← Quay lại trang sách

Khi Đứa Con Ra Đời Chương 3

Hai đứa bé ở đầu phố nhà Huyền Linh mà Thái Trang phải để ý ngay từ buổi lên đây thế là đều chết. Thằng nhỏ, chiều hôm qua; thằng lớn, có lẽ tối khuya hay sáng nay. Hai anh em nó không còn ngồi nữa. Thằng nhỏ nằm gối đầu lên cánh tay anh hẳn hoi, mà anh thì nằm nghiêng quặp lấy em. Một đầu gối nó gác lên bẹn em, một cánh tay ôm vòng lấy lưng em, còn mặt nó thì ấp vào mặt em.

Mặt trời đã lên cao. Ruồi nhặng như một lớp vỏ đậu dầy đặc bu kín trên mặt chúng nó. Hai khổ mặt lúc sống đã gần như không phải của người, mà nếu nghĩ rằng đấy là của người, thì kẻ nghĩ nọ không thể nào cầm lòng được, trừ phi đã táng tận cả lương tâm và cảm xúc. Thái Trang đã tê tái cả người suốt từ khi thoáng trông cho tới bây giờ; hai hình ảnh ấy không hiểu sao lại bập vào não cân mình một cách đặc biệt như thế. Cả hai đứa đều cười cười. Thằng anh thì nhăn nhúm cả mặt, nhe hết cả răng, mắt cứ chớp chớp, và lập bập nói như người già móm:

- Cậu!... Cậu cho hai anh em cháu năm xu. Đây cháu đã có bốn hào rồi (nó giơ hẳn mấy đồng kền và hai tờ hào giấy lên)... cậu cho năm xu... cháu lại xin được năm xu nữa thì mua được nắm cơm cho em cháu ăn. Cháu chỉ để em cháu ăn thôi! Cậu mà không tin thì cậu bảo tất cả chúng nó đây, cả mấy "người" ăn xin bên kia đường kia kìa làm chứng, cháu mua cơm mà chỉ ăn vèn của em cháu một hột cơm thôi, thì cậu lấy... cơm lại... và bảo đừng ai cho tiền cháu nữa!

Đúng lúc Thái Trang không còn một đồng xu dính túi. Khi tối đi chơi, Thái Trang đã lấy tiền của Huyền Linh, định cho em nó hẳn năm hào hay một đồng, nhưng hai đứa sợ đêm mưa đã đưa nhau vào trong chợ, ở đây có không biết bao nhiêu trẻ con người lớn nằm ngồi la liệt cứ lúc nhúc rào rào, nếu Thái Trang chỉ bước chân lên bực thềm thì...

Hai hôm rồi bốn hôm, sáu hôm, đứa bé đã nằm liệt, thằng anh thì chỉ còn ngước đôi mắt lờ ngờ nhơn nhớt máu cá mà nhìn để van xin người qua đường.

Từ cái phố của người nhà Huyền Linh sau chợ Hôm rồi qua chợ Hôm lên đến chỗ tàu điện tránh ở phố Huế này, Thái Trang đã phải quen mặt gần hết những người "đi" ăn mày rồi chết ấy. Đàn bà con mọn, cụ già, đàn ông, kẻ ở gốc cây, cột đèn, người ngay bên rệ đường, bờ rãnh, đống rác. Trước còn chỉ thấy ban ngày, sau cả đêm, họ cứ nằm cả đêm cả ngày mưa nắng nguyên một chỗ rồi chết. Thái Trang không dám lấy một ký họa người nào, mà chỉ dám ghi rất vội cảnh vật và không khí xung quanh. Thái Trang tin chắc rằng sau đây, nếu Thái Trang không bị suy sút hay bệnh tật gì về óc não, thì Thái Trang có thể hồi hiện lại từng người trên quãng đường hơn tuần lễ Thái Trang đi đi về về này.

- Ông Trang ơi! Hai Thiên thần Hoa hồng của ông thế là cũng bị tiêu nốt trong cái địa ngục của Đói rồi, vậy ông định cho anh em nghe thơ, kịch hay truyện ngắn của ông đây?

Huyền Linh lay lay cánh tay Thái Trang khi đi qua khỏi chỗ hai đứa bé chết và mấy gốc cây, mấy cột đèn cũng có những kẻ gặp từ mấy hôm nay, bây giờ đã chết cứng, hoặc đang hấp hối tuy vẫn còn ngồi được. Mọi khi Thái Trang chỉ mỉm cười làm thinh trước các loại câu hỏi ấy, nhưng nay Thái Trang lắc lắc đầu, nét mặt nhăn nhúm:

- Ta lại bất lực đến thế này ư?!!

Huyền Linh gật gù:

- Ông lại định đặt câu hỏi không phải cho ông mà là cho cả cái nhân gian này phải không?

Trần Văn đứng hẳn lại, vuốt vuốt mái tóc sã cánh lên.

- Trước những cảnh này cũng như trước tình hình này mà không tỏ rõ thái độ thì đã là một kẻ khốn nạn rồi, mà lại còn đỏng giả, nói ngang, nói quấy thì đó là tội ác! Mà khi phạm tội này, dù có lấp liếm bằng bất cứ lý luận, lý thuyết, chủ nghĩa, chủ trương hay chiến lược, sách lược gì, kể cả các loại lý thuyết gia, tư tưởng gia, học giả gia như thằng Thiết Phủ - Búa thép kia, thì cũng không thể trốn tránh trước lịch sử được đâu. Hơn thế nữa, lại phải còn tự nhận lấy một cái mặt nạ đeo vào mặt mình với mấy chữ: Tôi là một thằng đểu!

Thái Trang lặng hẳn đi nhìn bộ mặt rất trịnh trọng và kiên quyết của Trần Văn - cái bộ mặt còn phờ phạc vì đêm qua lại vào một trận rượu say, nôn thốc nôn tháo ra cả mật xanh mật vàng.

Huyền Linh chợt xua tay:

- Kìa kìa, lại biểu dương biểu âm, thị oai thị oái gì thế kia!

Từ ngã tư đường Gămbécta, chỗ sở mật thám của Pháp trước, nay đặt bàn giấy của một bộ phận hiến binh Nhật, lố nhố một đoàn chừng bốn năm chục gã mặt mày câng câng, chen vào mấy con gái rất gượng gạo, nên phải cố làm bộ tự nhiên đàng hoàng, vừa bước lộn xộn, dễu dợt, vừa eo éo trong những tiếng hát như gào:

... Này thanh niên ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng,

Đồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống!...

Mấy người hàng phố và mấy người đi đường, kẻ tò mò nhìn, kẻ phớt lạnh, kẻ bĩu bĩu miệng, có mấy thằng bé chạy thụt vào nhà hát theo:

... Này thanh niên ơi! Quốc gia đến ngày chết đói

Hóa rồ mà đi.. đi theo cái loài mất giống...

- Giời đất! Các ông mãnh ơi! Mấy thằng đeo băng vàng cồm cộp súng lục bên hông đang trông theo kia kìa!... Có muốn cả nhà bố mẹ chúng mày ăn đòn "âm dương" vì chúng mày đấy không?!!

Quãng đầu đường Hàng Bài lên nhà Gôđa và phố Tràng Tiền đông người hơn. Những người hình như không còn công việc gì nữa, bảo nhau đi chơi xem phố phường, xem quân Nhật ban ân độc lập, tự do như thế nào sau hơn một tháng rồi. Đây cũng được quét tước sạch sẽ, cấm ngặt các ăn mày không được nằm ngồi, nên quang cảnh cũng có vẻ vui vui vì mấy nhà hàng to mở rộng cửa, bật cả đèn ban ngày, và treo cả cờ Nhật và cờ vàng quẻ Ly.

Bỗng những tiếng kêu thất thanh rồi đường phố từ hiệu sách Tô-panh cứ rùng rùng người chạy, người thét, người gọi, người nói và chửi bới:

- Lôi cổ chúng nó! Đánh chết cha chúng nó đi. Lôi ngay cổ chúng nó xuống! Phá cho tan cửa hàng nhà nó ra...

- Bọn Tây và vợ chồng nhà hàng cà phê, bánh sữa Bôđêga vừa đứng ở ban công khạc nhổ xuống đường kia kìa.

- Bọn Tây và vợ chồng hiệu Bôđêga đang chửi Việt Nam ta kia kìa...

- Phá! Phá! Phá tan nhà chúng nó đi thôi!

- Đánh chết cha chúng nó đi thôi...

Càng thấy thêm nhiều người hớt hải cuống quít. Họ giằng cả các đòn gánh, càng xe mà chồm chồm định xông vào phá cái cửa hàng bánh nổi tiếng là sang nhất Hà Nội, có hai vợ chồng thằng Tây đến giờ Nhật làm phúc không bỏ tù mà vẫn còn dám tụ bạ bạn bè đểu cáng như vậy với người Việt Nam. Chỉ loáng cái, từ các ngã tư đường Hàng Trống, đường phố Huế, đường Bờ Hồ cũng ồn ồn ầm ầm lên, đổ dồn người xuống. Xe điện phải dừng lại ở trước nhà Dây thép vì các trẻ em chạy theo bám lấy, mấy đứa ngã suýt chết, và đường tàu thì bị nghẽn vì tắc lối, xốn xáo nhớn nhác.

Hai tàu bò và ba căm nhông sơn xám lại rầm rầm kéo qua. Những lính Nhật giữ súng liên thanh đứng nhô hẳn đầu lên ra khỏi các cửa tròn tròn mắt cáo. Dưới những mũ sắt, thoạt trông vẻ mặt họ thì thấy nghiêm nghị như không thể mảy may gì làm cảm động được. Nhưng cả bọn này cũng như bọn lính đội mũ vải chum chủm, xăm xắm lưỡi lê, đứng trên ôtô đều ngây dại, thẫn thộn thế nào ấy, khi qua quãng ngã tư nhốn nháo ầm ĩ nọ sắp nổ tung thành một cuộc phá phách hỗn loạn ghê gớm lắm!

Đi khỏi cái tháp gạch xây bên bờ hồ, nay dán chi chít các thứ bố cáo, yết thị, tuyên bố, lời kêu gọi, vân vân, của cả quân đội Nhật và các tổ chức không hiểu mọc ra để làm gì,... bọn Thái Trang đã bớt khổ vì sự huyên náo hỗn loạn. Nhưng cảnh người chết từ đây lên bến tàu điện, đầu Hàng Ngang và phố Cầu Gỗ ra đường Bờ sông lại càng kinh khiếp hơn. Mặc dù các xe nhặt xác đêm qua và sớm nay đã tải vội đi hàng chục chuyến rồi cả người đang ngắc ngoải, nhưng ở các gốc cây bờ hè và bên bờ cỏ mép hồ, người đói chờ chết vẫn la liệt, mà hình như không một kẻ qua đường nào dám thấy mình cho họ dù hàng đồng hàng chục đồng chăng nữa mà thoát được nạn này. Bởi vậy, kẻ đi thì lặng lẽ, rảo bước. Người xin thì chỉ giương mắt nhìn và cũng chẳng van lạy gì nữa.

Trời mây đã xám xám, lởn vởn những hơi những khói hôi thối, lại còn ruồi nhặng vo vo từng đàn trên đầu người ta, càng làm không khí nặng thêm như chì, như át xít. Tháp Rùa đen mốc, im lìm giữa một mặt nước xanh rêu, chẳng còn là hình dáng bông sen mảnh khảnh thơ mộng nhìn từ phía xa... Khu đền Ngọc Sơn cũng như bỏ hoang, mấy con quạ cứ rà rà bay lên bay xuống. Chân Tháp Bút đầy người nằm gối đầu, ấp cánh, xoạc cẳng, gục mặt ở những mô cỏ dưới bệ đá. Hai gốc gạo năm năm hoa nở như những mâm bồng xôi gấc ở lưng trời, và ríu rít các tiếng các đàn chim lớp này chưa đỗ xong lớp khác đã kéo đến từ ngoài sông Cái và bên Bắc rủ nhau về họp, giờ úa thẫm, hoa nát ruỗng rụng đầy lối đi, đầy mặt cỏ.

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ

Cảnh đấy người đây...

Thái Trang nấc lên, gục bíu lấy vai Trần Văn:

- Giời ơi! Còn viết được cái gì bây giờ đây? Viết làm sao được bây giờ?!!

⚝ ✽ ⚝

Một ôtô đâm bổ vào bọn Trần Văn. Cửa mở xình, một người nhảy ra:

- Úi giời ì ì...! Các đười ươi bú khỉ nhà ta bỏ Hải Phòng lên đây làm gì mà biệt hẳn tăm hơi thế?! Thôi... thôi... lên ngay đây, lên ngay với cánh này thôi.

Tú mông rạp người chào và lôi xềnh xệch Huyền Linh trước tiên vào xe, vừa giơ cánh tay xem đồng hồ:

- Đúng chín giờ, mới có chín giờ!

Huyền Linh lạnh phớt:

- Chín giờ! Làm gì mà phải giờ giấc thế này?

Tú mông khoác cánh kéo tiếp Trần Văn vào xe, vừa nhoen nhoẻn đáp lại Huyền Linh:

- Nghĩa là còn phải hai giờ nữa tức là mười một giờ thì kẻ hạ tiện này xin được hân hạnh và diễm phúc tuyệt vời mời các nghệ sĩ con cháu của Thần minh đi... ăn cơm tám giò chả.

- Đếch vào! Đếch vào!... Không Đông Hưng viên thì phải Adia cơ!

Huyền Linh hắt xì một tiếng. Tú mông nhăn mặt xua xua tay:

- Kìa kìa... chư vị cứ thử đả một bữa "cơm dưa muối" này với đệ! Thật là dưa muối đấy, ở hàng cơm Bích Ngọc phố Hàng Buồm ạ ạ ạ.

Đến Thái Trang, Tú mông không bỗ bã quá, nhẹ nhẹ đỡ cánh tay Thái Trang, mời lên ghế trên bên cạnh mình. Khi mọi người đã ngồi xuống, Tú mông liền dang tay giới thiệu một người mặc quần áo nhà binh Nhật nhưng không có lon có vành gì cả:

- Đây là cận vệ pháo thủ binh tiền tham mưu bộ, của tướng... à à... thống chế... thống chế Sađicácnô mặt trận Vécđoong 1914 - 1918, ông Ba Kình cố vấn của đệ, đệ xin phép được giới thiệu với chư vị.

Như thoát được một khúc rất nguy tai vì trót nói đến tướng và thống chế mà Tú mông giật mình thấy không nên động tới cái tên húy Pêtanh đang bị đả đảo lúc bấy giờ, vì vậy sực nhớ ra cái tên Sađicácnô đặt cho đường phố nhà Tú mông ở Hải Phòng, và là tên một ông tướng nổi danh trong một bài tập đọc ở cuốn Quốc văn giáo khoa thư lớp Dự bị năm xửa năm xưa đã làm Tú mông suýt phải đuổi ra lớp học vì tội nhạo báng, thì Tú mông liền chộp lấy mà đặt vào cái trận Vécđoong này. Nhân tiện phong luôn cả cho bếp Kình là cận vệ pháo thủ binh tiền tham mưu bộ. Bếp Kình từ sáng đến giờ lại ngây ngất, tuy đêm qua còn say hơn bọn Trần Văn nhiều, nhưng không nôn. Bếp Kình vốn là sâu rượu, giờ lại như được tắm bằng những hòm rượu cốt nhắc của hầm rượu nhà Thy San và rượu Uýt-ky của Tú mông mới khui được của mấy mụ chạy hàng Hồng Kông cho trại Nhật, nên người lão cứ như nhập đồng, lảo đảo chẳng cần biết gì trời đất.

- Bác xốp phơ, đổ chư vị lại quán Tuyết Thiên nga ở chợ Hàng Da nhé.

Tú ra lệnh cho người lái xe, vừa quay lại nháy Huyền Linh:

- Được chứ?

Huyền Linh càng lạnh nét mặt:

- Làm trò gì ở đây thế? Sao không ra Lơlắc (nhà Thủy tạ)?!! Tuyết Thiên nga hay lại Tuyết Thiên binh!

Nghe vặn hỏi, Tú lại làm bộ đau khổ vô cùng:

- Thì chư vị hãy thử cứ theo sự xướng xuất của đệ nào. Đúng là chư vị sinh ra là để hành người ta đấy!

Trần Văn đưa mắt nhìn Ba lé phải ngồi nép lại để lấy chỗ rộng cho Huyền Linh, và sực nhớ ra Ba lé một dạo tấp tểnh kều cả Tuyết đen tức Tuyết Thiên nga bán kem máy cho Nhật này ở phố Cầu Đất, mà nhiều bọn trai Hải Phòng đua nhau trưng diện và tỏ tình, tỏ tài, coi đó là một trận đấu yêng hùng với bọn quan nhà binh và nhà buôn Nhật. Hơn tháng nay, nghe nói Tuyết đen lên Hà Nội, thì ra mở quán. Quán Tuyết Thiên nga, không hiểu lịch sự, tân kỳ và nhiều thứ lạ như thế nào, mà tiếng đã đồn về Hải Phòng. Tại đây không phải chỉ là nơi để tiêu tiền, mà còn là một sà lông đặc biệt dành cho những ai muốn hiểu biết và gặp gỡ những con người của thời đại, của chính trị hiện nay.

Xe Tú đến đường Hàng Gai, nổi còi luôn. Vừa phần đường chật, có tàu điện chạy; vừa phần để trưng bảnh với dân Hà Nội. Tuy xe đã cũ, nước sơn kền bạc, nhung lót, cửa kính không còn bóng lộn, và ở cái góc mọi khi dành riêng cho Giáng Hương, Huệ Chi hay Bích Nga ngồi, đệm đã lún, sờn mốc và hình như bị tẩy gột vì nước nôi đổ vãi hay người ta nôn oẹ... nhưng xe vẫn bon bon rất êm, loang loáng dưới trời nắng. Con Cánh cam Hải Phòng vẫn làm nhiều người thảng thốt trông theo và đoán hỏi chủ và khách ngồi trong xe là ai?

Lần này, xe Tú dừng lại sau mấy tiếng còi báo rất nhẹ từ xa. Cửa chỗ Tú ngồi ghé đúng sát trước cửa quán Tuyết Thiên nga, và Tú bước ra đúng ngay bờ hè. Xốp phơ đã vội mở cửa cho Tú, còn Tú thì như một người đóng kịch, dang sẵn cánh tay, cúi đầu tươi cười mời từng người của bọn Huyền Linh. Một bên rèm trúc vẽ hình ngôi lầu dưới chân ngọn núi tuyết và trông ra biển xa sóng bạc, có ngay người vén lên, kính cẩn chào. Tú gật đầu và reo lên:

- À, Tuyết Thiên nga nữ chủ nhân lệ kiều của Hải Phòng chúng ta có mặt ở quán mà!

Tú reo lên. Sau cái quầy sơn then, kẻ mấy đường chỉ vàng rất ý nhị, bày một bình hoa men rạn cắm một cành mai nở vài bông hoa trắng như chỉ ai đụng nhẹ đến là rụng mất, Tuyết Thiên nga tóc tết kiểu Nhật Bản, mặc áo len màu cẩm thạch, chỉ hơi cúi đầu và cười như có vẻ không bằng lòng lắm vì sự bô lô ba la nọ.

Một người bồi quần áo trắng là, đầu chải rất nhẹ, đeo kính trắng cận, da dẻ như con gái, bưng ngay ở trong nhà ra một khay bày một bao thuốc lá nhãn hiệu Lạc đà của Ănglê mời:

- Thưa ngài, hôm nay lại có dâu và lê hộp mới đấy ạ.

Tú rất nhã nhặn:

- Cám ơn! Cho tôi sáu cốc dâu dầm rom. Ai thích nước sôi thì chỉ để ngâm đến nửa cốc thôi nhé.

Huyền Linh ồ lên một tiếng:

- Và thêm... à vị nào uống rom xếch (1)với đệ nào!

-----

[1] Rượu rom uống không pha.

Đến bây giờ bếp Kình mới như sực tỉnh:

- Phải, phải gọi thêm rom... thôi cứ cả sáu cốc đi...

Ở góc nhà phía trong, dưới bức tranh thủy mạc vẽ một bóng thuyền và ánh trăng treo rủ từ trên cao xuống, hai cặp trai gái đang ăn bánh, uống nước cam vắt, chuyện trò rất ý tứ và cũng rất tình tứ! Ở giữa nhà, bức sơn mài vẽ hai đôi thiếu nữ Việt Nam sóng bước đi trong một đêm hoa đăng đúng là của họa sĩ Nguyễn Gia Lê nổi tiếng bực thầy hồi bấy giờ. Bàn nước kê chỗ đó có ba người đứng tuổi, hai ăn mặc có vẻ là những tay đại kinh doanh hào phóng; còn một thì lại làm bộ đại mô phạm hạng giáo sư hay công chức ngạch Tây, sống rất kiểu mẫu và biết tự trọng. Chiếm mình một bàn ở góc ngoài, người trẻ tuổi mặc quần soóc đũi, áo sơ mi cộc tay ba túi cũng bằng đũi, không ăn gì cả, mặt lầm lầm. Gã hút từng hơi thuốc lá rất sâu, luôn luôn trông ra đường, cố ý để người ta thấy mình đang có một cái hẹn hay một việc gì thuộc vào loại quốc gia hay chính trị trọng đại. Đó là Đỗ Đức Phan trước dạy tiếng Anh sau dạy tiếng Nhật và soạn sách cho một hiệu sách và nhà in to nhất Hà Nội Hải Phòng, giờ đây là nhân vật tuy không ra mặt nhưng rất thần thế trong Hiến binh Nhật ở Hải Phòng.

Chờ bọn Huyền Linh tợp gần hết ba cốc rom chứ không đụng qua món dâu tây dầm rượu rom và ngâm nước sôi, Tú liền giơ hai tay, trang trọng nói:

- Chư vị cứ gọi tiếp, muốn rượu hay đồ hộp hay bánh bánh gì tùy ý. Sáng nay đệ thế nào cũng xin chư vị duyệt cho cái chương trình ra báo ở Hải Phòng... Thưa với chư vị, đệ đã lấy cả cái nhà in Thiên Sinh để in báo cho chúng ta, mà báo của chúng ta sẽ phải là tờ báo tôn chỉ to nhất, đứng đắn nhất không chỉ là của toàn Bắc Kỳ mà toàn Đông Dương... Báo sẽ đủ cả xã hội, kinh tế, văn học, chính trị, thể thao... du hý cải lương, kịch cọt, nghĩa là sĩ nông công thương từ thượng lưu trí thức, đại nghiệp chủ, thương mại, lý tài, đến bà con chợ búa anh em áo xanh áo nâu đến các học sinh và cả các cha cố, các sư ông sư bà, bất luận giàu nghèo, tuổi tác, xu hướng đạo đời, trong Nam ngoài Bắc đều đọc được tất!... Báo ra, trước một tuần hai kỳ, sau ra hàng ngày... sẽ lấy hẳn cái tên là Hải Phòng, hay Hải Phòng ngày nay, Hải Phòng mới, Hải Phòng tự trị hay Hải Phòng công luận... mà tòa soạn thì...

Tú cúi đầu khe khẽ như người xuýt xoa cầu kinh đến đoạn thiêng liêng nhất:

- Xin chư vị đảm nhiệm từ chủ bút đến đặc phái viên các môn, các mục cho...

Huyền Linh cười khảy:

- Thế lúc tù thì ai ngồi?

Tú ngớ hẳn người:

- Sao?! Sao?! Làm mà sao lại tù được! Bây giờ là báo của mình, mình làm báo cho mình cơ mà!

- Thì vẫn cứ phải chịu tù, bị tù khi ra trước pháp luật. Cứ phải có một người làm quản lý: Đia-reéec-tơgiê-răng!

Tú há hốc mồm nhưng liền nghĩ ra, reo lên:

- Tưởng gì chứ cái ấy chư vị không lo... Đã có Huỳnh Ba Lễ đây. Trước kia còn Pháp, người anh em Ba Lễ của chúng ta mấy lần vào tù ra tội, hết đề lao Hải Phòng lại Hỏa Lò Hà Nội tưởng ra đi đứt ở sở đá ngoài Côn Đảo còn không sợ nữa là bây giờ!

Ba lé khẽ nâng ve áo, nghiêng mình:

- Được chư vị tín nhiệm thì Kinh Kha này dù có phải sang Tần một lần chứ mười lần cũng không chút quản ngại để đáp tình tri ngộ.

Giọng Ba lé mơn ra như hát cải lương. Tú tươi tỉnh nhưng chỉ hơi đưa mắt nhìn sang phía bàn bên và người bồi bàn đeo kính trắng cận.

- Ngay chiều nay chư vị muốn đặt chầu ở Khâm Thiên hay Vạn Thái, hay bốc hẳn về cả Hải Phòng hát bất kỳ nhà nào xin cứ là tùy thích. Hay muốn kéo bao nhiêu người xuống xóm đây, khao bao nhiêu văn hữu nghệ hữu, và đóng đô bao nhiêu lâu... thì cũng xin cứ xin tùy nốt... Kẻ chiêu hiền này dám mong chư vị coi như ngày hôm nay là ngày sáng lập, và ngay chiều hôm nay ta a a arôdê (2)bằng toàn sâm banh. Nếu vị nào mà lại có thơ phú kịch cọt hay nhạc nhung, vẽ vời gì thì cứ cho phép đệ được nạp ngay tiền bản quyền tác giả và đưa ra tòa trước bạ tút suýt!...

- Phải, trong các công việc cứ xin là phải tút suýt... cẩm như kiểu Milite (3)của mỗ gia đây! Thí dụ như đã mười giờ rồi, mà phải ngồi chật chội, rì rầm uống vã cái rượu tây này với các thứ bánh của trẻ con hay người ốm ăn này, thì chán bỏ mẹ! Mà đã bàn đến công việc, không thì thôi, phải cho khoát đạt, cũng như đã ăn đã nói thì phải ăn cho to nói cho lớn! Vậy, a lê hấp, lên Hàng Buồm đi thôi!

-----

[2] Ăn mừng (tưới).

[3] Nhà binh.

Thoạt tiên nghe bếp Kình khịt khịt cái mũi, è è bắt đầu xong câu nói, Tú liền chờn chợn. Trong vụ cướp nhà Đờvanhxy sau tối hôm Nhật đảo chính Pháp, Tú đã cùng bọn Ba lé hiếp vợ Đờvanhxy, rồi vừa đâm vừa bắn chết cả bốn vợ chồng con cái y. Sót lại còn đứa con lên ba - con trai - ngủ trong gian buồng nhỏ ở bên cạnh chỗ bếp Kình đứng gác. Bếp Kình tuy đang say, nhưng cũng nghe thấy tiếng lục sục, y đẩy cửa vào thì thằng nhỏ đã tụt xuống sàn tồng ngồng bò bò lồm cồm mếu máo định khóc. Chẳng suy nghĩ và cũng không hiểu sao mình lại làm như thế, bếp Kình kéo ngay tay nó vào một góc nhà, ấn nó nằm gí xuống cái gầm tủ đồ chơi:

- Cút xê! Cút xê im im!... - Bếp Kình giơ cánh tay lia lia bàn tay qua cửa, mắt trợn trừng, mặt nhăn nhúm, chõ sang buồng bên, dứ dứ dọa dọa. Cũng không hiểu do linh tính gì, đứa bé đã chới với định nắm lấy tay bếp Kình thế mà lại nằm rạp ngay xuống, chúi chúi, ấp thật sát mặt vào góc tủ, và như nín cả tiếng thở, trong khi vợ chồng Đờvanhxy và hai đứa con lớn, đang ằng ặc, ú ú, hớp hớp, quằn quại, rên rỉ, máu me đầy sàn.

- Quái lạ, còn thằng nhóc nữa của vợ chồng nhà thằng Gấu Caixia này?! Hay là nó... nó ốm, nó đi chữa đốc tờ, nó lên Hà Nội?

Ba lé, Tú, tay súng tay dao găm sục cả vào buồng thằng nhỏ, lật tung màn và chăn nệm, kéo đứt hết các rèm cửa, và khăn bàn, lục tìm thêm mấy phút rồi bỏ đi...

Bọn Tú đã chia cho bếp Kình hơn ba vạn đồng, một xúc xích đồng hồ vàng, một đồng hồ vàng và hai dây chuyền quả tim bằng vàng. Sau bếp Kình nghe Tú phân trần rằng số kim cương của vợ chồng Đờvanhxy, có thể vì hoảng sợ lú lấp đi, có thể đã gửi một người quen, nên vợ thì nói là còn ở nhà, chồng thì ngớ ra, lắc lắc đầu bảo không biết gì cả, mà chỉ mở két đưa tất cả hộp vàng ngọc và tiền ra...

Trừ món kim cương, đúng là bếp Kình được bằng phần của Tú và Ba lé mà Tú và Ba lé đã trao ngay cho bếp Kình khi đánh xe trở về nhà Thy San, rồi lại giở rượu tây và các đồ nguội ra ăn uống với nhau. Nhưng bếp Kình vẫn tin rằng Tú còn chiếm được một khoản to có thể gấp mười hay gấp trăm của bếp Kình, với cái tập giấy tờ đánh máy, chữ in và ghim rất kỹ những giấy giống như giấy bạc, chữ và dấu đóng rất lạ. Chả thế mà Tú và Ba lé được tôn lên làm cố vấn kinh tế đặc biệt của Đảng Đại Việt ở cảng Hải Phòng. Riêng Tú, lại càng thân, càng thêm vai vế bên cạnh mấy tay đầu lĩnh trên Hà Nội!...

Không phải chỉ có những người bình thường mà ngay cả một số trong bọn bè bạn cánh vế của bọn Tú, Ba lé, đều đã nói toạc ra:

- Thằng Tú mông chuyến này lại càng làm ăn lớn. Giết cả nhà vợ chồng Đờvanhxy rồi tung tay chân đi phao lên là Việt Minh làm tiền! Coi chừng, thằng Bốn Mắt hiến binh Nhật nó mà không được chiếm phần và đấm mõm ngon nhất trong vụ này, thì sẽ bỏ mẹ cả nút cho mà xem!...

... Con Cánh cam của nhà Thy San lại chất đủ sáu người, bon về lối Bờ Hồ, qua Hàng Ngang, Hàng Đào mà lên phố Hàng Buồm.

⚝ ✽ ⚝

Ở hàng Bích Ngọc thật là không còn chỗ chen chân. Nhà vừa nhỏ khách ăn lại đông. Loại nhà thấp hơn lòng đường, bề ngang chỉ đủ kê một khổ giường hẹp, chiều dài hun hút, người cao lớn quá khổ đứng sẽ đụng đầu bục gác xép, chỉ có một lối đi lại và không có cửa sổ, cửa trần gì cả. Bà chủ loại gà mái ri rất đon đả, tươi cười vừa tiếp khách, tính tiền, truyền bảo người làm trong bếp, vừa mặc cả mua sắm các thứ của lái quen đưa đến trước cửa. Con gái lớn con gái bé, con dâu và cả vú em, con sen cùng tíu tít như nhau. Một người đàn bà đứng tuổi có vẻ là con trưởng chuyên thái thịt, đơm thức ăn. Cái tủ quầy cũng đặc biệt. Những ống chả quế, những chiếc giò lụa, giò trứng, giò bò, giò thủ, những đĩa chả nạc băm viên gói xương xông nướng, những liễn củ kiệu bày chồng lên nhau cao tú ụ. Một đĩa, hai đĩa, ba đĩa, năm đĩa, đĩa loại to, loại nhỏ cứ như có băng máy tuốn vào rồi lại bưng đi với những bát canh rau cải, canh miến và dưa giá lấy từ trong bếp ra.

Ôtô bọn Tú đỗ đã lâu trước cửa rồi mà nhà hàng cũng như không biết. Tới khi Ba lé dẫn đầu và Tú đi đoạn hậu nhích nhích dần mới qua được cửa và hai bàn ngoài, trong đám con bà chủ có cô lớn lau lau bát đĩa và đưa thức ăn cho khách mới cất tiếng:

- Thưa các ông thư thư cho một tí, các ông chờ cho một tí ạ.

Bếp Kình người to lớn lại kềnh rềnh ôm cái làn đựng mấy chai rượu lấy ở quán Tuyết Thiên nga, đứng chết cứng ở giữa lối đi mà vẫn như chẳng thấy khó chịu gì cả. Mũi nhấp nháy, gân cổ rần rật, y chửi thầm Tú:

- Con mẹ nhà anh, giá đưa đến đây ngay từ chín giờ, uống rượu trước, rồi nhà hàng làm được món gì dọn ra thì lấy món ấy, có phải nhàn hạ đường hoàng không. Nhưng thôi, làm gì mà chả phải công phu!

Và hắn nghĩ ngay đến có thể riêng mình hắn ăn vã cả ống chả quế và cân giò thủ kia chưa chắc đã đủ.

Người ta cứ bảo trâu chậm thì phải uống nước đục. Ngờ đâu chậm lại hóa hay! Bọn Tú ngồi tiếp ngay vào được bàn trong cùng liền với cái sân hẹp trước nhà bếp. Bàn tuy bằng gỗ tạp chẳng có khăn trải gì cả nhưng lại to. Cái ghế bên mép sân có tựa hẳn hoi, to như ghế bành, bếp Kình súy được, nhổm nhổm khen "tốt tốt", vừa đưa mắt nhìn đi nhìn lại xem trong bếp còn những món gì đặc biệt hay món gì mình thích, có nhiều hay sắp hết!

Rượu trắng của bếp Kình thủ đi đã rót đến tuần thứ ba. Tú và Ba lé uống rượu tây với Huyền Linh. Thỉnh thoảng Tú lại rót vào cốc cho bọn Thái Trang và Trần Văn thiết tha:

- Hai huynh uống thêm thứ cốt nhắc này nữa chứ! Đả với chả băm viên nướng cũng cho là átxê bôồng (4)đi.

Không để Thái Trang và Trần Văn phải nhấc đũa, Tú gạt cả đĩa tám miếng chả vào bát hai người:

- Chư vị! Thế là chính phủ ta lập được rồi! Tin trong Huế, tin mới bóc tem vừa nhận được ở một chỗ chính thức đấy nhé, là như thế này... thế này... Nội các có một tổng trưởng và lập thành mười bộ. Đủ cả ngoại giao, tài chính, kinh tế, tư pháp, giáo dục, giao thông công chính cẩm như các nội các của Mỹ, Ănglê và Nhật Bản vậy... À! Lại có cả bộ tiếp tế, bộ cứu tế và thanh niên nữa! Học giả một người này... Hai bác sĩ và hai y sĩ, bốn người này mà giữ bộ nội vụ, bộ kinh tế, bộ tiếp tế, bộ cứu tế thì phải là suya (5)lắm! Giáo sư một người này, luật sư ba người này. Ba ông Trạng cãi này mà họp lại làm bộ luật mới cho Việt Nam thì... hì hì... chư vị cứ tha hồ mà tung gươm múa bút, tha hồ mà mở các đảng, các hội để bảo vệ bác ái nhân quyền và đòi công bằng công lý, đấu tranh cho các thứ chủ nghĩa nhân quần xã hội...

Huyền Linh giọng đã sặc những hơi rượu, hơi tỏi, ớt, hành kiệu:

- Mẹ kiếp, thế quốc gia với chính phủ con chó gì mà chẳng được lấy một thằng khố xanh, khố đỏ, một khẩu mút cờ toòng (6)và thằng Xeécdăng (7)hay át-duy-đằng (8)cà là mèng thôi để cai quản lấy lính mình...

-----

[4] Khá tốt.

[5] Chắc chắn.

[6] Súng trường.

[7] Đội.

[8] Quản.

Trần Văn cố thích Huyền Linh một cái để Tú trông thấy, vừa đưa mắt lườm rất đứng đắn:

- Rồi sẽ lập cả bộ quốc phòng chứ! Bây giờ chính phủ mới chân nâng, nuôi quân đúc đạn mua ét xăng máy bay làm gì cho tốn, để cả quân Đức Thiên hoàng chu cho, có phải nhàn thân không?!! Với lại dân nước Đại Cồ Việt bỗng dưng không phải đổ máu đổ me gì mà được hưởng độc lập này, thì còn thiết gì gây chiến với ai mà cuốc với xẻng, phòng với phành!

Trước thì Tú toen hoẻn thuỗn mặt ra, nhưng sau lại gật gật, chìa tay đón tay Trần Văn mà giật giật:

- Nhà thơ kiêm nhạc sĩ, họa sĩ nói vậy mà là sự thật đấy! Đệ cứ xin là người mình nên theo thuyết gì ấy của thầy Mặc Tử ngày xưa. Với lại biết đâu thời thế chả tạo anh hùng, nước mình rồi đây nảy nòi được anh hùng tài giỏi như Nã Phá Luân, thì cứ gì phải có bộ quốc phòng. Cả thiên hạ... cả thiên hạ... hàng trăm vạn quân sẽ quy về mình ấy chứ.

Bếp Kình chém tay phải một cái:

- Anh hùng tài giỏi như thế nào không biết, chứ cái tay Kình mỗ này này, chống đỡ cho cả mấy tướng ở trận Vécđoong đấy! (Bếp Kình khoắng cánh tay áo cụt lên). Tay Kình mỗ lại còn nuôi cả tướng với tá nữa.... Ba bữa tiệc họp mà không có mấy món của Kình mỗ nấu kiểu cỗ bát ăn ngon quắt tai, thì làm gì nổi đình đám, bày mưu sắp trận thắng được những tướng tá nước Đức toàn vào loại hắc xì dầu?!!

- Kìa Thái huynh định đi đâu?... Nếu... nếu, kìa nhà hàng cũng có "vệ sinh" ở bên trong kia mà!

Tú nhổm lên, định níu lấy tay Thái Trang. Thái Trang cười:

- Các ông cứ tự nhiên cho, mình phải đi vì có cái hẹn với một người... Nếu xong, mình quay lại ngay thôi!

Huyền Linh chửi thầm:

- Thằng này lại chơi một quắn phá bĩnh rồi! Thôi được, mày muốn đi đâu thì đi, tao cũng tróc cho bằng được. Nhất là lại sẵn ôtô của thằng Tú đây, hay không thì quất xe ômích tua khắp Hà Nội càng thú, mày có chui xuống với Diêm vương, tao cũng móc lên!...

⚝ ✽ ⚝

5 giờ chiều Hà Nội.

Để Huyền Linh lấy ôtô của Tú đi tìm Thái Trang, Trần Văn không gọi xe kéo mà đi bộ. Trần Văn lại đến Hàng Buồm, sục vào cả mấy cao lầu to Đông Hưng viên, Mỹ Kinh và mấy tiệm hút. Tưởng tượng ra cái lối Thái Trang hay tự hành hạ mình để chống lại những kẻ và những cảnh mình không ưa không thích, Trần Văn đến hai hiệu ăn có tiếng trên kia, mong rằng sẽ gặp Thái Trang ở một xó bàn nào đó, với cút rượu ty đĩa đầu cổ cánh gà luộc và hành hoa, nhắm nháp trả thù trả hờn trả hận cái cuộc ăn bị coi là thô tục sỉ nhục, mình vừa phải chịu đựng. Nhiều khi không có đầu cổ cánh gà, mà chỉ có một cái bánh bao nhân thịt, tự thân đến lấy ở nhà bếp, đã nguội, hơi thiu thiu, trong khi các buồng các thồi ở chung quanh, ở tầng trên tầng dưới đang ồn ồn ăn uống.

Bước lên những cầu thang rộng dát đồng, chạm trổ rất cầu kỳ của hiệu cao lâu Đông Hưng viên còn gọi bằng tiếng Pháp là Aux Escaliers d'or kia, khi đi xuống, lại phải qua hàng cơm tám giò chả Bích Ngọc, Trần Văn càng thấy khổ ải. Cứ mỗi bước, Trần Văn lại phải qua, phải tránh, phải phớt lạnh một cách rất tàn nhẫn những người ăn mày ùn ùn kéo đến. Còn những người đang ngoắc ngoải hoặc đã chết rồi thì như xếp liền nhau bên bờ hè, trước các cửa hàng. Nhiều xác trần truồng nằm sõng sượt chỉ còn cách cửa ra vào không quá một bước. Những hàng bán rong không còn dám đặt gánh lâu. Vậy mà trong những hàng ăn, người ta cứ phải làm ra như không bận tâm gì cả!

Cả Trần Văn cũng phải như không bận tâm gì cả, khi xe Tú đổ bọn Trần Văn xuống bờ hè đây, nhảy qua những xác đói, len lách vào hàng, đứng xo xúi chầu chực, rình đợi chỗ ngồi, rồi ăn uống chuyện trò với nhau, gọi không còn cần biết bao nhiêu lần lấy thức ăn, thay bát đĩa, mặc kệ các khách khứa để ý đến mình.

Trần Văn phải rẽ ngay ra Ngõ Gạch để thoát mau chốn này. Trần Văn sẽ đến cái nhà cuối cùng này và cũng là một trong phần trăm may mắn sẽ gặp Thái Trang. Trần Văn sẽ bảo Thái Trang không đi, mặc mình Huyền Linh với bọn kia ở dưới xóm cô đầu, Khâm Thiên hay Vạn Thái, để gã Huyền Linh ác khẩu và chai dạn, thả sức quái quỷ đùa giỡn, đối chọi với bọn Tú. Cái mành xuệch xoạc viền vải tây điều hẳn hoi của nhà phố Hàng Đồng nơi lui tới của Thái Trang lại cuộn lên: dấu hiệu bà cụ chủ nhà đi vắng. Trần Văn khấp khởi thấy cửa lại khép hờ, ngó vô thì chẳng có ai cả. Trần Văn cứ vào, càng hồi hộp. Chân cầu thang có đôi giày da véc ni sờn cổ, bít tất tụt ra lòi thòi để nguyên. Trần Văn rén rón qua những bực thang ọp ẹp, toan òa một tiếng hay vồ lấy người để dọa Thái Trang, thì gặp ngay cặp mắt quăng quắc của Thái Trang đón sẵn mình với một cái cười rất ác. Nhưng khi Thái Trang nói, thì lại câu nói rất trân trọng, trìu mến:

- Ông ơi! Sao ông không cứ tự nhiên, mặc kệ tôi. Chúng mình phải chia nhau đi mà sống các cảnh nhiễu nhương lúc này chứ!

Đến lượt Thái Trang như nghẹn cả người, khi Trần Văn ôm chầm lấy mình và lắc lắc đầu:

- Sống thế nào, chứ không thể sống như thế này được!

Cũng câu nói này Trần Văn đã nói với Thái Trang khi từ Hải Phòng đi bộ lên chùa Mây trên núi Ngọc tìm Thái Trang năm ngoái, Thái Trang dọn một bữa cơm chỉ có bát canh hoa lý nấu với muối và bát mơ dầm, vừa uống rượu với nhau vừa nghe nhang trầm, hương hoa cau và mùi cây cỏ hoang tàn ngoài vườn, ngoài đồi như ngợp cả người mình trong một cái lạnh hiu lạnh hắt... Rồi cũng câu nói đó, cuối năm ngoái khi Trần Văn đưa cho Thái Trang đọc bản Hiệu triệu của Việt Minh do Sơn chép tay mà Dâng giữ được chuyển cho Thanh, đến đoạn sau đây thì Trần Văn khóc hô hố như trẻ con và cứ nhắc đi nhắc lại câu nói trên kia.

"Hỡi đồng bào!

Từ khi lập quốc, xét lịch sử nước ta chưa bao giờ nhục nhằn, đau khổ như lúc này. Nhưng chúng ta có cam tâm làm nô lệ mãi không? Chúng ta có chịu cho quân sài lang đế quốc giày xéo lên thân ta, đẽo khoét dân ta đến tận xương tủy không?

Trăm lần không!

Một dân tộc có trên bốn nghìn năm lịch sử, trước sau bị Tàu (9)đô hộ hơn mười thế kỷ mà vẫn không bị diệt vong; một dân tộc đã đẻ ra những vị anh hùng cứu quốc bà Trưng, bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... quyết không chịu là vong quốc nô mãi! Một dân tộc bảy mươi năm không ngớt chống chủ nghĩa đế quốc, đã viết lên những trang sử đầy hy sinh anh dũng Vụ Quang, Yên Thế, Bãi Sậy, Thái Nguyên, Yên Bái và mới đây ở Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, quyết không chịu làm trâu ngựa cho quân đế quốc da trắng hay da vàng!".

-----

[9] Tàu: nguyên văn bản của Hiệu triệu.

Trong bao nhang trầm của Thái Trang để dành còn đúng một nén. Thái Trang lập cập đánh diêm châm và cắm lên cái lọ sành đựng một rò lan.

- Việt Minh hiệu triệu mà nghe sao cứ như hịch tướng sĩ hay hịch của non sông ấy, Trần Văn ơi!

Giờ Thái Trang lại phải ôm lấy Trần Văn, nhưng không ngạc nhiên như lần trước. Thái Trang gỡ gỡ tay Trần Văn ra đi vội xuống nhà đóng chặt then cửa. Lên ngồi vào mép giường cùng Trần Văn, Thái Trang bồi hồi:

- Không! Mình không lập dị! Không định chơi ngang hay phá bĩnh gì đâu! Mình có hẹn thật! Và đây mình đã nhận được tài liệu mới đây!...

Trần Văn như vồ lấy hai bờ báo Cờ Giải phóng in hình cờ đỏ búa liềm với ngày đề mà Trần Văn không thể tưởng tượng được là ngày rất gần đến thế:

Số 11, ngày 25-3-1945 thì có bài Cuộc "đảo chính" của Nhật ở Đông Dương và số 12 ngày 12-4-1945 có bài Phải nhằm trúng kẻ thù chính, kèm theo một hàng chữ ngả nhỏ Đừng để giặc Nhật lừa phỉnh. Như đoán được ý Trần Văn, Thái Trang chớp chớp mắt nhìn lại bạn ngập ngừng nói:

- Một ông anh họ mình làm nhà in, bảo lâu nay đã theo dõi mình, cũng báo cáo với Tổ chức về mình rồi, trưa nay ông hẹn gặp và đưa cho mình đấy! Ông ấy dặn mình nên về Hải Phòng, rồi sẽ có "người" đến liên lạc với mình ở Hải Phòng.

Trần Văn gần như bị choáng. Phong trào đi sâu và mở rộng, Tổ chức đã với tới cả Thái Trang nữa rồi! Cái ông anh họ Thái Trang, lù khù làm ở nhà in kia mà cũng theo dõi Thái Trang, báo cáo với Tổ chức về Thái Trang?

- Đừng! Đừng Trần Văn ơi! Cứ để cửa sổ như thường và cũng đừng bật đèn lên. Trời chiều này còn lâu mới tối. Đọc bên cửa sổ có ánh sáng chiều xuân và gió ngoài sông vào hay hơn... Khi nào thằng bạn mình nó đi làm ở máy điện về thì có thể xong hai bài xã luận này đấy. Tối nó đi xem cải lương, chúng mình đọc tiếp...

Ở một nhà chủ có tiếng là hát hay và rất kênh kiệu của cô đầu phố Khâm Thiên - ả ta có em trai bạn chơi thân với Tú - đến đây phải là những khách sang trọng nhất, lịch sự nhất, cả Huyền Linh cũng phải chửi toáng lên vì lại thêm Trần Văn cũng mất tăm mất hút mà đã tới giờ vào bàn tiệc đặt ở Đông Hưng viên chở ôtô đem về rồi!

Huyền Linh lại đoán hai quái này hoặc đang ở một hàng thịt chó phố Hàng Hòm hay ở chợ Bắc Qua, cùng nhau nhắm nhía ngon lành, thống khoái vô cùng với các chuyện đóng giả về thời thế. Đặc biệt là chửi bọn Tú!