúc thì cái gộc sắn mà Trần Văn khoe thiên hình vạn trạng của nó gợi lên. Lúc là những dò lan, những đám cỏ, những dây lá leo trước cửa sổ tầng Linh hương các ở cái nhà gỗ của ông chú Trần Văn. Tất cả thay nhau tắt đi, hiện lên, sáng tỏ, rực rỡ, mờ mờ, rồi lại hiện lên và cuối cùng nhường chỗ rất lâu cho cái gộc sắn hình thù kỳ lạ và những đĩa đèn dầu chẩu dầu luyn, những gương mặt, những mớ tóc của những bà đứng tuổi, những cô gái của lớp học tối mà Thanh thấy từng người từng cuộc đời rồi đây sẽ đề ra nhiều điều phải suy nghĩ.

.... Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.

Ông ơi!... ông vớt tôi nao...

... Có xáo thì xáo nước trong

Đừng xáo nước đục đau lòng cò con...

Không đọc to... không gõ nhịp thước kẻ... không đều giọng ngân nga vang động... những tiếng đánh vần lầm thầm, ề à, gắng gỏi, trơn tru, thanh thoát lại rào rào trong tâm trí Thanh như của một đàn ong đang làm mật. Và từng giọt mật ấy càng óng ánh rỏ xuống mi mắt Thanh, xuống trán Thanh.

Thanh nhỏm dậy, vắt màn lên, nhẹ nhẹ đi ra bàn. Thanh khép cửa liếp lại, vặn to ngọn đèn dầu tây, mở một cuốn vở chưa viết che về phía mẹ và em gái nằm. Mặc dầu đang rất khuya vắng, Thanh vẫn đưa mắt trông ra ngoài. Thanh mở cái hộp kiểu như đựng hoa nhẫn cưới, bọc nhung đỏ, lót nhung màu ngọc thạch, lấy ra một bông hoa lụa trắng nõn và một hòn đá cuội. Hòn đá chỉ to hơn một mầm chua me hay một mẩu đọt cải lốm đốm như còn bị bám đất với một vết gì đỏ cặn.

Thanh đặt bông hoa dựa vào nắp hộp, còn hòn sỏi thì ấp trong lòng hai bàn tay, Thanh nâng nó lên, cúi mặt xuống, hít hít rất lâu và như dụi dụi cả vào mắt vào trán. Thanh nấc nấc, vai giật giật tựa hồ bị ai kéo xốc lên lại dằn xuống. Nước mắt thì đầm đìa, cố giữ không cho rỏ xuống hòn cuội. Hòn cuội này Thanh nhặt được dưới một gốc cây ba giăng đang ra nụ trước sở mật thám trên bờ đường Sơn đã lao đầu xuống. Tim Thanh đã tưởng rụng mất khi Thanh nhất quyết tuần sau phải đi qua sở mật thám để nhìn thật những viên gạch đã đẫm máu Sơn, và hơi thở da thịt của Sơn còn giữ được ấm nóng ở đây dù chỉ trong mười phút! Ơi mặt đất! Mặt đất của một bờ đường Hải Phòng nếu phải là gương thì phải soi lên mãi mãi cả cái hình hài và đầu tóc mặt mày Sơn với những vũng máu, những dòng máu, những giọt máu của tuổi xuân bất khuất, tuyệt vời tươi thắm...

Thanh nói thành văn với mình như trên đây vừa day day trán lên hòn cuội.

Đằng nhà cụ Cam đã sáng đèn. Từ ngày Gái đen chết rồi, Cam bị đi tù, bà Cam xin được việc làm đất bên Máy gạch cách nhà hơn bảy cây số nên sáng nào bà cũng phải ra đi từ bốn giờ. Thằng Côn từ chân tập việc sửa chữa ca nô Quảng Thái Long đã lên thợ phụ. Nhà không đủ sức nuôi lợn nữa, nhưng thương con dâu và cháu bé, bao giờ ông cụ cũng dậy trước nhất hoặc bung ngô, hoặc luộc khoai, hoặc thổi cơm nắm cho con cháu. Cụ còn ra phố nhận sửa lại các rổ rá và mài dao kéo hay nức ghế mây cửa liếp để kiếm thêm đồng rau mắm. Thường ông cụ chỉ chợp mắt một lúc. Gà gáy rộn, ông cụ lại lọ mọ dậy làm các việc nọ...

Bên bà cụ Xim bếp còn cháy to thêm. Dạo này mẹ Nghĩa rằng xin được việc nắm than bùn về nhà cho cả cái Lê làm. Chỗ than dư tha hồ đun nấu nên hai bà cháu vừa nấu thêm nước, vừa bung ngô bán. Tiếng rằng mẹ Nghĩa và thằng Nghĩa một nồi một niêu riêng, nhưng ngày nào, bữa nào cũng đều đều lúc thì đĩa rau luộc, lúc chén tép rang, lúc miếng đậu phụ om mẹ con nhà Nghĩa đưa trước để bà cụ Xim và cái Lê cùng ăn. Càng được tin tức và luôn luôn liên lạc với Xim (nhưng Xim vẫn bằn bặt không cho biết chỗ ở và thật cảnh làm ăn ra sao), mẹ con Nghĩa rằng lại càng chăm lo bà cụ Xim. Một ai mới đến nhà sẽ tưởng bà cụ là cô ruột hay dì ruột của mẹ Nghĩa rằng, còn cái Lê là cháu con dì con già trong quê của mẹ.

Đêm nay đang con nước, về khuya vẫn lạnh, mẹ Thanh lại hẹn. Tuy vậy bà vẫn không bỏ buổi đọc kinh sớm. Trong buồng bên, tiếng ngáy của cái Ngơ, tiếng thở ò ò ò ò đôi lúc nghẹn lại hưng hức của mẹ Thanh và mùi lá cà độc dược mẹ Thanh phơi khô đốt hút liền hai ba điếu, tưởng chừng sẽ làm ngột mất sự hô hấp của chính Thanh.

Mắt Thanh đang long lanh có cả những ánh lửa của mấy nhà quen thân ở đầu xóm, cuối xóm, ở bờ đầm và ánh đèn chiếu tụ vào cái hộp đựng nhánh hoa và hòn cuội, bỗng Thanh thấy có tiếng bước chân và hơi thở tiến về phía mình. Vừa lúc Thanh đứng lên, nâng nhẹ cánh liếp, nhấc hé ra, thì Dâng khẽ khẽ, bồi hồi:

- Cậu giáo đã dậy đọc sách rồi!

- Dâng! Dâng lại ra Đồ Sơn sớm! Hôm nay có gì nặng để tôi xách đỡ...

Dâng đã vào hẳn nhà, đứng cạnh bàn, đôi mắt đen lay láy và gương mặt trái xoan có nếp khăn vuông chít rất khéo làm xinh xắn duyên dẻo thêm cái trán có vết lõm rất quen thuộc với Thanh. Cái trán của con Dâng trán nứt. Con Trán nứt ngày xưa gánh vò nước chè xanh và bán bánh khúc nóng thường ở nhà ra đi cùng Thanh ấy mà! - Và đôi mắt ấy không như mọi khi chỉ cúi cúi nhìn, nay vẫn ý tứ, dịu dàng, tha thiết mà như soi vào mặt Thanh, vào mắt Thanh...

- Cậu giáo đọc sách gì thế? Sách phải hay lắm nhỉ?

Thanh càng ngạc nhiên. Không! Phải nói là Thanh kinh ngạc! Chưa đủ, Dâng đặt hẳn tay vào cuốn sách để trước cái hộp nhung:

- À sách chữ Tây! Cậu giáo lại đọc sách chữ Tây?

- Sách chữ Tây nhưng của Nga! Sách của Mácxim Goócki, nhà văn hào cách mạng.

- Sách của Nga! Chết! Chết! Sách của cách mạng mà cậu giáo vẫn cứ giữ đọc.

Mồ hôi trán Thanh vã ra. Mắt Thanh như bị một khối gương hay ánh sáng chiếu vào. Thanh phải lấy hết sức để trấn tĩnh tâm trí:

- Không! Sách này thư viện thành phố vẫn lưu trữ... Và lại có cấm, có đốt, cũng không thể hủy bỏ được! Không còn bản này thì còn bản khác, không người này giữ được thì người khác!...

Dâng chớp chớp mắt, vẻ mặt bồn chồn rõ hẳn:

- Cậu giáo cắt nghĩa cho nghe một đoạn có được không? Cậu cho nghe cái đoạn nào cậu thấy hay nhất, nhiều ý nghĩa nhất ấy...

"... Trong tiếng Sóng gầm như tiếng sư tử, vang lên tiếng hát của chim ưng. Đá rung rinh, trời rung rinh theo giọng hát dữ dội.

Vinh quang thay cái điên cuồng của những người dũng cảm.

Cái điên cuồng của những người dũng cảm đó là trí khôn của cuộc đời! Ôi chim ưng dũng cảm, người đã đổ máu khi chiến đấu với quân thù. Nhưng có lúc máu người sôi lên như ánh lửa ngời trong bóng tối của cuộc đời và đốt cháy lên trong những trái tim mạo hiểm lòng khao khát điên cuồng tự do và ánh sáng!

Người chết! Nhưng trong tiếng hát của những người dũng cảm và khỏe mạnh, người sống mãi như một tấm gương sáng một tiếng gọi kiêu hãnh tự do, ánh sáng.

Vinh quang thay cái điên cuồng của những người táo bạo!"

Im lặng trên tảng đá rộng, sóng du dương nhảy múa trên cát, tôi cũng lặng im, mắt nhìn ra khơi. Những vòng trắng bạc càng nhiều. Nồi nước chúng tôi sôi nhẹ nhàng...

Một con sóng vui vẻ trào lên và uốn cong trên bờ, vừa kêu vừa trèo lên đầu Rahim.

- Mày đi đâu? Ngủ đi! Rahim giơ tay và con sóng lui xuống biển một cách ngoan ngoãn.

Cách đùa của Rahim coi như sóng có tâm hồn không làm tôi thấy vui hay lạ. Chung quanh mọi vật yên tĩnh đến nỗi người ta thấy trong hơi biển thổi và núi còn ấm hơi ngày một sức mạnh tiềm tàng, khỏe mạnh và súc tích. Trên nền trời xanh đậm ánh sáng và in một cái gì nghiêm trang, huyền diệu nó làm cho trí óc bâng khuâng với sự đợi chờ êm dịu một cái gì xuất hiện.

Mọi vật đều ngủ, một giấc ngủ nhẹ và căng thẳng. Người ta có thể nói trong phút sau, mọi vật đều thức và sẽ hát một điệu nhạc đầy âm thanh êm ái không thể nói được. Những âm thanh ấy sẽ nói lên những bí mật của thế giới, làm cho trí óc thông cảm rồi lại làm tắt đi như một ngọn đèn ảo mộng và lôi cuốn tâm hồn lên xanh thẳm, nơi ấy những riềm sao vàng rung rinh sẽ đón lấy tấu lại điệu nhạc của sự lạ lùng xuất hiện... (1)

-----

[1] Bản dịch của Tế Hanh (chú thích của tác giả).

- Cậu giáo ơi! Truyện này tên là truyện gì? Cậu giáo đọc mấy lần rồi? Ngực Dâng nhấp nhô, những ngón tay tỳ lên mép bàn rung rung. Dâng vừa thở vừa hỏi.

Thanh cũng như vừa chạy một đoạn đường dài lắm dốc:

- Truyện Tiếng hát của chim ưng! Tôi đọc từ năm kỉa năm kìa, năm 1939 ấy, nay đang đọc lại. Tập truyện còn nhiều...

Dâng vẫn miết miết ngón chân và cuối cùng kiễng hẳn lên, Dâng cầm cuốn sách mở mở lật lật... Gương mặt Dâng hừng hừng. Dâng đưa lại sách cho Thanh, một bàn tay đặt lên một trang:

- Cậu giáo lại cắt nghĩa cho nghe đoạn truyện này nữa...

Thanh nuốt nuốt nước bọt, trống ngực càng rộn. Thanh gần như hoa mắt khi cầm lên trang sách tình cờ mở ra mà Dâng nén tay làm cữ, bắt buộc mình dịch nghĩa.

Ngực nàng trắng và trần, lồ lộ

Và, trên làn da mịn như nai con

Ánh lên những hình sao của vệt môi hôn

Đôi vú như tinh tú lấp lánh trên ngực

Và in hệt tia sao, mắt nàng hiền dịu

Nhìn bầu giời, dải sông ngân trong vắt,

Nhìn lối mòn ban đêm hun hút một màu tóc mây

Bóng mờ vờn trên đôi mắt nàng

Và ướt đôi môi tươi huyết như vết hương,

Nhẹ đặt lên đầu gối,

Chàng trai chớp đi như một con nai mỏi

Cái chết lặng ngắm và hơi lửa giận

Tắt dần đi trong chiếc sọ rỗng

Hỡi ơi! Vị thần mới của ái tình

Vì cớ chi phải lẩn tránh thượng đế dưới một bụi cây?

Khác nào tấm màn trời,

Thân hình nàng vằng vặc những giăng cùng sao

Nàng đưa ra che đỡ cho người tình

Và dũng cảm, nàng trả lời:

Khoan, đừng rầy la chi

Đừng huyên náo, nhất là đừng làm chàng kinh động,tội nghiệp...

Đừng vung lên cây hái sắc lưỡi.... (2)

-----

[2] Bản dịch của Nguyễn Tuân (chú thích của tác giả).

Dâng muốn túm cả tay Thanh và quyển sách. Tai Dâng ù ù. Dâng đã nhắc lại lần thứ hai mà vẫn còn nhắc thêm: Cô gái và thần chết! Cô gái và thần chết! (Cô gái và thần chết! Truyện lạ mà hay quá! Sao cậu giáo không dịch cho em nghe trước tất cả truyện!)

Dâng còn muốn hỏi thế nữa. Chợt nhận ra người mình và Thanh như đã ngả hẳn vào nhau vừa lúc gà ở trong bếp nhà trên đập cánh phanh phách gáy lên toang toang, Dâng vội ngồi xuống cái ghế đẩu, nhìn chênh chếch vào ngọn đèn. Giọng Dâng trở nên bẽn lẽn:

- Thần chết đã hiện đến ngay bên, mà con người vẫn không sợ, vẫn cứ một lòng một dạ!

Bây giờ đến lượt Thanh ngượng nghịu, hơn nữa, gần như xấu hổ. Câu nói sẽ sàng mà thấm như sương tuyết. Thanh cúi mặt, ngón tay đập nhẹ nhẹ lên trang sách. Nhưng không phải chỉ có Thanh bối rối vì nghĩ ngợi. Cả Dâng nữa. Một năm nay Dâng càng có dịp theo dõi Thanh. Từ mùa hè năm ngoái, Thanh bỏ dứt việc đi giao và kiểm hàng ở mấy nhà đại lý cho hãng buôn chè buôn sơn trên Hà Nội, về hẳn Hải Phòng, thì Dâng thấy Thanh còn chín chắn hơn trước. Mặc dầu, đôi lúc Thanh có vẻ buồn và trong đôi câu nói xem chừng nặng nề chán nản nhưng rồi Thanh lại càng lặng lẽ, miệt mài xem sách, xem báo, lắm ngày chẳng chịu ra khỏi đầu ngõ. Mặc dầu như thế, đối với Dâng, Thanh vẫn vồn vã, ân cần, và, nếu Dâng có hỏi điều này nhẽ kia, tin tức và các chuyện thời sự thì Thanh vẫn phân giải một cách kỹ càng và tích cực.

Trước sau như một, Thanh vẫn tỏ ra không bao giờ công nhận những cảnh tàn ác bất công, những sự áp bức bóc lột đang diễn ra ở chung quanh, cũng như Thanh vẫn chủ trương, một ai kia đã có ý thức như thế mà lại cứ chịu để tồn tại thêm sự trái ngược đó, không tìm mọi cách, mọi đường hành động để trừ bỏ nó đi, thì không những không phải là người trung thực, đáng sống, mà còn là một kẻ hèn hạ, thảm bại! Cũng như một ai kia muốn cố giữ cho nhân phẩm, cho lương tâm, cho đời sống của mình trong sạch mà cứ hàng ngày làm việc ăn ngủ và ngoi ngóp trong các cảnh bẩn thỉu, tội lỗi, gian ác.... thì thế nào cũng có ngày không còn giữ được mình, không còn là mình nữa. Nhất là đã hiểu biết như thế, đã tâm niệm như thế mà cứ ngồi yên và nhìn những người khác hành động, đấu tranh và hy sinh nữa, thì cũng là một hạng bóc lột, một quân ăn cắp!

Dâng còn dò hỏi được thêm, ngoài nhóm học sinh mà Thanh tuyên truyền năm xưa đến nay thành cơ sở của trường Sông Lấp, Thanh đã có thời kỳ liên lạc với Sơn, và chính Sơn cũng báo cáo với cả Xim cho Dâng tích cực điều tra thêm về Thanh, để có thể thì cho