← Quay lại trang sách

Khi Đứa Con Ra Đời Chương 10

Mẹ Nghĩa cắp rổ định vào gọi Dậu thì Dậu đã te tái chạy ra:

- Bá Nghĩa ơi, bá Nghĩa, cho em nhờ mua thêm cái

này nữa.

- Nào! lại còn thêm với nếm gì nào. Lại ớt, lại chanh, lại nhót chứ gì?

Dậu khoác cánh tay mẹ Nghĩa:

- Đúng, lại ớt lại chanh lại nhót đấy.

- Ơ kìa sao mà đưa nhiều tiền thế này?

Dậu nhét nhét thật sâu vào túi mẹ Nghĩa hai tờ giấy năm đồng:

- Bá chỉ phải cố tìm mua cho em nửa cân cà chua hồng và mấy mớ cải soong thôi. Nhà em nó chỉ kêu xót ruột thèm rau... Còn tiền, thì khi đưa bá hay thằng La phải nói thế nào để bà cụ Xim đừng nghĩ ngợi gì cả.

- Ai bảo nhà cô chẳng chịu bàn gì với tôi! Đấy, lần sau này tôi đưa, bà cụ chả nhận ngay là gì. Nghĩa rằng thì là con người ta khổ thì khổ đấy, túng thì túng đấy, nhưng mà...

- Khiếp! Em với bá mà bá cứ còn phải nói như thế.

Mẹ Nghĩa cười khì khì:

- Này, lão Hem nhà cô ấy, thế mà tinh ra phết, chỉ ngồi với cái thằng Kiều một lúc buổi chiều hôm ấy mà lão ta thấy khác ý ngay. Không hiểu cô có dặn gì thêm lão ta không? À mà cô phải giữ đừng để lão ta thức khuya quá. Chung quanh đây, người tử tế cũng có, đứa xấu bụng cũng có. Vẫn biết lão ta tốt nết, chịu khó, quý nhất là nết thương vợ...

- Em biết rồi, em biết rồi... Thôi bá đi! À bá nhớ dặn cậu Văn đúng ba giờ thì đến nhà em đấy!

Dậu trở vào, Vin Hem vẫn đang chúi đầu bên cái bàn sửa chữa máy móc. Quần đùi, áo may ô, chân đất, da dẻ đỏ rẩng. Vin Hem làm việc chẳng có quạt máy, đèn điện, ngay bên cửa sổ nửa dưới che tấm màn vải đã cũ nhưng giặt rất trắng, hai cánh cửa kính khép hờ để đón gió ngoài đầm sen. Từ đây trông ra cái chòi của anh em Thái Trang những buổi có sương hay mưa, chân mây và cánh đồng xa hút.

Dậu gọi Vin Hem, Vin Hem cũng gọi và nói với Dậu bằng tiếng Việt:

- Tám giờ mới phải đến sở. Vin Hem hãy đợi một lúc, tôi đi mua quà sáng về cùng ăn nhé.

- Đúng bảy giờ kém mười lăm thì tôi đi làm. Nhà còn bánh còn chuối, thế là đủ.

- Giời ơi! Sao vẫn cứ thân làm tội đời như thế! Sở với mỏ, giờ còn làm việc đếch gì nữa. Cả thằng Jáp làm đốc công và bọn Jáp (1)ở Đông Dương sắp cuốn gói cút đi hết mà.

-----

[1] Nhật.

Vin Hem chậc chậc lắc đầu:

- Làm sao Dậu cứ quen nói như thế! Dậu vẫn không chịu nghe lời tôi. Nguy hiểm đấy! Nguy hiểm đấy! Nếu lỡ miệng trước những người thường thôi, chứ không phải là bọn chó, thì cũng không nên rồi!

Vin Hem, bố người Đức làm lính chết trận năm 1914 - 1918, mẹ người Pháp đi giặt thuê trong trại lính. Anh lại bồ côi mẹ từ nhỏ, một bà em mẹ phải đón về nuôi, cho học nghề, lớn lên đi làm thợ điện rồi đăng vào lính Lê Dương. Sang Việt Nam được bảy năm, mãn hạn lính, anh ra làm cho một xưởng sửa chữa ôtô của Pháp.

Dậu từ ngày Nhật sang thì thôi không ăn ở với Đờvanhxy mà lại trở về với mấy tiệm nhảy và quán trà

đặc biệt.

Một dạo Dậu đã vào Sài Gòn, rồi bị ốm. Thấy mệt và thấy khổ quá, vì cái cảnh nửa làm đĩ, nửa làm công và rẻ mạt gọi là tiếp khách uống rượu và nghe nhạc ở các phòng trà, nên khi gặp người làm mối cho Vin Hem, chuyện với Vin Hem vài buổi, thì Dậu bằng lòng lấy Vin Hem. Non hai năm nay vợ chồng Dậu vẫn ở trong ngõ đền Tiên Nga này.

Vin Hem ngày còn ở Pháp đã là quần chúng cảm tình của Đảng Cộng sản Pháp, được giao công tác và chuẩn bị kết nạp. Tới khi sang Đông Dương, Vin Hem vẫn còn liên lạc, nhưng sau ngày Pháp đón Nhật vào Đông Dương, rồi đàn áp khốc liệt cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, thì Vin Hem bị đứt hẳn các mối. Gần đây, Chấn vượt ngục về, bọn Thái Trang và Trần Văn theo dõi và báo cáo, vừa phần Chấn đã để ý từ ngày phong trào Mặt trận Bình dân về một số lính Lê Dương trong đó có Vin Hem, thì Vin Hem mừng rỡ vô cùng, thiết tha đề nghị được có sự đóng góp vào công cuộc chống Nhật của nhân dân Việt Nam.

- Vin Hem yêu quí, vậy tôi xin lỗi Vin Hem nhé. Nhưng mà Vin Hem chỉ biết bảo tôi phải cẩn thận, thế còn Vin Hem thì sao?!

Vin Hem nhíu nhíu mày:

- Dậu định nói gì thế? Dậu có ý nói gì thế?

Dậu nhìn thẳng vào mắt Vin Hem, nhưng vẫn cười cười:

- Vin Hem đừng thức khuya quá và cũng không nên làm việc nhiều quá kẻo người ta chú ý đấy!

- Ai? Ai?

- Bọn người tò mò không tốt, bọn Jáp.

- Đấy lại cứ quen miệng rồi. Phải, phải, Dậu yêu quí, Dậu nói phải, tôi xin nghe. Và tôi muốn Dậu không chỉ nói với tôi phải cẩn thận, mà còn là người trông nom giờ giấc một cách rất kỷ luật cho tôi.

- Vậy thì Vin Hem đến 8 giờ hay 9 giờ mới được đến sở, và phải chờ tôi đi mua thức ăn sáng về...

Vin Hem vội lắc đầu vừa cười rất thích thú:

- Như thế thì không phải là kỷ luật mà là cả một sự bừa bãi. Tôi cứ phải đến sở làm đúng bảy giờ. Sáng nay chúng ta còn bánh, còn chuối, Dậu chỉ nên cho tôi thêm một bình trà nóng là rất đủ.

Hai vợ chồng ngồi sang cái bàn mây nhỏ. Dậu rót trà ra cốc, pha thêm hai cùi dìa đường. Khoanh bánh Tây bữa tối qua ăn còn lại, Vin Hem cắt chia đôi, nhưng Dậu không ăn. Dậu rang cơm nguội trên cái đèn cồn ở bàn đồ đạc của Vin Hem, chín đến đâu xúc ăn đến đấy. Càng thấy Vin Hem ăn uống rất thường, Dậu càng phải nghĩ đến những món tiền đã gửi về quê cho bà cô, bà dì trong trận đói này. Một đàn một lũ em họ Dậu đã có lần ra ăn ở hẳn hai ba ngày nhà Dậu mà Vin Hem không hề tỏ vẻ bị phiền nhiễu. Trái lại, Vin Hem càng tỏ ra tin yêu Dậu. Anh không còn thấy Dậu đi đâu, hoặc đánh chắn, hoặc hầu đồng, hoặc la cà chợ búa như hầu hết các vợ Tây khác. Gian nhà ở thuê vào loại xoàng nhất, khi mới dọn đến khổ quá chừng vì vườn tược cống rãnh lúi sùi, vậy mà Dậu dọn dẹp, sửa sang dần dần trở nên đẹp và ấm cúng như một vi la nhỏ ở ngoại ô tỉnh nhỏ bên Pháp.

Cứ mỗi chuyến về nhà giỗ Tết, Dậu lại đem ra khi thì cây sói, cây ớt, cây chuối, khi thì mầm hoa lý, hoa huệ, hột mướp, hột mồng tơi. Mảnh vườn thành khu, thành luống, thành giàn, có gần đủ hết các thứ rau thơm mãi đến nay Vin Hem mới được biết những mùi vị thật ngon thật lạ. Lại còn chuồng gà, chuồng thỏ. Bởi vậy Vin Hem lại càng phải suy nghĩ vì số lương tháng không cao và chẳng có bổng ngoại gì nhiều, mà trong nhà ăn tiêu như kiểu có của ăn của để. Một hôm Vin Hem chữa cho một người Phi Luật Tân có chiếc đàn phong cầm rất quý bị hỏng vì sụt gác, Vin Hem thử đi thử lại bằng mấy bản nhạc cổ điển thường dạo ở các ôten lớn, và lúc sắp trả người nhạc sĩ nọ, Vin Hem có vẻ lưu luyến chiếc đàn lắm.

- Hay Vin Hem thử hỏi người ta có bán lại thì mua để tập cả cho em nữa. Thì ra Vin Hem của tôi còn là nhạc sĩ mà cứ giấu tài mãi!

- Như thế mà Dậu cũng khen thì tôi xấu hổ đấy! Còn như Dậu muốn tập đàn, để sau này hết chiến tranh tôi gửi về mua hẳn đàn ở bên nước tôi.

- Nước Đức còn giỏi cả làm đàn nữa à! Thép tốt này, máy ảnh có tiếng này rồi lại đàn cũng cừ nữa!

Vin Hem im lặng:

"Thế mà lại đi gây thảm họa chiến tranh, làm một tội phạm của lịch sử đấy! Những trại tập trung với lò thiêu người như Bun-khơn-van và Ao- xơ-vích và những cuộc tàn sát người già, đàn bà, trẻ con ở Ba Lan, Tiệp Khắc để lại những vết chàm trên mặt đất thì đến bao giờ phai được! Và cả đời ta, các đời sau ta, phải làm việc như thế nào cho văn minh, cho cách mạng để chuộc được lấy một phần tội ác, rửa được một phần sỉ nhục vì tên đồ tể Hítle và bầy lũ thú người, khát máu, của chủ nghĩa Quốc xã đeo chữ thập ngoặc đen kia?"

Nếu như Dậu chỉ thấy Vin Hem cả ngày làm việc và làm việc, rất mực chịu thương chịu khó, sống thật đạm bạc, thì Dậu cũng còn phải vì nể những lúc trầm lặng nghiêm nghị suy tư này của Vin Hem.

- Vin Hem uống chén trà nữa nhé, rồi tôi sắp quần áo cho Vin Hem đi làm.

- Cản ơn Dậu, tôi uống thế đủ rồi. Sáng nay tôi uống thấy ngon lắm. Dậu ở nhà cứ xem sách đến mười giờ hãy làm cơm.

Dậu ôm hôn Vin Hem trước, Vin Hem lại nhìn thăm thẳm vào mắt Dậu:

- "Bọn quân phiệt Nhật Bản ở Đông Dương này cũng thế, nếu dân Việt Nam không đánh đổ được cả bọn chúng và lũ bù nhìn tay chân chúng, thì cũng phải sống trong một trại tập trung. Trận đói đang làm hàng triệu người bị tiêu diệt sẽ còn kéo dài với không biết bao nhiêu cảnh khủng khiếp... Dậu ơi, làm sao tôi có thể nói hết được những ý nghĩ của tôi với Dậu về hiện trạng này, cũng như làm sao tôi được cung cấp cho cách mạng tất cả và mau chóng những tin tức tôi thu nhận được?"

Mũ lợp vải xám, quần áo màu xanh đặc, giày vải màu cứt ngựa, khổ mặt xương xương; lặng đăm, Vin Hem đi bộ đến xưởng sửa chữa máy móc ở bên sông Tam Bạc. Trông sự ăn mặc của anh, nếu ai bảo là một Tây lai, thì phải là một Tây lai vào hạng cà khổ. Nhưng chỉ nhìn qua đôi mắt và gương mặt của anh thì lại thấy là một kẻ hiền lành, chỉn chu rất tốt, trong số mấy người Tây thợ thuyền thường lên bến Hải Phòng hoặc ở hẳn Hải Phòng.

Chỗ Dậu nằm xem báo, đọc sách cũng là chỗ Vin Hem giấu cái bộ máy nghe tin tức thế giới tự lắp lấy mà Vin Hem không cần dặn, Dậu cũng thừa biết rằng nếu để lộ, Nhật khám bắt được, thì cả Dậu cũng bị bắn hay bị đánh chết ngay. Đôi khi Dậu đã tự hỏi liệu Dậu có đủ sức chịu đựng nổi sự khốc liệt này không, thì Dậu đều quả quyết với mình: "Không sợ! Nhất định không sợ, kể cả bị chết!" Và khi tự nhủ như thế, thì Dậu lại như nói hẳn với Vin Hem bằng một nụ cười rất tự tin, mà cũng rất kiêu căng của một người có ý thức về việc làm của mình, và đã xác định rõ ràng thái độ.

Mấy lâu nay vừa được Vin Hem cho biết nhiều tin tức về quân đội Đồng Minh, đặc biệt về Hồng quân Nga, gần đây lại được La, được Trần Văn đưa báo Cứu quốc cho, thì Dậu càng tự hào vì việc làm và cái máy bí mật, nguy hiểm của vợ chồng Dậu. Ngày mẹ La chết, Dậu ở Sài Gòn về mãi sau mới biết tin và biết cả chuyện nữa, Dậu càng thấy thương xót. Không kỳ giỗ nào Dậu không về nhà mẹ Nghĩa tự tay làm cơm cúng rồi ăn uống với mấy bà con thân thiết. Gần đây, vụ vợ chồng con cái Đờvanhxy bị giết, càng làm Dậu kinh rợn, và càng thở than chuyện trò với mẹ Nghĩa. Điều Dậu khẩn khoản với mẹ Nghĩa là nhắn La về cho Dậu gặp, không được lấy một ngày hay một lúc lâu, thì chỉ một giờ, nửa giờ hay mươi phút thôi cũng quí.

Mẹ Nghĩa đã thu xếp cho hai cô cháu thằng La gặp nhau. Dậu và La không khóc, nhưng mẹ Nghĩa thì cứ nước mắt ngắn nước mắt dài, nức nở, có lúc lại hờ hẳn tên mẹ La lên. Sau buổi đó, Trần Văn đến liên lạc với Dậu và Vin Hem. Tuần trước đây Vin Hem nhận được cả truyền đơn và sách báo bằng tiếng Pháp cùng thư của Chấn viết. Còn Vin Hem báo ngay tin quan trọng thứ nhất là Hồng quân Nga đã tiến về Bá Linh, rồi tin quân Nhật bị phong tỏa hết các mặt biển, liên lạc với Xiêm, Ấn Độ hoàn toàn chỉ còn đường qua Đông Dương. Có thêm một bản đồ ghi mấy chỗ giấu vũ khí ở vùng ngoài thành phố Hải Phòng mà quân Pháp định tổ chức những ổ đề kháng một khi quân Nhật tấn công làm đảo chính. Vin Hem nhấn mạnh trong số súng đạn này nếu hư hỏng, Vin Hem sẽ chỉ dẫn hay đích thân sửa chữa.

Cả bốn số báo Cứu quốc, Dậu đều cùng Vin Hem đọc đi đọc lại. Những nơi nào Vin Hem đã thông thuộc, hay tình hình nào Vin Hem hiểu rõ, Vin Hem đều nói rất kỹ cho Dậu nghe. Vin Hem sung sướng và kính phục vô cùng thấy cả mấy tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên chiếm một mặt khá lớn trên bản đồ, dấu hiệu là những ngôi sao và chữ nhỏ in mực đỏ, đã thành một khu liên hoàn giải phóng, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng, cơ sở võ trang lớn mạnh. Tại đây, những nơi Việt Minh phục kích quân Nhật hay những nơi quân Nhật phải bỏ chạy, đều là những nơi trước đây Vin Hem đã đi qua và biết tường tận sự quan trọng của nó cùng với những quan binh Pháp thuộc hàng quan tư, quan năm hay quan ba, quân lính là Lê Dương, pháo thủ, khố đỏ hay khố xanh, súng ống có bao nhiêu thứ. Dậu thì chỉ thích mô tả và kể tường tận tên các cảnh, các việc, các chuyện của vùng Bắc tỉnh mình, cao trào đang lên ở những huyện Tiên Du, Từ Sơn, Thuận Thành là quê bố mẹ Dậu.

Quét sân, thu dọn cỏ rác ngoài vườn, lau chùi bàn ghế, sắp xếp lại chỗ ăn nằm, chỗ làm việc, đóng cổng, thả chó, Dậu còn soạn sẵn bếp núc bữa trưa rồi mới rửa mặt mũi chân tay, vào nhà nghỉ. Dậu lại đem số báo Cứu quốc đăng mấy tin về tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và Hà Đông, Hưng Yên ra đọc. Chợt có tiếng chó sủa mừng rỡ và tiếng mắng tiếng quát yêu. Mẹ Nghĩa đã về, mở khóa cổng lấy. Đặt cong cái rổ đầy rau quả xuống mé cửa, mẹ Nghĩa đến ngồi sà xuống giường Dậu, giọng hớt hải một cách quan trọng:

- Nhà ông Thái năm xưa có cậu con út học giỏi nhất Hải Phòng cùng bị bắt với thằng Cam em cái Gái đen trong xóm Cấm, cậu ta nhẩy đâm đầu từ tầng gác ba Sở mật thám chết ấy..., ông ta cũng bị bắt rồi. Trong xóm Chợ con còn bắt thêm cả nhà thầy giáo dạy trường Hàng Kênh rất tài đóng kịch, mà cô Dậu bảo là chơi thân với nhà thầy giáo của cô trên Bắc. Rồi cả ông chủ hiệu sách người rất hiền lành nho nhã trên phố Cầu Đất nữa. Ông hiệu sách này thì bị đánh chết ngay!... À! À! Tôi nhớ ra rồi, ông Chí Tín, cứ khách vào khách ra, lại chắp tay cúi đầu chào, trẻ con rách rưới phải mua sách học, vở viết nhiều tiền thì lại bớt cho hàng hào, thế mà thằng La và thằng Nghĩa nhà này cứ ỉm đi, không trả lại nhà, chia nhau tiền, ăn bánh tôm, ăn kem hết.

Dậu ấp tờ báo lên ngực, cau cau mày. Mẹ Nghĩa chẹp chẹp miệng:

- Lần trước lên Sở mật thám đón xác con về, nhà ông Thái đã loạn trí, phải thôi việc, cả ngày như người mất hồn lang thang ngoài đường, giờ lại bị bắt thì rồi đến chết mất! Cô Dậu ạ... tôi cứ phải nghĩ... mà cứ phải nghĩ thì lại càng thấy ngại... ngại với cái thằng Kiều.

Dậu thở mạnh:

- Không hiểu những quân khốn nạn ấy còn đổ đốn ra đến thế nào nữa!

Mẹ Nghĩa cấu hẳn vào bắp tay Dậu:

- Thì xem xem, nếu chúng nó mà không chịu nghe mình răn đe, càng ngày càng quá quắt, thì chỉ còn phải cho chúng nó ăn đạn thôi!

Mẹ Nghĩa như chợt nhớ ra, mẹ líu ríu:

- Cô Dậu có xuống dưới Trung Mầu chuyến nào không! Qua phố phủ Từ Sơn, qua chợ Dầu, rồi xuống Trung Mầu, xuống Phù Ninh, Phù Đổng ấy mà!

- Có chuyện gì, hở bá!

- Trung Mầu vùng ta thế mà cũng thành chiến khu đấy! Nhật đem quân xuống định triệt Việt Minh ở Trung Mầu, bị đánh cho thấy ông bà ông vải. Còn những thằng chó, những tổng lý, làm tay sai cho Nhật thu thuế, thu thóc, bô báo cách mạng, thì anh em họ nhót hết xuống đây, thằng nào biết hối, xin quy phục mình xét cũng tha cho... Cô Dậu nhỉ, bên kia là Thủy Nguyên, dưới kia là Kiến Thụy, là Đồ Sơn bát xã, rồi thì sang núi Voi, ra ngoài Tràng Cát, rồi cũng lập thành cả chiến khu, đánh cho Nhật bỏ bà, và bắt nhốt lại những thằng chó thì dân mới đỡ lo đỡ khổ.

- Ai nói với bá chuyện Trung Mầu trên ta vậy?

- Mấy bà đi Đáp Cầu, Bắc Giang mua sắn, mua ngô về. Có bà được xem cả họp tinh tinh và nghe ta diễn thuyết ở núi Phật Tích. Chuyến này mà cô thì ở bên Đa Hội, tôi ở trên Văn Điềm, tha hồ mà đi với bà con thôn xóm vùng chung quanh phá các kho thóc và đi...

- Mít tinh! Mít tinh!... - Dậu cười.

Mẹ Nghĩa lại véo cánh tay Dậu, cũng cười:

- Thôi tôi là tôi không nhớ được cái tên ấy đâu. Tôi cứ gọi là đi đấu tranh... Như ngày xưa rủ nhau, kéo nhau lên đốc lý đấu tranh, lên sở cẩm đấu tranh, bán báo quyên tiền cho Nhà máy Tơ, máy Chỉ, Sở Xi măng đấu tranh ấy!...

Dậu càng thấy vui trong dạ. Dậu nghĩ đến những lúc này mà không có một người như mẹ Nghĩa ở bên cạnh, khi đi lúc về, ngày mưa ngày nắng, chuyện trò thở than thì dù được ăn đến vàng cũng chẳng biết ngon. Nhưng Dậu càng không khỏi mủi lòng, cực thân. Làng Đa Hội của Dậu có nghề thợ rèn, không hiểu cha Dậu túng đói công nợ cùng kiệt ra sao mà lại đem mẹ, đem em gái Dậu vào làm phu cao su Đất Đỏ trong Sài Gòn, để đến nỗi trước thì em Dậu bị nóng sốt chết, sau thì đến cha Dậu. Có tin mẹ Dậu đi lấy chồng, nhưng từ ngoài Bắc, Dậu đã gửi không biết bao nhiêu thư cho các người làng, người quen vào làm trong ấy tìm kiếm tin tức giúp, song không có kết quả gì! Rồi Dậu nhờ đăng cả báo, đi đánh đồng thiếp, và hễ nghe nói đâu có thầy bói thầy tướng nào hay là đến đặt lễ đặt quẻ. Và Dậu đã vào hẳn Sài Gòn.

- Bá Nghĩa này... để qua cái mùa hè viêm nhiệt này, đến vụ mùa khi gặt hái ngàn ngàn, bá và tôi phải về hẳn trên nhà một tháng, đi thăm các bà con, xem ai còn, ai mất, ai sống ai chết, dân tình làm ăn ra sao, nhất là những vùng, những nơi đã nổi cách mạng, lập các hội các ban...

Kho thóc chợ Dâu phá, kho thóc đồn điền Mác Ty phá, mét tinh bí mật ở núi Chè,... mét tinh giữa ban ngày người rầm rập kéo đi nghe Việt Minh diễn thuyết ở Phật Tích,... Trung Mầu đóng chiến khu đánh lại cả Nhật,... không huyện nào hương lý còn giữ đồng triện, sổ sách giấy tờ... Nếu cha mẹ Dậu vẫn cố thổ ở quê, sống được đến ngày nay!

Ngoài vườn nắng bay loa lóa như từng đàn ong. Những chị em anh em, bà cô bà dì và cả những cháu bé của Dậu như đang ùa từ sân, từ ngõ ra đón Dậu. Ở cánh đồng lúa chín ngày bé Dậu vẫn đi mót lúa gần đường xe lửa, mấy đứa bạn Dậu đã thành đôi thành lứa, con bế con ẵm cả rồi, thăn thoắt tay gặt vừa nhìn Dậu, cười ré lên gọi:

- Cái Dậu, giờ thì mày về làng mà ở chứ?!! Dậu ơi, Dậu ơi,... về đi gặt xong tối đến sang Quan Đình xem tuồng diễn tích Sơn Hậu, hay xem chèo Thị Mầu lên chùa với chúng tao...

Mẹ Nghĩa đưa từng thứ Dậu nhờ mua và tính lại tiền món nào rõ món ấy. Thấy mẹ ta lại đưa trả mình hai tờ giấy năm đồng, Dậu toan hỏi, mẹ Nghĩa liền giơ tay ra điệu bộ rất dứt khoát:

- Cô cứ giữ lấy, không biết cái Dâng nó ốm hay đã đẻ rồi, mà không thấy nó lên. Để đến phiên sau, nếu cũng không gặp nó thì tôi phải sang hẳn chỗ nó hay vào trong làng thăm bà cụ Thanh rồi đưa tiền cho bà cụ Xim một thể.

Dậu nhất định bảo mẹ Nghĩa cứ giữ tiền, mẹ Nghĩa nhất định không nghe, viện cớ mình vô tâm nhỡ để mất, hay tiêu lạm vào chăng. Cuối cùng mẹ đành phải nhận lại tiền vì Dậu hờn dỗi:

- Vâng thì bá vô tâm, bá muốn vứt đi hay cho ai, tùy ý. Đến bây giờ bá còn giữ kẽ với tôi, thì còn sống với nhau

sao được?!

Khi Vin Hem về, thấy Dậu thiu thiu ngủ, rau đậu còn xếp đống, liền dỡ ra, đem cả xuống bếp. Rón rén cởi quần, treo mũ vào mắc, anh ra vòi nước rửa chân tay và cả thức ăn, nhặt nhạnh sắp xếp thứ nào vào món ấy chờ Dậu dậy cùng thổi cơm làm bữa với mình.

⚝ ✽ ⚝

Trần Văn nhận hai công việc trong chuyến về phố này: một, gặp bếp Kình để tìm hiểu một phần về người cháu lão làm đội khố xanh quản đồn Cao; hai, đưa tài liệu và thư cho vợ chồng Vin Hem Dậu, rồi nhận những đồ của Vin Hem tặng Tổ chức.

Trần Văn đi xe đạp của Vy bố. Xe không chuông, không phanh, vành to, dầy như bánh xe kéo của nhà Ô-mích. Lốp cờ-rếp đặc, đúc bằng đế giày dép của các hàng đồng nát bao chè mua về cho gia đình chế biến thay thế săm lốp cao su từ hai năm nay đã tăng giá một gấp mười. Yên xe bằng gỗ bọc lần da giày lính tẩy. Quần xanh đáp đũng, đáp đầu gối, áo vải mui xe bốn túi, mũ cói rộng vành, dép da bò sống. Đi xe và mặc như thế, Trần Văn khoái lắm, hãnh diện như một phi công hay một kỵ sĩ ra đi cuộc trường chinh bảo vệ Tổ quốc. Tuy vậy, Trần Văn vẫn e ngại. E ngại có kẻ nhận ra mình, dù đã đeo thêm đôi kính râm!

Nhưng rồi Trần Văn chờn chợn thật sự, khi gần đến thành phố. Đường sá sao mà cứ lặng đi thế này! Từ khu sở dầu Thượng Lý đến đầu cầu Xi măng, chỉ thấy lính Nhật gác. Thợ thuyền, phu phen và các người đi làm, như đều nghỉ hay bỏ đi đâu hết cả. Thỉnh thoảng một cam nhông nhà binh Nhật rú còi, chạy lồng lên trong bụi, lính đứng lảo đảo, súng ống rùng rùng. Trần Văn đã toan không qua cầu mà rẽ về tay phải rồi sang đò. Chả là khu đây có mấy nhà băng và mấy kho hàng thì Nhật chiếm hết, và biến thành khu giam giữ người và tra tấn đặc biệt.

- Cả hai đầu cầu và đằng vườn hoa Ba-ty cũng không thấy gì khác ý mà! Cứ đường hoàng đi đường này thôi. Qua sông, sang bến bên kia, nếu gặp "chó" đã quen mặt mình thì đúng là mình nộp mạng!

Trần Văn xuống xe, đi thong thả, vừa tính toán nếu có động thì sẽ rẽ vào ngõ hay tạt sang ngả đường nào hóc hiểm. Trần Văn qua được khỏi cầu, trống ngực đập nhẹ hẳn: anh đi lên đường phố Khách, tuy đấy cảnh tượng cũng ngao ngán, oải mệt nhưng còn có những cửa hàng mở, người đi đường và một vài xe cộ qua lại. Bếp Kình vừa thấy Trần Văn vén mành lạch xạch thì reo lên:

- Xe ca-ma-lố đây rồi! Xe ca-ma-lố (2)đây rồi!...

Sau buổi gặp bọn Trần Văn ở Bờ Hồ rồi đi ăn uống ở quán trà Tuyết Thiên Nga và hàng cơm tám giò chả Bích Ngọc, bếp Kình biết thêm Trần Văn là con người lính kèn đã đi sang Tây với mình những năm đại chiến 1914 - 1918, lại cùng một tổng với nhau, nên bếp Kình đã nhiều lần muốn chuyện lâu với Trần Văn vậy mà chỉ được gặp lại một buổi tuần trước ở bến đò Bính, người đi Hòn Gai, người về Hải Phòng, mời nhau chưa hút hết điếu thuốc là phải chia tay.

- Thưa bác, bác cứ coi em như người nhà... Trần Văn điệu bộ rất trân trọng, nghiêng mình trước bếp Kình.

- Tôi đã bảo mà, cậu cứ coi mỗ như là hàng em ông nhà. Tôi kém ông nhà những hơn một giáp, thì cậu đừng...

- Vâng, vâng, vì vậy bác cứ cho phép em được rất thân tình... Thưa bác, giờ bác có bận đi đâu không ạ?... Trần Văn xoa xoa tay cười, mắt tròn mắt dẹt trông ra cái xe đạp, ý muốn đưa vào nhà cho cẩn thận.

Bếp Kình liền vung tay:

- Cứ bỏ bố nó ngoài bờ hè ấy. Khách đến nhà Kình mỗ mà mất xe thì còn ra thể thống gì nữa! Những yêu tạ (3)ở đây giở trò, mỗ thì phơ (4)hết, phơ hết!...

-----

[2] Bạn thân.

[3] Trộm cắp, du côn, anh chị loại sừng sỏ.

[4] Bắn.

Bếp Kình kéo xềnh xệch Trần Văn vào ngồi cái ghế đệm lò xo bọc nhung không hiểu khuân được của tòa đốc lý, nhà băng hay quan năm, quan sáu nào về:

- Lại từ bên Thủy Nguyên sang phải không? Xe của cậu hay phải mượn xe của ai đấy? Nếu xe cậu thì đem vứt bố nó xuống hồ đi, để tớ mua cho cái khác. Muốn ốm ho lao rồi chết hay sao mà đẩy cái tàu bò ấy.

Trần Văn ngượng nghịu. Nhưng không cho phép mình bị động anh cười xòa:

- Như thế mới tự do, không lo mất mát, không phải giữ gìn gì cả bác ạ. Trần Văn lập bập tiếp lửa hút điếu thuốc lá bếp Kình mời. Còn bác, dạo này bác có khỏe không, mà sao trông người như có vẻ... có vẻ hơi sút, không như ngày em thừa tiếp bác ở trên Hà Nội ấy!...

- Ố là là... mỗi ngày vẫn: sáng dậy, súc miệng, bốn cốt nhắc; trưa, vừa cốt nhắc vừa rượu ngang nửa lít vẫn muốn uống thêm; chiều, lại bốn ly không rom thì uýt-ky, tối đúng nửa Nga Mi hay Vân thì mới ăn cơm được,... như vậy thì sút... sút thêm thì có!

Vừa dứt lời, bếp Kình đã quài tay nắm gọn hai cổ chai rượu ở cái tủ phía góc tường giơ ra trước mặt Trần Văn:

- Xanh Zam hay Nga Mi... thích thứ gì cứ việc rót, cứ việc rót...

Miệng nói nhưng trong bụng bếp Kình lại thấy buồn và lo ngại về sự mỏi mệt ốm yếu rất rõ của mình. Đúng, hơn tháng nay, bếp Kình không đêm nào không luôn luôn thức giấc, hay ngủ yên được hết gà gáy lượt hai. Nhất là từ sau ngày Huệ Chi chết, tòa nhà Bờ Biển Xanh của Thy San càng vắng, càng lạnh, càng hoang, càng rợn, ngay đến Tú mông cũng không dám nhòm ngó tới nữa. Bếp Kình đã cố gắng mà rồi cũng phải đưa trả tất cả chìa khóa cửa giả cho cố bà Đức Sinh, mướn một chuyến xe ba gác chở đến nhà thuê riêng ở bờ sông này mỗi cái giường sắt quen thuộc bao năm của mình và cái tủ rượu mua lại của một người bếp già ngày xưa làm cho Tây quan ba tàu thủy để đựng những chai rượu mất nhãn hay sứt cổ rạn đít của Thy San mà Tú mông không dám vơ vét, sợ ê chệ quá với hàng phố!

Sự ám ảnh của cái chết của vợ chồng Thy San đã ghê, đã rợn, nhưng cũng không bằng cái chết của bốn vợ chồng con cái Tây Đờvanhxy, và lại càng không bằng cái chết của Huệ Chi. Cũng như khu biệt thự Bờ Biển Xanh mấy năm nay đã buồn đã vắng, thì nay lại càng lạnh lẽo; trưa cũng như chiều, canh khuya cũng như sáng sớm, ngoài vườn cũng như trong các buồng hay trên sàn thượng, đều như có hồn yêu ma oan nghiệt rên khóc ở cả các chòm cây, các bóng cột, các lan can... Và bếp Kình lại còn phải thấy thương. Một sự xót thương cũng rờn rợn, lạnh lẽo vô cùng mỗi khi nghĩ đến Huệ Chi, mỗi khi phải nhìn đến những nơi phảng phất bóng dáng Huệ Chi.

Người nhận chùm chìa khóa bếp Kình giao trả là vợ Tú. Còn cố bà Đức Sinh, cả lúc bếp Kình chắp tay vái chào lần cuối cùng để đi ra, vẫn chẳng nói chẳng rằng gì cả. Cố bà ngồi trên cái sập khảm xà cừ mọi khi vẫn tiếp các khách có công việc như cầm bán nhà cửa, mối manh vàng, ngọc, kim cương, thuốc men bông sợi, chạy quan tòa, cha cố về các án từ, hay khao vọng, vào đám mở hội... Cố mặc áo lụa đỏ chóe, quần xa tanh trắng mốc, áo vải màn xổ gấu, tóc xõa xượi, tay cầm cái gáo dừa đen nhẫy như sừng cứ múc nước ở cái chậu sành bên này đổ sang chậu sắt mỏng bên kia, đầy xong thì lại đong đổi chậu... như sáu mươi năm trước đây, nhà còn đong bán nước mắm ở trước cổng chợ ấy...

- Uống với tớ nào. Ừ cốt nhắc thì phải tợp hết cả ly như thế mới được!

Bếp Kình lại rót rượu cho Trần Văn.

Tuần qua Trần Văn vừa phải làm việc liền liền bên cạnh bố Vy ở một buồng tối như buồng tằm để viết để khắc và in lại mấy tài liệu gửi về trong Hải Phòng cho công nhân mấy nhà máy lớn sau những cuộc đấu tranh với bọn chủ Tây và bọn Nhật giám sát ở đây buộc chúng đã phải trả lương đúng kỳ, đã phải can thiệp bán đủ số gạo cho gia đình, và đã không dám "cho nghỉ" một người làm nào nữa. Báo Cứu quốc, báo Cờ giải phóng đưa mấy cơ sở nhà máy cũng như ở đường phố đọc, bọn Vy nhớn, Thanh cứ mỗi kỳ lại phải xin thêm. Truyền đơn phát bao nhiêu cũng vẫn thiếu. Nhiều khẩu hiệu và hình ảnh trong báo đã "can" ra những tờ giấy to và vẽ hẳn lên cổng, lên tường nhà máy, với hai chữ Việt Minh hay V. M. đứng xa hàng cây số vẫn đọc rõ. Có lần được phân công vẽ lên tường một cảnh đấu tranh thắng lợi của công nông, Trần Văn đã nổi hứng ký tên nhưng sau phải bôi nhòa đi một góc và khẩn khoản xin lỗi với Tổ chức. Bởi vậy, dù chỉ có một ngọn đèn dầu hỏa trong buồng, ba hôm ròng Trần Văn chỉ cần thỉnh thoảng ra ngoài một lúc là lại tỉnh táo, sảng khoái. Rồi sáng nay Trần Văn ăn với bố Vy mấy củ khoai luộc xong là ra đi.

Giờ đây, đến với bếp Kình, Trần Văn tiếc nếu có Thái Trang cùng đi thì vui thêm biết bao.

- Bác thấy mệt thì về quê mà nghỉ, tội gì mà vong vóng một mình ngoài này. Sáng cứ mở mắt ra là thấy người chết ở ngay trước cửa, ở ngay bờ hè nhà mình, thì cứ gọi là ăn vàng cũng không còn thể thấy ngon...

Bếp Kình gật gù, Trần Văn nhìn đôi mắt lờ ngờ đỏ nhớt trên gương mặt hốc hác của bếp Kình:

- Hay là cho thật khuất mắt hết các sự đời bây giờ, bác về quách bên đồn Cao ở với người cháu trên ấy.

Bếp Kình giận dữ thật sự:

- Cậu muốn tớ lại sống lại cái cảnh sáng thì nghe kèn la vầy (5)con bò kéo xe con bò xe kéo, trưa, chiều thì kêu ăn măng ỉa ra măng (6), tối thì kén tắt lửa mù đi mù đi mù điii (7)... Còn chỗ ở thì tường trong tường ngoài chăng dây thép gai đục lỗ châu mai, lô cốt gác đông gác tây, qua cổng phải chào một lô nào cai nào lính... khổ cũng như ở đề lao, làm cái thân tù thân tội ấy à?!

- Nhưng bác là chú ngài đội coi đồn cơ mà.

- Chú, chú thì cũng như cái con chó ấy. Hằng ngày vẫn có quan Nhật lính Nhật đi về xem xét, ký sổ, ký giấy; đối với lính hơn ba chục người vẫn cứ như những thằng đầy tớ vậy. Đâm đầu lên đấy để luớ quớ bị nó bợp tai đá đít cho ăn đòn âm dương à?

- Thì bảo nhau chịt cổ mẹ chúng nó lại, cho nó ăn bánh trôi (8)việc gì mà đến giờ vẫn cứ phải chịu nhục.

-----

[5] Báo thức trỗi dậy.

[6] Rassenblement (rát săm bơ lơ măng): tập hợp.

[7] Tắt lửa đi ngủ.

[8] Trôi sông.

Bếp Kình:

- Kể ra với mấy thằng lùn mà vẫn phải chịu như thế thì cũng ức thật! Nhưng mỗi người là một bụng, ba chục người là ba chục bụng, bụng mình còn chả biết được hết, chả thật là chắc nữa là... Vả lại làm như thế rồi còn phải tính đến chuyện khác, chuyện xa... chuyện về lâu dài.

- Giời ơi! Những chuyện gì ghê thế cơ bác?!

- Chuyện miếng ăn,... chuyện vợ con thê tử, bố mẹ anh em.

Trần Văn huế huế cười nhưng liền lấy ngay bộ mặt trang trọng chín chắn:

- Bác à! Thế ra mình cứ phải bám lấy những thằng đi ăn cướp, đặc biệt lại là những thằng đi ăn cướp đang thua lụn thua bại, để lấy miếng cơm cho qua ngày? Mà nào vợ con thê tử bố mẹ anh em đã được nhờ vả gì mình! Hay chính vợ con thê tử bố mẹ anh em mình lại đổ mồ hôi máu mắt làm ra thóc gạo, đóng các thuế khóa nuôi lại chúng. Và chính mình phải đem cái thân ra làm bia đỡ đạn... như ông nhà em, như bác ấy... Thời thế chuyển vần, vận hội nước mình không chịu như trước nữa đâu bác ạ!

Bếp Kình im lặng. Bao nhiêu sự đổi đời đang diễn ra gần thì ở ngay làng bếp Kình và các làng chung quanh, xa thì ở huyện trên huyện dưới, tỉnh trên tỉnh dưới, nơi nào cũng có Việt Minh về và dân đã nổi theo.

Bên sông, thuyền, ca nô đỗ đã đông. Từ bực đá cạnh nhà bếp Kình tới những bến tàu Nam Định, Hòn Gai, Móng Cái tít trên kia, tuy có mấy quãng nhà cửa và kho hàng bị Mỹ bỏ bom, nhưng dạo này dân cư lại kéo về hết, xoay sở lần hồi kiếm ăn. Cái nhà của chú cháu Trần Văn hai tầng ghép bằng các thứ ván gỗ, tôn sắt, bao bì trên quãng kè miệng cống sập vỡ và ngập rác ở trước một kho hàng bị bom phá, nay đã có người thu dọn và che mái lên những góc đổ nát mà ở. Khói đun nấu đang cuốn mù lên ngay cửa ra vào có mấy đứa trẻ con rách rưới, trần truồng chầu chực. Không hiểu tại sao mấy quả dừa, mấy khúc tre nứa Trần Văn nhồi đất làm lẵng để trồng hoa leo và cây vạn niên thanh vừa còn đủ, và lại được treo thành hàng phía cửa vách trông ra sông.

Cũng không hiểu từ hôm nào, không hiểu ai được phân công mà ở bức tường to nhất còn lại của kho hàng, ở bức tường liền bờ đường của bót cảnh sát và ở mũi sà lan bị đánh đắm nằm gối lên bờ, hai hàng khẩu hiệu dưới ký Việt Minh bằng sơn đỏ, viết tuy vụng nhưng cứ như có điện xói vào mắt người ta. Thú nhất là hình ảnh quả đấm có hai chữ V.M. giáng xuống một tên quân phiệt Nhật ốm o hung ác, ngã chỏng gọng, giơ tung cả gươm dài và súng lục lên, bên cạnh chỗ y nằm, một xốc Việt gian so súi rúm ró ngồi, quỳ, bò lổm ngổm.

- Bác cũng uống đi với em chứ. - Trần Văn rót rượu mời bếp Kình. - Bác à, làm sao ngay ở bót giữa đường giữa chợ đội xếp rầm rập canh gác đi lại cả ngày cả đêm, mà cũng có Việt Minh thế kia, chịu cho Việt Minh tống cả vào mặt các quan thầy Nhật?!

- Cậu mà hỏi mỗ như vậy thì bằng đánh đố chứ còn gì! Thôi, ra chợ chén với mỗ đi. À mà không phải ra, chợ búa bây giờ toàn ăn mày và người chết, để mỗ lại hàng quen này mua về ăn thôi.

Bếp Kình xách về một khấu đuôi lợn, một gói toàn dồi mỡ, dạ dày và một phạng cháo nóng sút. Trong bữa ăn, bếp Kình nhắc đi nhắc lại thế nào cũng đưa Trần Văn sang đồn Cao chơi với thằng cháu, bắt nó không mổ bò thì cũng thịt dê để chú và ông bạn nhà báo của chú ăn... Mắt đã díp lại, bếp Kình còn lay lay vai Trần Văn.

- Kình mỗ mà sang chơi ấy à, lính đồn còn hốt hơn cả quan Nhật. Sai việc gì cũng răm rắp. Cái gì chứ đi lùng dê, lùng rượu về thì cả đồn đi hết. Chả thế thằng bố đội nhà nó đã bảo với bọn lính, ông cụ tuy không đẻ ra ta, nhưng các thầy các chú phải coi ông cụ như bố ta vậy. Chỉ tại mộ ông cụ bốn đời nhà ta, lão thầy địa lý để đất chỉ chậm có nửa giờ, nếu không ông cụ không hơn thì cũng bằng những tay Đỗ Hữu Vị hay Ba Chuẩn trong Sài Gòn ấy!... Còn ta thì phải lên ách (9)từ năm Nhật chưa sang Lạng Sơn cơ! (Bếp Kình càng lè nhè và díu cả lưỡi). Chả là bố nó đi học thì thi trượt cái bằng Pháp Việt, vào lính đi học lép (10)thì đã mải chơi lại coi thường lão ách xếp, nên năm sau mới đỗ cai... À! Bố nó cũng hay thơ phú lắm, đầu giường lúc nào cũng có quyển thơ của ông tên cũng là Rượu... gì Rượu, mũi to to đỏ đỏ, làm cả thầy lấy số tử vi ấy.

-----

[9] Ách: ách-di-đằng: phó quản.

[10] Elève caporal: lớp cai (tiểu đội trưởng).

⚝ ✽ ⚝

Dậu bao xong tóc, chải sơ sơ và sửa soạn thêm đồ nước thì Trần Văn đến. Đúng ba giờ, con chó chưa kịp sủa thì Dậu đã ra mở cổng. Trần Văn ôm một cái quạt điện hỏng vừa làm ra bộ người đi chữa, vừa làm mật hiệu. Lần trước, sáng chủ nhật, cả vợ chồng Dậu đón Trần Văn. Lần này, để tránh sự theo dõi, Vin Hem cứ đi làm. Dậu ở nhà sẽ nhận tài liệu và nói lại những công việc.

Ngày có lệnh trong chiến tranh không được khiêu vũ, Dậu đành phải làm gái bồi rượu ở nhà Ni-xơ-vô Hải Phòng rồi lên Hà Nội làm cho nhà Takara, Dậu đã chú ý đến Trần Văn. Ông chú Trần Văn đàn ở đấy, rất được những khách vào loại sang trọng, sành sỏi quý mến vì tính đúng mực và tài nghệ của ông. Còn Trần Văn soạn bài hát thứ nhất năm trước đã nổi tiếng, đến bài thứ hai lại càng được ca tụng. Nhưng ông chú Trần Văn chỉ đàn cho cháu đâu có ba, bốn lần mà bọn Dậu phải cùng với bọn khách trẻ nằn nì mãi ông mới nghe. Trần Văn đã có mặt trong đám khách này, lạc lõng thế nào ấy. Đã thế lại uống nhiều rượu, toàn rượu mạnh, và như không thèm nghe người ta đàn, người ta hát bài của mình! Bộ đồ bằng phờ-la-nen màu tro nhạt đã rộng thùng (có lẽ Trần Văn không đi mượn thì cũng mua vội mua nhầm), người Trần Văn lại nhỏ, nhưng Trần Văn cứ làm ra dáng phóng đãng trễ tràng, kiểu ta đây nghệ sĩ siêu phàm, nên Dậu thấy như đóng kịch vụng, hết sức ngố nghế, vừa ghét ghét lại thương thương. Đã thế, chung quanh Trần Văn lại là một lũ hơn tuổi và đã nhẵn mặt trong đám chạy hàng xách và đi che tàn, đi uống gỡ, thi nhau trân trọng tâng bốc và mời mọc Trần Văn. Dậu đã nghĩ đến một lũ quỷ Sa tăng cụp đuôi lại, chơi giỡn một con chiên mà chúng cũng dùng như một món hàng mới, mưu din một áp phe nào đấy.

Lần trước cũng đội mũ cói nhưng quần kaki, áo sơ mi dệt màu nước biển nhạt nên cũng không lạ quá. Hôm nay thì Dậu suýt kêu lên, và, nếu như trước kia gặp ở phòng trà, Dậu thế nào cũng phải đấm cho mấy cái và rủa:

- Quỉ! Quỉ! Định đóng phim hay sắp đến chợ Đồng Xuân tỉ thí với bọn Tư lập lơ, Sáu gáo đồng mà nai nịt thế này?

Dậu chỉ bậm miệng lại cười, cùng Trần Văn nhấc cái xe lốp cơ rếp nặng như xe tăng tàu bò ấy vào một góc tường râm mát. Trần Văn đã ngồi vào chỗ còn đảo mắt nhận xét phía bên ngoài rồi vào chuyện rất trịnh trọng. Trần Văn cho biết Chấn đã đọc kỹ thư của Vin Hem. Tin tức của Vin Hem cung cấp thật là quý. Còn hai chỗ giấu võ khí Vin Hem chỉ dẫn đều tìm thấy nguyên vẹn. Ba khẩu súng trường, hơn trăm viên đạn ấy đã chuyển ngay lên cấp trên. Xim và Chấn nhắn lời nhiệt liệt hoan nghênh tinh thần và việc làm đó. Trần Văn cũng không quên thêm mấy câu của bọn Trần Văn, Thái Trang quen biết Dậu từ lâu cảm ơn Dậu rất nhiều.

- Ối ối! Ối! Sung sướng quá, lại có báo Cứu quốc nữa này. Những hai số... Cảm ơn Trần Văn, cảm ơn Trần Văn.

Dậu luýnh quýnh phủi phủi tay vào áo, đón lấy. Vừa liếc nhìn thấy lại có tin đấu tranh của Bắc Ninh, Dậu reo lên:

- Truyền đơn rải ngay trong trại lính Nhật ở Đáp Cầu đây này. Những người buôn bán ở chợ Đáp Cầu cũng mét tinh đây này. Sông Cầu nước chảy lơ thơ.... bây giờ cũng nổi như thế đấy! Trần Văn ạ, nếu tôi mà về quê bây giờ thì nhất định không chịu vắng mặt một cuộc mét tinh nào. Nghe đồn hôm diễn thuyết ở chùa Phật Tích, ở chùa Bạch Môn có cả sư nữ lên phát biểu ý kiến, còn chị cán bộ Việt Minh thì đẹp hơn cả bà chúa Chè ấy!

- Thôi cứ bằng bà chúa Chè vậy.

- Sao lại thôi với vậy! Cứ là bà chúa thì nhất, còn là cán bộ thì không đẹp, không nhất ư? Này, ngày xưa các phiên chợ Lim, chợ Dầu hay các đám hội, gái làng Tam Sơn, Nội Duệ, Ngang Khám mà khoác tay nải hay gánh tơ gánh vải đi đường, cứ như các cô Tấm trẩy hội ấy. Con gái các nhà quan, các nhà giầu Hàng Đào, Hàng Ngang có về đây cũng chẳng còn ra cái thớ gì trước các cô chọn làm tướng, làm quân cờ đấu giải.

- Từ làng Dậu xuống Phù Ninh có xa không nhỉ?

- Xuống Nành ấy à? Chỉ bằng chợ Đồng Xuân lên Hồ Tây, hay từ phố Cầu Đất ra ngoài bến Sáu Kho thôi. Trần Văn có thuộc sự tích bà chúa Nành không? Là Ngọc Hân công chúa này... là con gái đẹp và quý nhất của vua Lê này...

- Là vợ vua Quang Trung... là thi sĩ nữa. Bài thơ của Ngọc Hân khóc vua Quang Trung được xếp vào áng văn chương tuyệt vời đấy! Hay nói một cách khác, đây là bài thơ tình trang nhã, thắm thiết, tiếc thương người anh hùng, khó mà có ai làm được. Ai tư vãn! Ai tư vãn!...

Tóc Dậu đã có nhiều sợi khô, lại bồng lên, làm gương mặt lồ lộ. Không phấn sáp, da săn sẻ khác hẳn ngày trước. Toàn thân tuy không còn thon lẳn nhưng vẫn mượt mà trong bộ quần áo lụa may hơi chét. Gió mai thổi lộng. Hương tóc của Dậu nhiều phút át cả hương hoa ngoài vườn. Thỉnh thoảng Dậu lại lắc lắc đầu, rùng rùng nghển nghển cổ, cho mái tóc chóng khô thêm.

- Ngày trước Dậu học đến lớp mấy nhỉ?

- Học ở nhà, có lớp khỉ gì đâu!

- Sao chữ Dậu viết đẹp thế?

- Tôi viết cái gì mà Trần Văn xem khen đẹp.

- Dậu chả đã chép bài Suối hoa của tôi đọc cho là gì? Và khi nghe Dậu hát mấy lần ở Takara, tôi đã hỏi Dậu có thích hát và hay tập hát không mà...

Dậu lim dim, hai tay che mặt:

- Ngượng quá! Ngượng quá! Hát dở thế mà cũng nhớ à?

Trần Văn không còn giữ được mình, đứng chồm lên, bước vội đến, một tay ôm lấy lưng Dậu, một tay nâng

cằm Dậu lên. Dậu choàng người, hất băng cả cánh tay Trần Văn.

- Làm gì thế? Trần Văn làm gì thế?!

Trần Văn suýt nhao đi nhưng lấy lại được đà, liền ôm chầm lấy Dậu. Lần này, Dậu đứng hẳn lên, một tay đẩy dằn người Trần Văn phải ngồi vào ghế:

- Đừng làm thế Trần Văn. Nhọ nhem lắm! Dậu không bằng lòng thế! Không thể nào lại như trước được đâu!

Trần Văn sa sầm cả mày mặt. Nhưng khi ngước mắt lên nhìn Dậu, thì Dậu nhìn lại vào mắt mình, giọng nghiêm trang mà vẫn trìu mến:

- Thôi, không được nói gì cả! Nào bài thơ Hồn mẹ Biển Đông ru ta soạn thành nhạc đã quảng cáo ở cả mấy rạp xi-nê trên Hà Nội, hôm nào thì cho trình diễn ở Hải Phòng đấy? Mấy bài trước cũng đưa lên Hà Nội ra mắt. Ăn cơm gạo của Hải Phòng mà làm ăn như thế thì không tốt đâu! Dễ thường quan họ Bắc Ninh không có Ma-jét-tích, Ê-đen, Ta-veéc-toay-an, Nhà hát Tây... thì chết cả đấy, không ai hát không ai thích đấy.

Mặt càng sàm sạm, Trần Văn cười xòa:

- Thế tôi đưa cho Dậu tập rồi sẽ tổ chức một buổi để Dậu hát nhé?

- Sợ gì! Sợ gì! Chỉ sợ nhạc sĩ nhà ta làm không hay thôi!...

Dậu giơ tay bắt tay Trần Văn mà cười, vẫn rất tươi, rất hồn nhiên và trung hậu.

Trần Văn lấy lại chỉ được hai tờ Cứu quốc. Còn một tờ Dậu khất kỳ sau sẽ trả vì trong đó có bản đồ vùng giải phóng Cao Bắc Lạng, Vin Hem sẽ còn dẫn giải kỹ nữa cho Dậu cả mặt chính trị và quân sự thật là quan trọng, thật là có triển vọng lớn của phong trào Cách mạng Việt Nam và Vin Hem rất tiếc trình độ của mình không cho phép thấu suốt được. Vin Hem còn biếu Tổ chức khẩu súng lục hỏng đã sửa chữa của tên Pháp đốc công xưởng máy vứt vào cống bếp tối hôm đảo chính, quân Nhật đến vây bắt.

- Súng kiểu gì mà đầu đạn lại tròn tròn múp múp thế này.

Nhìn Dậu rút băng đạn và tháo ra từng viên, chỉ bảo cách sử dụng, Trần Văn cầm lấy mấy viên nâng nâng, nhận xét hình dạng, các bề và đường rãnh của nó.

- Ấy, thứ đạn đầu tròn này ai bị nó bắn vào trong người thì nó phá ra như những đạn ria, nguy hiểm lắm! Loại đạn này hơi hiếm, vì không có bán và cũng ít người có súng.

Dậu gói súng vào một miếng dạ màu nước biển với ba băng đạn còn đỏ ối. Trần Văn, như một đứa trẻ, chỉ muốn chộp ngay lấy như chộp một thứ quà bánh hay đồ chơi lạ nhất, quý nhất, không thể nào nghĩ tới.

⚝ ✽ ⚝

Càng cố gắng đạp rất nhanh, Trần Văn càng thấy xe chậm rì. Giá có cánh, Trần bay được qua sông, về cơ quan của bố Vy thì sung sướng biết bao! Nhất định Trần Văn sẽ xin được bố Vy khẩu súng này rồi cũng luôn luôn mang theo người nhất là khi được về phố. Trần Văn ước ao có cánh bay còn vì cái cảm giác hổ thẹn, nóng rát, day dứt, hối hận vẫn cứ bám theo như ở sau gáy, và có lúc đè trĩu lên vai anh.

⚝ ✽ ⚝

Kiều nằm sõng sượt, văng tục, chửi và nói như phát điên, phát cuồng, phát rồ:

- Chúng nó vào Bá Linh rồi!... Chúng nó vào trước Bá Linh rồi!...

Không biết từ đâu, từ bao giờ, tin Hồng quân Nga vào chiếm Bá Linh, cũng như tin Hítle tự tử đã loan đi đầy hết các công sở, nhà ga, bến tàu, đường phố. Chẳng cần phải đợi nhật trình, nhà báo, hãng này hãng khác, ông nọ giới kia, thông báo chính thức hay bán chính thức gì cả.

Các tin các chuyện về cái chết của Hítle đã nhiều lúc cứ diễn ra ở trong trí tưởng Kiều như những màn ảnh chiếu rất chậm, rất rõ với một thứ ánh sáng ma quái. Hítle khoác tay người yêu, người yêu Hítle là một đào hát, người yêu Hítle cũng choàng thứ áo cưới mỏng tang và trắng toát, khoác tay Hítle, làm theo các nghi thức hôn lễ... để rồi cùng Hítle chết! Hítle bấm nút điện cho hầm sập tan tành? Vợ chồng Hítle tự tử bằng thuốc độc?... Hítle lấy súng lục bắn vợ chết trước rồi đến mình? Thôi thì kệ cha cả Hítle với con vợ, "một phút" của nó và mấy thằng tướng tá cộng sự thân tín nhất kia! Cũng như kệ cha cả cái huyền thoại Hítle vẫn sống, trốn được ra nước ngoài. Và cũng kệ cha cả cái nước nào đó nhận cho Hítle nương náu!

Đểu quá! Đểu quá! Đểu vô cùng! Đểu trên hết mọi sự đểu là... cái sự quân phát xít để Hồng quân Nga vào trước Bá linh chiếm Bá Linh. Đã có gan ăn cướp sao lại không có gan chịu đòn. Cho nổ tan hết cả Bá Linh cùng với quân Nga khi quân Nga vào có hay không? Hay thiêu ra tro cả Bá Linh với quân Nga thì càng tốt nữa!!! Tiên sư cha mày Hítle ạ! Tiên sư cha cả lũ chúng mày Hítle ạ!

Em Nguyệt của Kiều đã không thể không thấy rõ sự bối rối của Kiều. Mà Kiều càng làm ra bộ thoải mái, ung dung thì gương mặt lại càng như phản chiếu rõ thêm cái tâm trạng đen tối. Kiều ung dung thoải mái vì chỉ trong vòng hai tháng nay Kiều không những không mắc nợ ai, không phải mua chịu mua đựng mà trong nhà sắm sửa ăn tiêu như được trúng số độc đắc. Đã giường gỗ lát, lại sa lông gỗ lúp, đã sa lông gỗ lúp lại tủ áo gương, tủ buýp phê, bàn đánh phấn, kê cứ ụn cả nhà với các thứ đồ sứ, pha lê, mạ kền mạ bạc bày ở cả mép cửa sổ, góc tường, xó lan can... Còn tiền thì đầy một ngăn kéo tủ, tuy có khóa đặc biệt nhưng không khóa, em Nguyệt và Kiều tiện tay lúc đi chợ, đi phố cứ rút từng tập giấy bạc năm trăm cũng như năm đồng... Cố nhiên là Kiều gửi tiền về nhà quê và mua sắm các thứ trước nhất cho bố rồi đến vợ cả. Kiều bảo Kiều vừa chạy được mấy mối hàng và sẽ còn kiếm được nữa, kiếm được nhiều nữa, vì cả những nhà buôn đồng bán sợi phất nhất ở Hà Nội, Hải Phòng cũng phải nhờ cậy đến Kiều, bỏ vốn cho Kiều tùy tiện sử dụng.

Món hàng đã đem tiền đến cho Kiều là những vụ bắt giam, trong đó có ông ký Thái, ông giáo dạy trường Hàng Kênh và ông chủ hiệu sách Chí Tín. Trong báo cáo mật với Bốn Mắt thì Vũ Sinh là con ông ký Thái đã ám sát Đỗ Đức Phan ở Hải Phòng và chơi khá thân với mấy kẻ ám sát viên quan Nhật ở trước rạp Tố Như trên Hà Nội. Ông giáo Hàng Kênh ngày trước cũng dạy Kiều học thì chứa chấp Vũ Sinh và làm liên lạc giữa Việt Minh với những trí thức, công chức và những người có tinh thần công ích, thực tâm muốn hoạt động xã hội. Còn hiệu sách Chí Tín với cái ông chủ gầy gò xanh xao, nho nhã chắp tay vái chào khách vào mua hàng cũng như khách chỉ xem chơi thôi kia, là cơ quan kinh tế của Việt Minh, nơi từng đi về của mấy cán bộ Việt Minh vào cấp Trung ương, Tổng bộ hay Kỳ bộ.

Đỗ Đức Phan bị bắn hôm trước hôm sau thì Kiều xin được gặp trực tiếp Bốn Mắt và "bán" đầu tiên Vũ Sinh. Nhưng ông ký Thái bị giam giữ rồi, mà Vũ Sinh vẫn chưa bị bắt. Liên tiếp hai tuần sau, Kiều "bán" thêm cho Bốn Mắt hàng chục vụ nữa, mà vụ nào cả Bốn Mắt và những cơ quan chung quanh Bốn Mắt đều thấy đúng. Kiều lại còn trúng ngoài việc bán người này là theo Ba lé chạy được hai chuyến hàng cho Tú mông.

Nhưng cho tới giờ,... Kiều vẫn chưa đánh hơi được ra một mối manh nào của những Trung ương, Tổng bộ và Kỳ bộ. Kiều đã vắt óc nghĩ đến các đường, các nẻo, các nhà, các người mà kiều có thể dò được chỉ một chút gì là dấu vết của Tổ chức hay của cơ sở liên lạc với những đồng chí quan trọng ngày trước Kiều đã được gặp gỡ vài lần ở nhà báo Le Travail và nhà báo Tin tức, hay ở mấy cuộc hội họp công khai trên Hà Nội. Hình ảnh và tên tuổi những đồng chí này, có người Kiều chỉ được nghe tả, nghe nói trong các chuyện về phong trào 1930 và về các nhà tù Sơn La, Hỏa Lò, Côn Lôn thôi. Nhưng Kiều thấy như thật được sống bên các đồng chí ấy. Một ai kia dù có cải trang hay cẩn thận đến thế nào chăng nữa mà đi qua, nhất định Kiều sẽ bắt được hơi ngay và chỉ bám theo một lúc là có thể "làm nên công chuyện!"

Bởi vậy cho đến bây giờ Kiều vẫn chưa săn được, chưa bán thêm được một T. T. một M.K., một H.Y... trong những cấp bộ kia, thì Kiều có lúc như muốn tát vào mặt mình hay gầm lên.

Kiều cũng gầm lên mà vẫn phải nằm sõng sượt trên giường và chửi, khi đọc tờ báo Đông Pháp phải đăng tin rành rành Hồng quân Nga đã tiến vào Bá Linh. Người đầy tớ gái, em Nguyệt mới đem về nuôi, khi ra sân thượng phơi quần áo cứ tưởng như Kiều đang nghỉ ngơi để sắp sửa vào bàn làm việc hay đi phố có chuyện quan trọng nên càng rón rén. Vắt các đồ giặt lên dây thép, cô không dám phẩy mạnh. Cô căng ra từng mép áo, từng gấu quần cho khỏi dăn diu rồi lại bước rất nhẹ vào nhà lau chùi các thứ, chờ Nguyệt đi mua thêm mấy thức ăn ở cao lâu về rồi mới thổi cơm.

Kiều đã nhỏm dậy:

- Nhài, lấy cho tôi đôi giày da mới nào.

Kiều vừa thắt dây, vừa nói:

- Tối tôi về muộn đấy!

Người đầy tớ gái:

- Vâng ạ, thưa cậu, cậu còn dặn gì mợ nữa...

- À cứ bảo mợ ăn cơm trước, đừng chờ tôi, có thể tôi đi khuya về tôi mới ăn.

- Vâng ạ.

Kiều xuống gác, khẽ mở cửa cho cái chuông đồng không rung ầm ĩ, khóa bên ngoài lại rảo bước đến đầu phố, nhẩy lên một ô-mích. Kiều bảo xe kéo ra phố Cầu Đất mua mấy phong bánh đỗ xanh, lên phố Khách giả vờ hỏi xem có lê táo mới, rồi mới cho xe quay lại. Nhưng còn cách tiệm Ông trẻ một quãng mươi cột đèn, Kiều bảo dừng, trả tiền người kéo, trông trước trông sau rồi đi tắt qua một ngõ hẻm nữa mới lên gác.

Cũng hơn tháng nay, Kiều phải hút cả bữa chiều. Kiều không nói cho ai biết chỗ tiệm này. Khi đi về, lúc sớm lúc muộn, gọi xe đi cũng không nhất định ở chỗ nào. Giờ giấc Kiều ra phố, cả em Nguyệt cũng không nắm vững. Kiều phải đến "boát" (11)của Ông trẻ để tận hưởng khoái lạc đền bù lại cái công việc khá mệt mỏi và cũng khá nguy hiểm của mình. Kiều đã nghĩ, nếu bây giờ mà không có tiệm hút này, thì thật khổ, thật là buồn cho Kiều vô cùng.

Khách đây, ngoài mấy tham biện, thông ngôn làm ở Tòa án, Sở đốc lý, nhà Đoan và mấy chủ hiệu mới phất thỉnh thoảng rủ nhau đến để hút chơi, thì Kiều không bị ai làm bận rộn, mà tiệm thì như dành riêng cho mình vậy. Về phần Ông trẻ, từ ngày Đỗ Đức Phan chết, những tưởng phải lâu mới có một khách hàng như thế, nhưng sau đó thấy Kiều lại sộp hơn và có vẻ là một nhân vật quan trọng mới, có thủ đoạn, thì càng cố chiêu đãi và đặt hẳn thành một lệ: khi Kiều đến hút thì hoàn toàn không tiếp ai, cửa cầu thang đóng, biển cửa quay mặt đề chữ "xin miễn hỏi" ra ngoài.

Chỉ nghe tiếng cài cửa, Ông trẻ biết ngay là Kiều. Y lấy cái chổi bằng lông đuôi ngựa phẩy phẩy tấm nệm ở bên kia để đón. Kiều chìa tay cho y bắt, tươi cười và lắc đầu:

- Hôm nay lại nắng quá!

- Nhưng chỉ nằm ở gác tôi mấy phút là sẽ thấy như ở Đà Lạt hay một nơi đang là mùa thu với cờ - li-ma đờ Fờ-răng-xơ (12)đấy!

Kiều cởi áo ngoài mắc mũ vào chỗ quen. Chỉ thoáng giây, điếu thuốc to mòng đã kề vào miệng Kiều, diện tẩu chiếu xuống ngọn đèn dầu lạc sáng trong, chụp pha lê cài một con gián nhỏ bằng đồng che cho bên khách hút không bị chói mắt. Điếu thứ hai... thứ ba... thứ bốn... Kiều hãm với chén nước chè mạn sen Ông trẻ gọi bồi pha mới. Ông trẻ rất trân trọng:

- Trà của một nhà bà cô họ tôi trên Tây Hồ chuyên phuốc-nia (13)cho mấy quan tổng đốc và mấy quan ta ở tòa án Thượng thẩm... ông thấy được chứ ạ. Chịu thật! Ông Hítle mà trốn được sang Anh, Anh mà bố trí cho Hitle thoát khỏi thiên la địa võng của Hồng quân Nga thì chịu thật!

-----

[11] Boite: tiệm.

[12] Climat de France: khí hậu của Pháp.

[13] Cung cấp.

- Tin ở đâu thế hở ông?!

- Người cho biết tin vừa thuộc giới am hiểu vừa là... nhà có đài vô tuyến điện trên phố, phố Khách ấy!

Kiều mỉm cười:

- Thì cứ cho là một nguồn tin.

- Vâng, không có lửa sao có khói?! Phải thế nào thì mới có tin này. Ai mà tung được con vịt như thế được. Thời thế chắc còn nhiều chuyện lạ lùng nữa, mà trí óc bình thường khó tưởng tượng nổi. Tôi không phải là người chuyên môn nghiên cứu về chính trị thế giới, nhưng tôi vẫn cứ ngại ngại chiến tranh có thể kết thúc ở châu Âu, chứ ở bên Thái Bình Dương này không khéo vẫn cứ kéo dài. Cái gì chứ bí mật, thì phải xin chịu các con cháu Thiên Hoàng nhà ta. Mà trong trận pháp, ai giữ được bí mật thì thắng, Tôn Võ Tử nghìn năm trước cũng công nhận điều đó, đặt điều đó lên mục hàng đầu binh thư.

Kiều bóc bánh mời Ông trẻ. Ông trẻ cúi đầu cảm ơn, tiêm thuốc tiếp cho Kiều, Kiều đã thấy vui vui:

- Như vậy chắc ta sẽ có kỳ nh