← Quay lại trang sách

Khi Đứa Con Ra Đời Chương 1

Bây giờ gần hết các toa đều im ắng theo như mọi chuyến. Tàu đã qua những ga chính. Đến ga này thì chỉ còn những bọn đi hàng muối hàng đồng nát lên xuống cùng mấy khách thường, họ chạy loạn về quê hay lại ra Hà Nội.

Không còn sự túi bụi, chen lấn, giành giật, xô đẩy, túm xé, gào thét, chửi rủa, kêu khóc giữa những bọn đi hàng chuyến và hành khách thường. Không còn những quang gánh, đòn ống, ró, bì, bồ, bao tải, lồng sọt và cả hòm sắt, thùng tôn... quăng, quật, vất, ném chẳng cần biết đến những mặt mũi người khác. Không còn những mụ ghê khiếp còn hơn cả những cướp sông, cướp biển, những tù lưu manh bị án phát lưu chung thân, người ta gọi là những giặc cái, xuôi ngược trên đường Hà Nội - Hải Phòng này tranh nhau chỗ ngồi và cửa lên xuống. Không còn những cảnh ấy nữa, đoàn tàu mới được im ắng như thế.

Vừa phần cũng vì trời lại rét quá. Đêm thì tối như bưng. Cả ngọn đèn dầu tây đỏ lòm ở lối cửa toa xếp tanh cũng không biết ai lấy đi, con tàu lại càng chạy nhanh, nên chẳng ai phải cái tội đã được ấm chỗ mà không cố ngủ. Nhất là đồ đạc, hàng họ của mình đã xếp đặt cẩn thận, hay mình chẳng có hàng họ đồ đạc gì cần phải giữ gìn.

Yên chỗ và lặng lẽ nhất vẫn là những người nhà quê, những phu phen, những người đi làm thuê, tìm công kiếm việc không được, ở ngoài min mỏ kéo về. Họ ôm con ôm bị ngủ ngay cạnh những lồng gà, vịt, lợn, chó và những rổ rá, bì muối hết sức nhớp nhúa. Luôn luôn họ ho, rên, vừa phải dỗ, phải nựng, vỗ về con bé.

Toa Thanh cách toa dành riêng cho xếp tanh có một đống hàng mà khi Thanh lên đã thấy chất gọn. Toàn những hòm gỗ, bao giấy dầu và thùng kẽm, đựng đường, bột mì, thuốc bắc, hay vải sợi gì đấy của bọn nhà buôn có quyền, có thế ăn cánh với nhà ga. Khi Thanh lên toa, chưa kịp nhô đầu vào thì liền tối tăm cả mặt vì không biết bao nhiêu người và bao nhiêu thứ nhảy, đạp qua đầu Thanh, đè sập, chồng chất cả lên đầu Thanh nữa. Rồi cứ đến thêm một ga thì cảnh đó lại diễn ra, nhiều lúc còn khủng khiếp hơn với những người như bị bóp cổ, kêu hu hú, và chính Thanh cũng tưởng bẹp ngực hay vỡ mất thái dương vì bị đẩy bị lèn, và những đòn ống đòn gánh quăng ném vào người.

Đã có lúc Thanh tính nước, chờ khi tàu đỗ, Thanh cố leo nóc sang toa bên, tìm viên xếp tanh, chào y bằng một câu tiếng Pháp rất long trọng, xin phép y được ngồi ở chân đống hàng cửa ra vào buồng y. Hay không ngồi như thế, thì Thanh ra đứng ở chỗ bực lên xuống, rồi đến khuya nếu mệt quá, Thanh sẽ gục xuống sàn, trùm áo đi mưa lên mà ngủ gà. Nhưng thấy phải làm việc kiểu thế thì hèn, ti tiện con người, nên Thanh nhất quyết cứ ở yên toa đây với đám vợ chồng, con cái, ông cháu hai gia đình làm mỏ về mà Thanh đã phải lúc thì kêu hét, lúc thì nói năng khẩn khoản, lúc thì giành giật để giữ chỗ cho cả họ và mình.

Ban nãy tàu đỗ ở ga Cẩm Giàng cũng lâu bằng ở Hải Dương chờ chuyến trên Hà Nội xuống. Không hiểu luật lệ kiểm soát của đồn của huyện đây như thế nào, mà bọn buôn lại càng đông, cứ kìn kìn vừa chuyên những đống ró, bị, bao gạo này lên xong, lại tiếp ngay những sọt, bì, lồ muối kia xuống. Không mắc điện, nhưng ở dãy hàng phố chợ, cửa ga và ngoài ghi, đèn ba dây, đèn cây, đèn bão, đèn đất thắp như có hội. Lính khố xanh, lính cơ, lính đoan và phu khuân vác, phu kíp cùng dập dìu ở các hàng cơm, hàng phở, hàng nước với con buôn. Thành thử lối vào sân ga chỉ có khách thường là phải chầu chực, còn các ả các mụ chạy hàng cứ đều đều đi lại ra vào, tựa như chính các lính các phu nọ phải canh giữ, thu xếp các việc chuyên chở cho họ.

Những hàng bánh giầy, giò, chả, xôi nén thịt gà, trứng luộc thay nhau chìa cả thúng mẹt vào tận mặt người trong toa với những bầu đèn cháy ngụt. Thanh cũng như bọn người rách rưới, chúi rụi nọ không dám nhìn qua, nhất là bắt nhời kẻ mời chào mình. Tuy Thanh cũng mệt vì cả ngày nay đằng đẵng cuốc bộ, chỉ được tấm bánh đúc ngô và bát canh bánh đa ăn buổi sáng, buổi trưa. Và đến giờ, Thanh vẫn chong chong mắt, không sao chợp được.

Thanh ngồi trên hai ró to đựng cám gạo xay, trước mặt là một chồng những bao quần áo cũ. Thanh có thể gục mặt lên mà thiu thiu, nếu không chịu làm hẳn một giấc. Có phút gió quá, buốt lọng cả mang tai, Thanh đã giở áo đi mưa trùm đầu hé hé nhưng rồi lại phải tung ra để lại nhìn hai bên đường và phía trước cho đầu óc đỡ ngột ngạt.

Trừ mấy quãng phố xá đặc biệt như trên, còn hai bên đường và phía trước, Thanh cũng chỉ thấy thoang thoáng những mảng tối đen của cây cối, làng xóm, tha ma mộ địa và những vệt sao mờ tỏ vùn vụt. Vì thế, nhiều lúc Thanh phải đứng hẳn lên để tầm mắt vượt qua những đống những chồng hàng giam hãm mình.

Nhiều nhất vẫn là gạo. Những ró gạo tám thơm và gạo nếp xếp khít nóc toa. Đã thế, lại còn người nằm người ngồi để trấn giữ. Muối tuy không nhiều bằng như thế nhưng ở các gầm ghế, và ở cả trước mặt, trên đầu Thanh đều nồng lên mùi mặn tanh mặn nhờn. Trong người Thanh càng thêm bồn chồn và nóng ngốt. Cảm tưởng bị nhốt trong một thứ hầm, một thứ xà lim rất lạ càng thấy nặng thấy rõ. Một thứ hầm xà lim di chuyển bằng bánh xe, người bị nhốt không mặc áo số tù, không thành án, không mang xiềng chân và hai tay bị còng xích.

Phao dầu của đèn hộp kính ở xó cửa đằng đầu toa chắc bị ăn bớt nên tắt ngấm từ lâu. Bọn đàn ông buôn gạo muối thắp lên hẳn hai ngọn đèn bão treo trên đống hàng của mình. Sau khi dọn lại cho phẳng phiu, họ trải rộng cái áo đi mưa vải bạt Nhật lên trên mặt, rồi bầy xôi nén, thịt gà, trứng luộc ra đánh chén.

- Thế mày đong hết cả chỗ tám thơm ấy chứ? Tao thấy mày còn những ba mươi tờ một trăm cũ cơ mà. Tiền ấy mấy mụ đi đong cho Liên đoàn phải đổi các mỗi trăm một chục đấy.

- Chết! Chết! Năm ró hơn hai tạ gạo nếp cái kia, mày phải để tao bán cho bọn chợ Bưởi ăn hàng với trại lính Nhật trên ấy chứ.

Có tiếng văng tục:

-... Mày ăn mãi của con mụ béo ấy rồi, cũng phải để phần cho tao con mẹ chợ Bắc Qua. Dạo này nó bắc mỏ cân ăn giá với mấy thằng bếp Tây ở trong Thành những hai trăm một tạ gạo tám. Còn đỗ xanh, đỗ lạc bảo bao nhiêu chúng nó cũng ừ. Đã thế tiền lại trả toàn giấy một trăm và hai mươi đồng tiền nhà băng cũ.

Có tiếng chửi còn tục hơn:

- Cứ khuân mãi của về cho cái con nhân ngãi vú bằng quả dừa ấy thì còn là ốm, còn là đánh vợ đánh con. Đúng là nó cho mày ăn bùa ăn bả nên tháng trước vừa lãi đi hàng, vừa phất canh xóc đĩa ở ga Gia Lâm bốn, năm trăm đồng mà vẫn không đủ đưa cho nó về quê giỗ bố...

- Giời ơi là giời! Nó về quê giỗ bố hay nó cưới vợ ba cho chồng nó. Thôi, thôi, thằng này rồi thế nào cũng có ngày hộc máu mồm vì cái con bán dừa ấy thôi!

Cả bọn cười lăn.

Một mụ nhỏm lên:

- Này chị đây truyền đời báo danh cho chúng mày biết, đừng có phụ nghĩa quên tình rồi sẽ có ngày khốn nạn như thằng gì ấy. Gương nhỡn tiền treo đầy ra kia kìa.

Tiếng cười hô hố rộ lên:

- Vâng, chúng em xin bắt chước như ai, ở nhà làm vú em chăm lo cơm nước giặt giũ cho Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, để được hai bữa, mỗi bữa một đồng cân thuốc ngang hút đến xái Hợi, thức cả đêm chờ bà nhà nó đi nếm chán các quà chợ về rồi làm các thứ món ninh món hầm để bà nhà nó ăn lấy sức rồi lại đi các chợ nếm quà nhé!

Một tên è è cái giọng:

- Chúng em xin lỗi các bà chị, thời buổi khó khăn, giời đất xoay giở chẳng biết ra sao thế này, thì cứ là phải a lê hấp, sống được ngày nào phải thật lãi ngày ấy. Thôi, thôi, các cậu cùng tớ bỏ hết những giỏ, bị này xuống cho bằng mặt ghế, rồi dẹp bớt quang gánh, thúng sọt lại, để...

Giôtô! Giôtô!... Aria tô! aria tô...

- Vậy phải thắp thêm đèn nữa đấy. Các mẹ ơi, cho mượn cái đèn bão của các mẹ nào.

- Mượn! Có cho mượn cái ba vạn. Dầu tây bây giờ hai ba đồng một lít cũng không mua được, chứ có là nước lã đâu. Nhưng thôi cũng được, cứ lấy mà thắp. Tiền hồ dốc ống cứ phải chia hai. Không thì thỉnh thoảng phải cân hồ cho một tiếng kha khá...

⚝ ✽ ⚝

Tiếng bốn đồng tiền cắt bằng vỏ bao diêm, mặt đen mặt trắng, xóc trong bát sắt và đĩa sắt mỗi phút thêm xoang xoảng. Ánh đèn vặn to chiếu sáng rực sang cả toa bên. Mấy giặc cái cùng nhổm dậy vấn vấn lại khăn, lồm cồm trèo qua các đống ró bị, đến quây lấy chiếu bạc. Dần dần cả khách thường ở toa trên, toa dưới cũng trèo vào cùng với mấy người làm trên tàu đang ở các toa chở than gỗ xi măng sắt, nghe kháo có đám bạc to liền rủ nhau đi đánh.

- Lẻ thừa bốn mươi hai đồng.

- Chẵn thừa bốn mươi nhăm đồng.

- Cái cân năm mươi đồng, còn lẻ thừa sáu mươi đồng.

- Lẻ thừa một trăm... à... hai trăm đồng.

- Chẵn thừa một trăm đồng.

- Chẵn thừa ba trăm... năm trăm đồng.

Bọn con bạc cuối cùng là bọn cai, bọn lái buôn to đi theo hàng ngồi ở toa trên với xếp tanh.

Gió thổi ù ù. Tàu chạy như rít như xé. Hơi người sực, đèn sáng ngùn ngụt. Nhiều người không có tiền cũng len lách vào xem.

Đến bây giờ Thanh lại muốn ngủ. Đầu óc Thanh tê mỏi hơn bị dần. Tiếng thở rên rên của ông cụ phu mỏ và tiếng khò khử của người mẹ đang sốt mà vẫn cho con bú vẫn dồn dồn. Thanh càng cố tránh nhưng cứ phải nghe sự ầm ĩ và tiếng tiền gieo của đám xóc đĩa lù lù ở trước mặt. Nhiều phút Thanh đã hơi thiu thiu sau lại giật nảy người, tưởng chừng đoàn tàu đâm xuống một cái vực. Thanh nhao hẳn đi vì bị mấy người đứng chầu rìa chiếu bạc lảo đảo chúi dúi vào Thanh.

- Con cứ ngủ đi nhá, sắp đến Hà Nội thì u gọi.

- Đến Hà Nội đi chơi chợ Đồng Xuân và xem phố cả ngày, chiều tối lại đi tàu về quê.

- À à... về quê cái chị nó đi mót khoai, đi bắt cua về cho mà ăn. Cua ở đồng ngoài nấu canh với rau tập tàng ở vườn nhà chùa còn ngọt còn mát hơn chè đường, ăn trừ bữa được đấy. U đi gặt hay đi cấy về chỉ đảo qua mấy bờ ruộng cũng được đầy giỏ cơ...

Bỗng Thanh sửng sốt vì thấy một sự gì xảy ra khác lạ quá.

Lần này, không phải Thanh chỉ giật mình mà phải choàng hẳn dậy, trèo lên cửa để trông. Đoàn tàu của Thanh không trật bánh lao xuống vực. Nó cũng không bị phát hỏa hay có xe cộ gì đâm vào. Nó đã đỗ rất lâu ở ga, hai ba lần kéo còi mà vẫn không được chuyển bánh. Lại mười phút, mười lăm phút, ba mươi phút, hơn nửa giờ nữa rồi. Bây giờ thì người trên tàu bỏ xuống hẳn đường, và không hiểu từ ai bảo ai, từ đâu truyền đi mà cứ ồn ồn rối loạn vô cùng.

- Hà Nội đánh nhau rồi! Hà Nội đánh nhau rồi!

- Thế là Pháp và Nhật đánh nhau ở Hà Nội rồi!

Thoạt nghe, đám xóc đĩa chỉ hơi nháo nhác. Nhưng sau đấy có một, rồi hai, rồi ba, rồi không biết bao nhiêu cánh tay chồm chồm tua tủa quờ vào để vơ lấy tiền đặt cọc của mình và cũng vơ, cũng giằng giật cả tiền của người khác, và, phụt phụt... ngọn đèn to nhất trên chiếu bạc bị hất đi, ai nấy túi bụi kêu hét, thì mới vỡ đám, giữa những tiếng chửi rủa, văng tục, kêu gọi the thé, cuống cuồng, hu hú, còn khủng khiếp hơn cả lúc lên hàng xuống hàng ở mấy ga trước.

Hình như để không một ai còn dám lơ là mà đều phải dồn tất cả sức nghe ngóng và sự suy nghĩ của mình về phía xa xa trước mặt đúng thực là Hà Nội kia, những tiếng nổ cứ nối tiếp nhau dồn dập. Những đám lửa, những vùng lửa bùng cháy mỗi phút một ngút cao, lan rộng. Cả một phía trời bầm bầm vằn vèo những vệt lửa khói.

- Nhà ga không cho lệnh mở ghi à?

- Xếp tanh không được phép cho tàu chạy?

- Đường dây thép của nhà ga mà cũng không thông với nhau?

- Ối! Ối! Nổ to và nổ rền thế kia thì nhất định trúng kho đạn trong Thành rồi.

- Ái à ái à! Lửa bốc như thế ở phía bên này thì không khéo là trường bay Gia Lâm rồi!

- Ở Sơn Tây, sơn tung gì mà lại gần thế? Hay Pháp

cũng bắn thần công lại sang chỗ Nhật đóng ở Đông Anh, ở Gia Lâm?

- Thôi đếch xem nữa! Có thế nào thì chỉ sáng mai là rõ. Pháp Nhật choảng nhau có can gì đến mình.

- Đã bảo mà! Xếp tanh xuống nhà xếp ga rồi. Họ đánh chén, họp tổ tôm với bọn phố Hàng Đồng Hàng Đào gì đấy. Bếp nhà xếp ga xào nấu gì mà thơm mấy?

Tiếng súng vẫn ùng oàng đì đoành. Lửa vẫn lan rực, nhiều lúc bùng lên rất cao. Nhiều kẻ đã chuyển hàng xuống, sắp lại chặt chẽ các quang gánh, ró, bị. Nhiều người tụ thành tốp thành bọn bàn tính việc thuê xe tay xe bò đi chung với nhau nếu tàu bị nghẽn và Pháp Nhật bắn nhau thực sự ở Hà Nội mà chưa ai chịu ai. Những người mệt quá lại tìm một chỗ khuất, gục đầu hay nằm co rúm ngủ cho quên đói quên rét. Bọn đánh xóc đĩa lại họp ngay trên tàu để vừa coi hàng.

Trời khuya, đầu mùa xuân, gió hút lạnh tê lạnh buốt. Những ngôi sao chìm hiện qua những lớp mây muội đèn. Cảnh tượng làng mạc, bờ bụi, cây cối ở chung quanh càng như có khói phủ trên cánh đồng lặng ngắt. Dãy hàng quán ở cửa ga tuy còn mấy nhà sáng đèn nhưng chỉ có khách ngồi chờ, mặt mày ai nấy đều phờ phạc. Còn ở hàng hiên hẹp và bờ hè sân ga, cả bọn phu khuân vác, phu canh điếm cũng bỏ đi đâu hết. Trơ lại những đống bao tải, chiếu, vải tuồn đắp trùm lên những người ôm giữ đồ đạc hàng hóa buôn bán vào loại con cá lá rau mớ khoai mớ đậu. Họ ngủ. Nếu chưa có súng bắn đến nơi, lửa táp tới chỗ, thì việc gì xảy ra cũng mặc.

Thanh không ở trên toa, không vào phòng đợi, cứ đi đi lại lại chán ở bờ hè thì ra cửa ga và các hàng quán.

⚝ ✽ ⚝

Trời đã sáng. Mới mờ mờ mặt đất, mọi người đã lục sục giục nhau dậy, thu xếp các thứ, bàn tính ồn ồn. Cả xếp ga lẫn xếp tanh đều lẳng lặng chẳng chịu nói năng gì cả, đến nỗi không còn ai dám hỏi han họ nữa. Thế là khách cứ cùi cũi xuống tàu. Người ta thấy nếu cứ cố nán chờ tin tức tàu chạy thì không khéo bị chết oan hay khốn khổ vì cảnh bỏ tan bỏ hoang, bơ vơ ở giữa đường này. Ai muốn ra thì ra, ai muốn vào thì vào, cửa bán vé đóng, phu nhà ga và người làm tàu nằm ngủ như chết. Buồng xếp ga càng nghiêm ngặt hách dịch hơn cả công đường quan Tổng đốc.

Từng đám từng lũ kéo nhau ra đường cái, vừa đi vừa hỏi tin tức: "Hà Nội làm sao thế? Súng gì bắn mà nhiều thế? Có thấy tàu xe gì ở Gia Lâm chạy không? Có phải ông Tây ông Nhật đánh nhau không? Ông nào đánh trước? Làm sao hai ông lại đánh nhau? Liệu chừng có yên hàn được không?". Gặp ai họ cũng hỏi, thành thử chỉ người nọ lại hỏi người kia. Người đi ngược hỏi người đi xuôi. Người tạt ngang hỏi người đỗ gánh. Bàn tán các cách nên đi đường nào, lối nào để không phải qua Hà Nội mà về tới nhà mình. Hoặc nên tìm đến ngã tư, đầu đường hay ra bến tàu nào để chờ những bọn về cùng huyện cùng tỉnh.

Bọn buôn vừa thì gọi xe bò xe tay trả giá gấp đôi. Bọn buôn to nhất định xếp hàng ở gần ga, cho tiền phu điếm, tuần đinh, trương tuần sở tại canh giữ.

Mặc xác họ! Mặc xác họ! Có tiền thì có người hầu, có bấc có dầu chán vạn người khêu. Ông Tây, ông Nhật hay cả ông Giời, ông nào cũng phải ăn. Được hay thua thì cũng đều phải ăn cái đã. Cứ để gạo đấy, một ngày, hai ngày, một tuần hai tuần, một tháng hai tháng càng hay...

Đoàn tàu đã cũ kỹ, xộc xệch nay lại bỏ không, ngập ngụa rác rưởi ở trước ga, và khu nhà ga trống hoác với những bụi găng, những rào thép gai, những cọc sắt mấy năm nay chẳng chịu sửa sang gì cả, trông càng lạnh hoang hơn cả tha ma đồng vắng. Những hành khách lam lũ nghèo khó đã ra hết đường cái càng ngơ ngác xào xạc, càng không hiểu tại sao lại có cơn cớ như thế này, làm mình đã bơ vơ, vất vả, túng đói sẽ đến bước cùng kiệt mất thôi. Họ dắt díu nhau tản theo mấy ngả đường to đi vào mấy làng trong có chợ búa, có đình chùa, có nhà thờ, có cổng ngói và người đi kẻ lại đương nhộn nhịp.

⚝ ✽ ⚝

Cách nhà ga hơn ba cây số, ở lưng một dốc đường sắt chạy qua đã đóng lại chiếc gióng gỗ sơn trắng kẻ vằn đỏ, có một ôtô rất sang đỗ lại: xe Lanhcôn của Tú.

Phải, đúng Tú mông Tú suýt đang ngủ, bỗng choàng dậy hỏi như kẻ bị bóp họng khi tài xế lay gọi:

- Thưa ông... trong ga Lạc Đạo người ta ra đường đông quá.

- Sao sao? Tàu Hải Phòng đổ xuống cả ga Lạc Đạo à? Tàu không chạy à?

- Vâng! Vâng!

- Thế có thấy họ nói tàu trên Hà Nội xuống hay xếp ga bảo bao giờ các tàu lại chạy được không?

- Thưa, thưa... họ chỉ kháo nhau không hiểu làm sao xếp ga cứ đóng chặt cửa, chẳng tiếp ai mà cũng chẳng nói năng gì cả. Còn xếp tanh thì vào ga đánh chén xong là đi ngủ.

- Chỉ toàn hành khách ra đường thôi mà không thấy xe cộ hay người nào từ Hà Nội, Gia Lâm về chứ?

- Thưa ông, không hiểu chờ đến chốc nữa thì có người xuống với tin tức gì mới chăng, còn giờ thì toàn là kẻ chạy ngược lên và kéo nhau vào các làng thôi. À à mà kìa, thưa ông hình như có người ở trên đồn Bần lên ấy.

- Bác tài, bác tài chạy ngay đến mà hỏi xem.

Miệng nói, tay ẩy người lái xe đi khỏi, Tú đùn cái chăn len vào góc nệm, nhún nhún mấy cái cho dãn gân cốt rồi quài tay móc móc một chai dẹp bọc giấy lụa in nhãn Pháp, xoay xoáy cái nút đỏ ối như bằng vàng, tợp luôn hai tợp.

- Mẹ kiếp, lúc này mà không có cốt nhắc thì đến pỏ pẹ (bỏ mẹ) mất!

Lại một tợp nữa. Tú vặn nắm cửa ẩy toang ra:

- Thôi thế là cả tiếng súng thần công cũng hơi im im, rồi, còn lửa thì không bốc cao nữa. Sư khỉ, đánh nhau bắn chác ra sao đây?

Tú toan thò tay vào túi đệm để lấy mấy miếng xúc xích và dăm bông, nhưng lại tự nhủ:

- Thôi hãy khai vị thêm vài tợp cho thật đói mà.

Tài xế chạy về:

- Thưa ông đúng Nhật Tây bắn nhau, mà ông Nhật ta đã hạ hẳn ông Tây ở Hà Nội hay sao ấy. Ở đồn Bần, ông Nhật đã kéo cờ Thiên hoàng, cho dán cùng đường giấy loan báo quân Nhật đã dẹp xong quân Pháp và khuyên người ta ai phải ở yên đấy, quân đội Nhật sẽ chu toàn mọi sự trật tự làm ăn.

- Giêsuma lạy Chúa tôi! Chúa tôi đã an bài mọi việc "chu" đến thế này ư?

Như một công tước đón đức Hồng y giáo chủ đem tin vui tới cho mình, Tú cúi mình, một tay kéo giăng mép áo khoác ra, một tay đỡ lấy bàn tay phải của tài xế nâng lên ngang mặt mà chúm môi hôn rất lâu, rất nhẹ:

- Sáng danh Cha - cả ở trên trời và xin bằng an cho dưới đất! Nhân danh Cha và Con và Thánh thần Amen! - Tú cũng khua tay làm dấu thánh giá như kiểu công tước đoạn quay ngoắt lại móc thêm một chai cốt nhắc mới, xoay xoáy nút cả hai chai, rót đầy rượu, giơ cao đưa cho tài xế:

- Bác tài săng tê với tôi ly rượu này. Chúng ta sẽ còn phải mở nhiều tiệc vui với nhau nữa từ nay trở đi. Cái gì phải bắt đầu thì nên bắt đầu. Ta hãy bắt đầu uống ngay từ giờ phút kỷ niệm này trước khi cho xe chạy. Không... không! Chạm với tôi ly nữa, một ly nữa thôi. Phải... phải... xin cảm ơn... phải, lại một ly nữa... vâng xin đa tạ! Bánh tây patê đây, giăm bông, xúc xích đây, lê táo đây, bác cứ ăn tự nhiên. Thôi tôi xin phép ra đây một chút.

Không phải Tú đi ngoài. Tú lại phải theo một thói quen. Khỏi chỗ ôtô đỗ một quãng xa, Tú nhún nhẩy bước và hát khe khẽ theo điệu Hoóc xây của các tiệm nhảy và của bờ hè đầu đường đã nhảy hát từ gần mười năm nay ở mấy thành phố lớn:

Yêu nhau đi chiều hôm tối rồi

Cứ nói đến ngàn tiếng yêu thương

Con chó lài với con chó xồm...

Nhưng đến gốc cây thứ ba thì Tú mím ngay nụ cười, quay rộng một vòng rồi đổi ngay bước. Tú đi lững thững, đăm chiêu, nhoi nhói cặp mắt xuống đường nhựa.

- Thôi không được nỡm nữa. Phải tính ngay đến công việc đi. Một phút bây giờ là vàng đấy. Một phút bây giờ là kim cương đấy! Cơ hội lên voi đến tột đỉnh là cơ hội này đây. Nguyễn Kim Tú ơi, mày phải xử sự sao để đừng hớ một miếng gì, một cú nào, một ván nào. Không thế thì mày là một thằng khốn kiếp, khốn kiếp!

Tú tiếp luôn hai điếu thuốc lá Camen, lúc về lại tợp một cốt nhắc nữa. Nhồm nhoàm từng tảng patê này đến cục xúc xích khác, Tú còn giơ những nhát giăm bông thái rất to lên, Tú hập hập như chỉ nuốt chửng.

- Bác tài cho xe quay lại, ta đi đường trong, đường Cẩm Giàng.

- Đi đường Cẩm Giàng làm gì cơ ạ? Đường nhà quê không những xóc chết người mà có khi lại bị xẻ, bị hố không đi được.

- Ta lại tắt qua được Hải Dương.

- Thưa, đi đường số Năm qua Bần vẫn được chứ sao? Vả lại, nếu có lệnh gì thì ôtô nhà ta là ôtô quen, và ông thì lại có băng đeo đặc biệt của nhà binh vừa cấp kia mà.

- Tôi có việc về đường ấy. Thôi nào, mở máy cho xe chạy ngay.

Chiếc xe còn gọi là Con cánh cam choáng lộng còn hơn cả xe đốc lý và các chủ nhà máy sang trọng nhất Hải Phòng ấy, tuy cứ phải chồm chồm trên con đường rải đá đã lún ngập dưới các thứ hố thứ rãnh, nhưng Tú lút mình vào góc nệm nhung kê thêm một chăn len và một áo ba-đờ-xuy, nên vẫn không thấy phiền muộn gì cả. Hơn nữa, bao nhiêu hình ảnh rực rỡ tươi đẹp, lại còn như hoa như bướm phơi phới trong tâm trí và trước mắt Tú. Đúng, lúc này một giờ là vàng là kim cương. Vàng và kim cương thật một trăm phần trăm, cụ thể, rõ rệt. Và cũng trăm phần trăm đang ở ngay tầm tay Tú, mấp mé các túi, các cặp và tủ két của Tú.

Được cất giữ để dành cho Tú, món thứ nhất thì đang ở nhà thằng Đờvanhxy chủ thầu khoán, chủ nhà máy, chủ nhà in báo, có không biết bao nhiêu biệt thự cho thuê ở Sa Pa, Tam Đảo, Cửa Tùng, Đà Lạt và ở cả Thụy Sỹ, Pháp nữa, và cũng không biết bao nhiêu tiền gửi các nhà băng Pháp, Ănglê kia. Một con cóc kim cương chứ không thèm là cóc vàng. Là con cóc nhưng còn quái hơn cả cáo già, ác hơn cả chó sói, đã bị Nhật đánh số một vào loại vừa giàu sụ, vừa nguy hiểm. Nếu như đêm nay ở Hải Phòng thằng Bốn Mắt trùm hiến binh Nhật không bắt con cóc ấy thì cũng chỉ ngày mai là lão Râu xanh trên Hà Nội mời vợ chồng nó lên. Vào tay ai chứ vào tay Bốn Mắt quan thầy thứ nhất của Tú ở Hải Phòng và Râu xanh quan thầy đặc biệt của Tú trên Hà Nội, thì đừng hòng kiếm được cái xơ bỏ sót. Đã thế, ba con yêu tinh ấy mà lại thỏa thuận với nhau mấy điều khoản chính trị bí mật gì đó, thì ôi thôi...

Tú cất hẳn lên thành tiếng:

- Mày chỉ còn được ăn cứt... ứt... ưưứt!...

Tú lắc đầu:

- Đờvanhxy ơi! Nếu như mày đã nuốt hẳn vào bụng chăng nữa thì tao cũng phải phanh mày ra mà moi lấy lại những kim cương của thằng Thy San và con Giáng Hương đã cướp về tay tao nhưng vì tao cần tiền đóng cổ phần lớn cho Liên đoàn thóc gạo và Liên đoàn sợi nên phải bán cả cho vợ chồng mày. Chẳng những thế, tao sẽ còn phải bóc hết những kim cương mày vớ bở trong vòng mấy năm nay với giấy bạc in bừa bãi, cộng thêm cái két toàn tiền Hồng Kông của vợ chồng mày nữa!...

"À mà không! Mà không! Sao tao chỉ lấy có những thứ ấy thôi? Chết! Chết! Còn con vợ mày kia. A! Con vợ mày, bôồng đến như thế mà mày còn chê! Mày bỏ chạy theo đít con Rạng hom, bị nó đá cho tam tứ phen khinh hơn mẻ, mà vẫn không chịu thôi. Nếu tối nay thêm một tối lên voi của đời tao thì... bà đầm Đờvanhxy ấy..."

Tú lại nghĩ đến cả Giáng Hương và Dậu.

A ha! Trước đây Tú chỉ dám ao ước được ăn ở với Dậu tại cái Vinla Hoa thiên lý đường Lyông của Đờvanhxy ấy chỉ một ngày thôi, một ngày là quá ư toại nguyện, nhưng nay cái con gái nhảy đẹp, có duyên một cách rất sắc sảo của Đờvanhxy bao kia, còn ra cái thớ gì nữa đối với Tú?

Còn Giáng Hương thì bị Thy San bắn chết rồi! Nếu không thì...

Tú lại xoay xoáy nút chai cốt nhắc, nốc một hơi gần hết phần tư.

Mẹ kiếp, nghe nói cái lão Sơớcxin Tổng trưởng nội các Ănglê, một ngày nạp những hai lít cốt nhắc loại thượng hảo hạng và hít hơn hai chục điếu xì gà mà không việc gì, sống sáu, bảy mươi tuổi còn thừa sức có con, vậy nghiện còm như mình thì thấm tháp gì!...

Trong người Tú rân rân, nóng nực. Càng bị xóc càng phừng phừng khoái trá. Mùi nước hoa và da thịt Giáng Hương mỗi khi thoáng qua thì như quất vào cảm giác người ta bắt phải nhớ mãi mãi, lại phảng phất ở sau gáy và trước mặt Tú. Không! Còn cả mùi nước hoa và da thịt vợ Đờvanhxy nữa. Chợt Tú bỗng rờn rợn nghĩ đến sự quyết liệt tối nay. Tú sẽ cùng bọn Ba lé làm gọn gia tài Đờvanhxy và tất cả vợ chồng con cái y. Và còn bao nhiêu chuyện khác, bao nhiêu công việc khác!

Tú liền gằn giọng:

- Thì kệ cha cả Hà Nội lẫn Hải Phòng! Muốn thằng nào lên đốc lý đốc lung, muốn thằng nào làm nghị viện nghị hòn, muốn thằng nào giữ trưởng, phó ban kinh tế kinh tung, thương mại thương mung gì cũng được! Cốt nhất là cứ phải yên phải ổn, đâu vào đấy. Nhà băng cứ in thêm giấy bạc; thóc gạo vải sợi cứ ngặt nghèo, tăng mỗi ngày một giá; buôn đồng bán sắt cứ tha hồ đấu thầu. Còn cái phố Bônbe này, Ôten Commeécxơ này, bãi biển Pagốt đông này, các hàng các hiệu các nhà máy nhà ga này, các tàu chạy Sài Gòn, Hồng Kông, Tân gia ba, Pháp, Nhật... này, thằng Nguyễn Kim Tú đây muốn ăn ở chơi bời, muốn mua bán, đặt hàng, lấy toa, lấy chuyến, muốn làm mưa làm gió gì ở đâu cũng được hết...

"Ông sẽ đỗ con Cánh cam với hai con chó lài ngồi chầu trên mũi xe ở ngay giữa phố Bônbe trước Ôten Commeécxơ hay trước nhà băng Pháp Hoa. Ông sẽ gọi têlêphôn đặt tiệc lấy tất cả phòng gương ngoài Pagốtđông cho các đàn em và cho cả xóm cô đầu Cánh gà, cả gái nhảy các tiệm các đăng xinh Peécgôla, Nixơvô, Pari chúng nó phá phách suốt chiều thứ bảy sang cả ngày chủ nhật. Ông sẽ chi tiền thuê luôn hai tối Nhà hát Tây để mời các mối, các khách hàng hãng Tân Đông Á và bà con trai gái đất Cảng đến nghe dàn nhạc Phi Luật Tân và Taveéc roayan trên Hà Nội xuống trình diễn với các Tuyết sơn ca, Mai hoàng anh... Ông sẽ cắm cờ vàng hãng Tân Đông Á của Nguyễn Kim Tú cho từng đoàn sà lan và ôtô ngang nhiên chở các thứ mà không ai được phép động chạm tới...

Ông sẽ... ông sẽ...

Thy San ơi! Mày phải xé áo sơ mi mà thắt cổ trong đề lao là đáng đời chó già giữ xương lắm! Ông sẽ vung tiền cho cả mày đã chết rồi kia cũng phải hộc máu mồm dồn máu miệng ra mà chết lại một lần nữa.

Còn thằng Đờvanhxy ơi! Cái thằng không thèm bao giờ giáp mặt tao hay chỉ nhìn qua tao, mặc dù năm lần bảy lượt tao đã đến chầu chực ở bàn giấy thư ký nhà mày để bô báo mối manh công việc - tối nay, mày sẽ được tao hóa kiếp cho mà đi gặp thằng Thy San và con Giáng Hương, tha hồ kênh kiệu, lịch sự, trí thức, phong lưu, văn minh, quyền thế, sống với nhau ở dưới âm... phủ ủ ủ ủ...

Chiếc ôtô có lúc nổi bồng lên như kiệu của công chúa ngày xưa, càng chồm nhảy, vùn vụt với ông hoàng Tú mông nằm ườn trong đó.

- Thế cứ phải là cho đi hết cả nhà thằng Đờvanhxy tối nay chứ?

- Nhất điệng! Nhất điệng! (nhất định, nhất định).

⚝ ✽ ⚝

Chỉ vừa trông thấy một khoảng trời trắng sữa hé sáng đằng xa, Thanh cũng thấy nhẹ cả người, đầu óc như được gội. Không cần phải có thêm người thêm xe cộ từ phía trên xuống để hỏi binh tình, Thanh quyết định quay lại và đi bộ. Tình hình đã rõ quá vì lại có mấy đám xe tay, xe đạp, xe bò hớt hải đi qua, vội vội vàng vàng đáp lời những người gọi mình hỏi chuyện. Thế là đúng Nhật đã nổ súng trước và coi như hạ Tây xong rồi ở Hà Nội. Cầu sông Cái bị cấm, đường qua mé Trường bay, qua ga Gia Lâm cũng cấm. Tất cả các ngả đường chính và dinh sở bàn giấy của Pháp trước đây giờ đều kéo cờ Mặt trời và dán giấy bố cáo của quân Nhật. Không nghe ai nói trông thấy lính Nhật chết cả. Nhưng lính Pháp, quan binh Pháp, các quan Pháp khác, các ông Tây bà đầm thì cứ lũ lượt bị giải đi, lũ lượt xếu mếu. Dân Hà Nội không những chỉ rủ nhau trèo lên các gác cao, các nóc nhà, các cây cối mà còn kéo nhau đến cả gần cổng thành cửa Bắc, cửa Đông xem Nhật bắn. Cuối cùng, nhiều người chỉ tay lại phía sau mà vẫy vẫy:

- Nội bất xuất ngoại bất nhập đấy nhưng ta cứ đi Hà Nội yên ngay rồi. Phố xá Hà Nội ta không sao hết! Chẳng có ai làm sao cả. Có việc phải về quê thì về thôi...

Phải! Sau đây Thanh hãy lên Hà Nội lấy một số sách báo và tìm Trần Văn về Hải Phòng để chắp liên lạc mới. Còn bây giờ Thanh phải đi gặp Xim, hỏi xem Xim nhận định tình hình thế nào, nhất là được biết về sự nhận định tình hình của Tổ chức và nghị quyết chỉ thị công tác mới.

"Cách mạng chuyển sang một giai đoạn đặc biệt đây!".

Những tiếng đó càng vang lên trong tâm trí Thanh, ù ù cả trong tiếng gió lạnh thổi hun hút. Thanh đã bước lên bực thềm một hàng quà, toan ăn một chút gì đó nhưng lại thôi. Thanh còn đúng hai tờ giấy năm hào, - một tờ đã rách đôi phải vá, mà Thanh thấy cần giữ gìn cẩn thận phòng khi qua bến qua đò trên đường từ đây về chỗ Xim. Hay mệt quá sẽ phải tiêu, như mua một đĩa khoai luộc hay bát bánh đúc ngô rẻ nhất cũng mất năm hào để lại ăn trừ bữa.

Thanh không vào hàng. Vừa phần Thanh thấy thật không còn can đảm nhìn thêm bọn vợ chồng con cái và ông cháu hai gia đình phu mỏ nọ vẫn còn ngồi bơ vơ dưới gốc bàng trước cửa hàng, trong khi người mẹ đang khúm rúm xin cho con bé gáo nước uống, thì mấy đứa nhớn đã bảo nhau nhặt ngay những quả bàng rụng, lấy gạch đá đập khêu nhân ăn. Ông cụ thì sợ nhà hàng kêu vía van, cứ rạp người thổi phù phù đống rấm bên gốc cây để châm lửa hút mồi thuốc lào cuộn hút bằng lá bàng quấn tổ sâu làm điếu.

- Ma quỷ! Ma quỷ! Đúng thật là xe Lanhcôn nhà Thy San. - Chợt Thanh kêu lên.

Chỉ vẳng nghe tiếng còi rồi quay lại thoáng nhìn, Thanh liền nhận ra ngay chiếc xe nọ. Đúng mười năm. Bước chân lên đất thành phố nhà máy và bến cảng Hải Phòng đi kiếm công ăn việc làm là Thanh phải chú ý đến chiếc xe Lanhcôn và những người ngồi của nó. Nhưng rồi hơn năm nay, nó đã dần dần xa lạ hẳn với Thanh, đến nỗi mỗi khi nó vút qua bên mình, Thanh cũng như không biết, không bận tâm gì cả. Bao nhiêu cảm giác, bao nhiêu ấn tượng, bao nhiêu ý nghĩ trước đây như là lửa rực, như là tràm đặc đã giội vào não cân và tâm trí Thanh, chẳng những chỉ còn mờ nhạt mà có thể coi như mất hẳn.

A! Bao nhiêu kỷ niệm đã bị xóa gần hết! Kể cả hình ảnh người con gái tên là Huệ Chi mặc toàn đồ trắng nhưng là tang phục, người càng như một cô hồn, ngồi ở góc xe, mấy lần Thanh gặp lại. Kể cả hình ảnh Giáng Hương nữa!

"Người đàn bà dáng vóc, gương mặt, cặp mắt, sống mũi, môi, cằm, ức mà thi sĩ kiêm họa sĩ của Hải Phòng là Thái Trang đã gật gù nói với các bạn rằng: dường như là y sinh ra làm chúa chiếc xe và giành chiếm trí nhớ của nhiều kẻ. Và Giáng Hương như cuồng, Giáng Hương hồ ly ấy cũng sinh ra còn để chịu một cái chết...". Phải, Thanh cũng đã phải xé hết mấy trang nhật ký về Giáng Hương!

Chiếc xe sầm qua, lá cờ đuôi nheo như quất vào mắt Thanh. Lá cờ bằng dạ màu vàng có một hình quả trám na ná giống nhãn hiệu một công ty nhà buôn to nhất của Nhật Bản, thêu nổi dòng chữ đỏ: Tân Đông Á Hải Phòng.

Thanh cau mày nhìn Tú nằm ườn trong xe.

- Quái, ôtô thằng Tú có việc gì mà lại đi đường này? Nhật đảo chính Pháp rồi, sao nó không lên Hà Nội với các bố lùn nó trên ấy? Chắc lại có chuyện gì đặc biệt đây!

"Chuyện, chuyện... Có thể lại quái quỷ như chuyện nó gọi têlêphôn bô với thằng Đờvanhxy trong cái cuộc Thy San bắn Giáng Hương để Thy San bị bắt giam, ức nhục tự tử chết trong đề lao?".

Thanh lắc đầu:

- Làm sao đoán hết được những việc làm táng tận lương tâm, chỉ cần biết có tiền và tiền của những hạng này được! Nhất là trong lúc thay thầy đổi chủ, phải chớp cho nhanh cái cơ hội này. Nhưng thôi, ta phải về báo cáo cho Xim biết cả về việc này. Biết đâu một thằng vô lại sẽ nhảy lên không những chỉ làm công sứ, tổng đốc, mà còn làm cả thủ lĩnh của cái đảng bộ Đại Việt ở Hải Phòng và miền duyên hải? Nó không cần phải liến láu lên đàn lên bục diễn thuyết mà vẫn là nhân vật trọng yếu vì làm ra và làm ra nhiều tiền, một công tác được coi là sinh tử: làm kinh tế!

Thanh lại phải nghĩ đến Dâng.

Dâng đang hoạt động ở ngay giữa khu tam giác của ba đồn trại lính Nhật quan trọng và khét tiếng là ác. Làm tay chân tai mắt cho chúng lại là một tên tri huyện trẻ tuổi, có bằng cao đẳng luật, nghiên cứu rất kỹ các môn triết học, kinh tế, chính trị. Y thường nói ra miệng với mọi người rằng các nước Á đông đúng là phải nhờ Nhật dìu dắt, nên phải cố noi gương Nhật để tiến lên thành văn minh phú cường. Ra làm tri huyện tư pháp có một năm ở một tỉnh nhỏ, thế mà y được thuyên chuyển ngay về gần Hải Phòng, làm tri huyện thực thụ, được cả công sứ tỉnh Kiến An và sở mật thám Hải Phòng rất tin cậy vì sự năng nổ, khôn ngoan cả trong công việc cai trị dân, việc dẹp cộng sản và làm "cách mạng phục hưng" của thống chế quốc trưởng Pêtanh, tổ chức phong trào thanh niên thể dục thể thao cùng bảo vệ các "thuần phong mỹ tục" mà hương lý chức sắc nào cũng tuân lệnh của y.

Khi Thy San chết, vợ chồng Tú mấy lần gọi Dâng sang làm cho mình. Tới ngày chị em Huệ Chi, Bích Nga nhất định không ở nhà quê, đưa nhau về hẳn trên biệt thự của cha mình, thì Dâng xin ra. Dâng nói với chị em Huệ Chi rằng Dâng không ở cho ai cả. Dâng lấy chồng. Dâng phải trông nom mẹ và em chồng. Đúng, Dâng đã lấy Thanh và sắp có con với Thanh. Dâng có mang sáu bảy tháng rồi, nhưng Thanh vẫn không về ở với mẹ với em. Thanh đi đi về về một nhà cơ sở bên bến đò cho gần tỉnh. Thanh ăn ở với bọn anh chị em phu hồ, làm đất, làm gạch, lấy cát, chở than, chở củi. Còn Dâng, vì tổ chức phân công, vì Thanh cũng có, nên Dâng không về ở với vợ chồng Ngọt và hai em ở đường Năm.

Mẹ Thanh vẫn nhất định không nhận Dâng là vợ Thanh, Dâng không phải là người "có đạo", lại ăn nằm với Thanh chẳng có cưới cheo gì cả, hoàn toàn trái với lề thói của Hội thánh truyền. Như thế, cả Thanh lẫn Dâng không những chỉ bán linh hồn cho ma quỷ mà còn coi như là mất hẳn linh hồn rồi.

Thôi, mẹ Thanh đã cố tình không coi Dâng là dâu con và cũng không hỏi han gì Dâng, cả khi biết Dâng đã thai nghén, thì "chúng ta hãy cứ phải chịu sự đau khổ đó ít lâu". Dâng đã nói với Thanh như thế, và những dịp Dâng được lên Hải Phòng, Dâng vẫn luôn luôn về nhà Thanh, mua quà bánh đưa cho Ngơ mà Dâng biết chắc không đời nào mẹ Thanh nhìn đến.

Dâng lại vừa kể cho Thanh biết việc thằng Ba lé và Tú. Hai thằng đã mở một bữa tiệc linh đình mời nhiều tai to mặt lớn của Hải Phòng, Kiến An và chung quanh huyện về dưới ấp An Sinh dự. Chè chén xong, Ba lé đạp xe một mình, gặp Dâng ở dọc đường, Ba lé bám chằng chằng lấy Dâng hỏi các thứ chuyện, các thứ việc. Tại sao Dâng đang ở với chị em Huệ Chi sung sướng nhàn hạ mà lại bỏ đi làm ăn lam lũ như vậy? Tại sao Dâng là gái không "phốt" không "vết" gì cả mà dám chung chạ toàn với những giai ở trại, gái hàng cơm? Thôi thì cô thích tự do, bay nhảy thì lấy quách ta, về ở quách trên Hải Phòng với ta, muốn đi làm cho hãng, cho sở, cho chủ nào ta cũng xin được hết. Bằng không thì cứ việc ở nhà, ngày hai bữa chăm nom cho ta, tha hồ may mặc sắm sửa, sinê, cải lương, đền Sòng, phủ Giầy, chùa Hương, các đám các hội cứ tha hồ mà đi...

- Không khéo chuyến này thằng Ba lé sẽ nhảy lên làm gì ở Kiến An đây. Đã một dạo nó cạo trọc đầu sung vào làm lính Nhật lô can, thì bây giờ nó làm quản, đội lính khố xanh, sen đầm, mật thám càng dư sức!

Không! Thanh cứ phải tin rằng Dâng đã chín chắn, điềm đạm lại tinh ý, Dâng sẽ vẫn hoạt động và càng hoạt động mạnh trong tình hình chuyển biến này. Nhưng dù sao... dù sao... Thanh về được nhà, bảo nhau cẩn thận đề phòng trước vẫn hơn.

Thanh nhìn hút theo ôtô của Tú. Xe không đi đường rải nhựa mà lại đi tắt qua tỉnh Hải Dương, không rõ về Hải Phòng, Kiến An hay Quảng Yên.

Vừa mỏi, vừa khát, Thanh dừng lại, vào một quán nhỏ bên đường ở đầu chợ.

⚝ ✽ ⚝

"Chỗ Dâng nằm vẫn là cái chõng kê ở gian chái của nhà bếp. Một chăn sợi cũ, một tay nải đựng hai bộ quần áo, hai thước vải hoa, hơn chục vuông vải ta, một gói kim chỉ, mụn vải, thuốc cảm, dầu bạc hà và ba quyển truyện Lục Vân Tiên, Quan Âm Thị Kính, Nhị độ mai: đấy là tất cả đồ đạc của Dâng hay là tư trang vốn liếng của Dâng cũng được. Thanh ngồi nán lại bên Dâng một lúc nữa rồi nắm lấy tay Dâng:

- Tôi đi nhé.

Dâng lại ngước mắt lên, long lanh. Gương mặt Dâng tươi hớn. Và khi thấy Thanh lại chăm chắm nhìn xuống bụng mình, thì Dâng cúi mặt, miết miết tay Thanh như có ý giục: "Thôi anh đi kẻo muộn". Rồi Dâng đứng dậy đi với Thanh. Tiếng nói của Dâng nhỏ nhẹ bên tai Thanh:

- Minh cũng được! Hải cũng được! Nam cũng được! Nhưng em thấy đặt tên con là Minh thì...

- Thì hay hơn, đẹp hơn, hay nhất, đẹp nhất, vừa ý cô

chứ gì?!!".

... Thanh tủm tỉm cười. Uống thêm bát nước nóng sút lưỡi, Thanh trả tiền bà hàng, chào mọi người ra đi. Những hình ảnh kia cứ ẩn hiện trước mặt Thanh. Và khi Thanh nói thầm câu trên đây thì Thanh thấy loa lóa mặt trời đã lên cao, chiếu hẳn vào mắt mình. Tiếng chuyện trò cười nói, tiếng gồng gánh lợn gà ồn ồn hơn. Còn cả tiếng gọi, tiếng nô đùa của các trẻ con theo mẹ theo bà. Thanh đi lẫn vào một đám gánh khoai và rau dưa, nghe các bà kể chuyện về giá cả thóc gạo, về cân thóc cân đay, về tin tức Tây Nhật đã đánh nhau to ở Hà Nội. Dân chúng vùng đây không hiểu đã được tuyên truyền giác ngộ từ bao giờ mà Thanh thấy như chính họ giải thích lại cho Thanh. Nhiều người còn cho Thanh biết cả binh tình Nhật Pháp ở ngoài tỉnh và mấy nơi khác. Sự đi lại vẫn như thường. Người mình ai vẫn cứ việc nấy.

- Về vùng dưới bây giờ tội đếch gì mà qua cầu Phú Lương, cầu Tiền Trung để Nhật nó giữ lại khám xét và đuổi đi đường khác. Cứ đường trong này mà đi, nhỡ tối thì vào làng vào xóm ngủ đỗ, nhờ thổi nấu ăn, mai đi sớm càng yên trí, càng khỏe chân!

Thanh chỉ nghỉ một lúc buổi trưa. Gần tới nơi, Thanh chưa kịp nhận ra trong bóng tối con đường nhựa, dãy phố và xóm nhà Ngọt thì thấy bước chân như ríu lại. Không phải vì Thanh cả ngày nay chỉ có được mỗi đĩa bánh đúc ngô lót dạ. Cũng không phải lúc gần về chiều sương xuống, Thanh gây gấy rét, mồ hôi trán cứ xâm xấp, tưởng chừng đến phải nằm lại ở dọc đường. Khác hẳn cái phố ga Lạc Đạo gần Hà Nội hôm qua tàu bị nghẽn, cái ga chợ xa thành phố Hải Phòng này, không hiểu đêm qua và ngày hôm nay có bị ảnh hưởng gì về cuộc ông Nhật ông Pháp bắn nhau không, mà lại thấy tấp nập, đèn sáng hơn cả buổi chiều hôm chuyến tàu Thanh qua đây.

Xim đang nói chuyện với Ngọt. Thanh theo Xim xuống gian chái nhà ngang, ngồi nghỉ trên phản. Thanh đang uống hết chén nước này đến chén nước khác chờ Xim lên nhà trên có việc, thì bỗng bị gần như choáng váng, hoa cả mặt mày. Thanh đứng hẳn dậy, ôm chầm lấy cái người đàn ông trán hói đi vào, gọi ngay tên Thanh, tươi cười và bình tĩnh như sự gặp gỡ này đã sắp trước.

Thanh càng lập cập, cuống quýt:

- Anh Chấn! Giời ơi, anh Chấn! Anh Đấu!

Ngọt ở trên nhà xuống, gương mặt càng hớn hở:

- Việc canh gác chu đáo lắm, nhà em và hai thanh niên lại đảm nhiệm. Hai anh và chị cứ họp nhé. Em chỉ còn việc thổi nồi cơm và luộc mấy mớ rau cải xong là cả nhà cùng ăn.

Chấn nắm tay Thanh. Thanh bíu hẳn lấy vai Chấn, nước mắt giàn giụa, nấc nấc:

- Ngàn chín trăm ba mươi bảy - Ngàn chín trăm bốn nhăm. Từ ngàn chín trăm ba mươi bảy...

Chấn gỡ gỡ cánh tay Thanh, rung rung vai Thanh, nhìn vào mắt Thanh, cười cười:

- Thế nào, cái Trán nứt của cậu sắp ở cữ phải không? Nghe nói nó vừa ho vừa sốt, yếu lắm! Thôi chuyến này hai đứa phải ở gần nhau để cậu chăm nom cho nó và cậu công tác cũng tiện. Cậu tiêm còn thạo hơn cả anh-phia-miê đấy à!?

Xim ngước mắt nhìn cái trán hói và khổ mặt xanh xao của Chấn:

- "Thế còn mình thì phải đến bao giờ? Tổ chức đã đồng ý bảo hai đứa muốn tuyên bố lúc nào cũng được mà. Đi tù đi căng về còn ốm mà lại công tác ngay thì cũng phải uống lấy tễ thuốc, hay tiêm vài tá thuốc bổ chứ. Ông Lông cặm ơi! Ông đừng tưởng như thế là có tinh thần"...

- Ở đây tối nay rồi sớm mai thì về. Cậu phải về bám nữa lấy đường phố Hải Phòng.

- Anh Chấn đã nhận được chỉ thị mới? Trung ương đã có nghị quyết mới? Từ hôm qua đến nay tôi sống như một giấc mơ ấy.

- Sao lại như một giấc mơ? Coi chừng mơ hoảng thì chết! Tình thế mới này chỉ là một sự tất yếu mà Đảng đã có nhận định từ lâu và kiên quyết đưa phong trào tiến lên.

Thanh ngượng ngùng: "Nhưng mà sau sáu năm bỗng nay lại gặp anh thì không phải như trong giấc mơ ư?". Thanh càng ngập ngừng:

- Ta chuẩn bị khởi nghĩa, phải không anh Đấu?

- Phải, ta tích cực chuẩn bị khởi nghĩa. - Chấn nhấn mạnh hai tiếng "tích cực" như để xác định kỹ thêm với Xim về tinh thần, thái độ cùng các chủ trương, hành động và tổ chức đã nhất trí trong mấy buổi họp trước, nhất là trong buổi họp sắp tới khi nhận được chỉ thị mới của Xứ ủy và nghị quyết của Trung ương sẽ còn làm sáng rõ và mở ra rất nhiều triển vọng.

Chợt có tiếng tù và, tiếng mõ ở phía làng trong và bên kia đường nhà ga.

- Động hiệu gì mà nhiều tù và, nhiều mõ thế, chị Xim?

Xim cười, nhìn Thanh. Càng thấy tự hào, nhưng Xim vẫn giữ nét mặt khiêm tốn, tự nhiên:

- Tổ chức tự vệ mới thành lập của mình đấy! Ngay trưa hôm nay, cả mấy làng có nhiều cơ sở đều rào hết cổng ngõ. Các thanh niên xin vào hết tự vệ chiến đấu. Họ đang tập báo động liên hoàn. Tiếng tù và rúc gần, thúc giục dồn dập ấy chỉ lại là của chồng cô Ngọt nhà ta đốc canh. Chả là cậu chàng phụ trách khu này mà.

Chấn nhíu nhíu trán:

- Chúng ta phải tích cực vận động không những chỉ thanh niên mà cả những tuần phiên, canh điền, đinh tráng ở cho các hương lý, chủ ấp, cả những học sinh, những người đi làm các nơi có lai lịch tốt và còn khỏe mạnh chạy loạn về cũng vào tự vệ.

Thanh ngước mắt như có ý hỏi cả Chấn và Xim:

- Nhưng võ khí đâu mà phân phối cho đủ và cán bộ đâu để nắm cho thấu?

- Trước nhất là các đồng chí đảng viên và các đoàn viên cứu quốc phải làm cán bộ chủ chốt. Rồi kinh qua đấu tranh, từ quần chúng sẽ đào tạo nhiều thêm, trưởng thành gấp lên. Còn vũ khí thì tre đấy, sắt đường tàu đấy, gậy tày, quắm, câu liêm, thiết lĩnh, dao phát bờ... Rồi đây thì súng huyện, súng đồn, súng trại, súng của Pháp tước được, súng của Nhật cướp lấy...

Các tiếng tập báo động càng rền rền, thôi thúc, rùng chuyển. Như một tia sáng, một tia sáng cực kỳ chói ngời và mãnh liệt vụt lên: ý nghĩ và sự quyết định đưa quần chúng được tổ chức, được võ trang xuống đường đi đầu trong các cuộc đấu tranh, mà cuộc đấu tranh khẩn cấp, sống còn trước nhất trong lúc này là phá kho thóc, cướp thóc và chia thóc cho các nông dân đang bị đói và đã có người chết đói. Xim mím mím môi, ngón tay miết miết xuống chiếu:

- Ngay đêm nay ta khai hội với chị em phụ nữ xong, nếu bố Vy về kịp thì hay quá, không thì sáng sớm mai phải cùng Chấn cùng Cao hội ý ngay về vấn đề này! Không! Không thể nào quần chúng đã có súng gươm giáo mác trong tay, đã đi vào thành hàng ngũ mà vẫn còn người chịu khổ cực, chịu đói, chịu chết đói!

Những chữ "chịu đói", "chịu chết đói", lúc thì vằn vằn như khói, lúc thì ngùn ngụt như lửa, lúc thì tua tủa như chông gai, bùng nhùng, rần rật trong tâm trí Xim. Chấn bỗng gọi hẳn tên Xim, giọng trầm chắc, càng dễ dàng nhưng không giấu nổi một sự lo lắng dữ dội về trách nhiệm có cả niềm vui và hy vọng:

- "Ta phải hết sức tập dượt và sớm mở các cuộc đấu tranh cho quần chúng được võ trang và tiến hành mấy việc đã bàn định theo sự đề xuất của Xim. Thời cơ rất thuận lợi rồi! Cả cậu Thanh nữa, cậu phải chịu khó, phải triệt để lợi dụng tình hình mà càng đẩy mạnh công tác...".

Trong khi Chấn dẫn giải mấy công việc cơ bản và trước mắt, Thanh vội điểm thầm tên mấy đồn lính khố xanh, lính huyện và cả số đinh tráng trong mấy đồn điền, ấp trại mà Thanh và Dâng gây dựng được cơ sở. Còn Xim lại bồn chồn mong Vy bố được cử gấp lên gặp Xứ ủy xin chỉ thị mới về và Cao ở trong Hải Phòng ra cho biết tình hình mấy nhà máy lớn, mấy hãng chuyên chở và bến tàu bến xe có mối của Xim.

Trước khi ăn cơm với cả nhà, Chấn dặn thêm Thanh phải hết sức chú ý đến tin tức những anh chị em tù chính trị ở các đề lao, trại giam trốn được về nơi mình trong dịp này và phải báo cáo cho Tổ chức nắm được rất sớm rất đầy đủ tình hình địa phương. Xim lại nhẩm tính các mối liên lạc sẽ chắp thật sao cho nhanh với các đồng chí ấy và rấm sẵn các cơ sở để đón anh chị em về hoạt động được ngay.

Mâm cơm không dọn trên phản mà ở dưới ổ rơm, kê thêm mấy chổi lúa để ngồi. Thanh đã luôn luôn tự nhủ không nên lộ liễu và lạc quan quá, nhưng cứ phải dán mắt vào Chấn, ngắm từ cái trán, gồ má, quầng mắt, cằm, xuống đến vai, ngực, cánh tay bàn tay rồi lại ngắm lên. Chuyện với Thanh, Chấn chỉ nói sơ sơ mấy cảnh mấy việc của nhà tù và trại giam mình vừa thoát khỏi, chứ không đầy đủ, tỉ mỉ trước sau như về Sơn La và Côn Lôn năm xưa chuyện ở trên cái gác nhỏ cơ quan đại lý báo Thời thế đường Cát Dài, Chấn và Thanh nằm gác đùi nhau trong hai tấm chăn sợi cũ lồng lại, hay ở những bữa ăn có cả mẹ Thanh, em gái Thanh hồi còn ở xóm Cấm.

Nhưng khi hỏi đến mẹ Thanh thì Chấn vẫn gọi bằng

"bà nhà" hay "bà" với nguyên tình thương nhớ và quý mến đặc biệt.

- À cậu Thanh này, nghe nói mấy nhà nghệ sĩ giang hồ lạc phách ngang tàng nhất của Hải Phòng chơi với cậu ấy, dạo này bàn tán rất hăng về chính trị. Cậu đã báo cáo lên Tổ chức rằng họ làm cả thơ tặng anh em cộng sản đi tù Sơn La, Côn Lôn, và họ soạn mấy bản nhạc về những chiến thắng Bạch Đằng giang và Chi Lăng cho trẻ con và hướng đạo sinh hát... cậu nhớ gửi các sáng tác đó cho mình nhé.

- Còn cậu và cái Dâng - Chấn lại mủm mỉm cười, có nói năng phân giải với bà về linh hồn, về Chúa, về cuộc đời, về xã hội này... thì đừng có lối lên lớp hay báng bổ. Tám chín năm rồi còn gì! Cậu vẫn hoạt động được, rồi lấy vợ, cả vợ cũng hoạt động. Con giai con dâu thì thế, còn bà vẫn cứ thương yêu giúp đỡ những người nghèo khổ, thỉnh thoảng lại nhận cả tài liệu và liên lạc cho con, như vậy không là giác ngộ thì là gì? Quần chúng tiến được đến thế là cơm là gạo là sách là báo là súng là đạn của cách mạng đấy. Rồi phong trào sẽ có không biết bao nhiêu người như bà nhà ta thành Pêlaghê của Gorki cho cậu ngẫm.

Chao ôi, bà mẹ ho hen của Thanh, bà mẹ chỉ đọc kinh và nghĩ đến sự chết mà Chấn cả quyết như thế đấy, sau hơn sáu năm xa cách.

Vừa xong bữa cơm, Chấn ra đi ngay với liên lạc về cơ quan để đón Vy bố. Còn Xim xuống mấy khu dưới để khai hội với hội viên nông dân và phụ nữ rồi lấy thêm tin tức về cả binh lính Pháp, binh lính Nhật để sắp xếp công tác mới.

Gần sáng, chồng Ngọt mới về cùng với một thanh niên tự vệ. Anh chàng chùi chùi dụi dụi chân vào cái chổi lúa, kéo lại đôi chiếu đắp cả cho Thanh cho bạn và mình ở ổ rơm. Thanh phải nghe ngay những tiếng ngáy pho pho và một làn hơi nóng sực vào gáy vào lưng mình. Trong giấc ngủ, Thanh lại nghe thấy những tiếng súng và những tiếng nổ. Những tiếng súng và tiếng nổ rất khác lạ chưa bao giờ có như thế. Những tiếng súng và tiếng nổ của mình, phải, của mình, của Cách mạng vùng lên bắn vào quân thù, mở rộng tiến đánh khắp nơi...