← Quay lại trang sách

Khi Đứa Con Ra Đời Chương 12

Ngày xưa mẹ mày một tay dắt em mày, một tay ẩy mày vào nhà để nói với cậu Thanh cho anh em mày đi học. Thằng Ly đã tối dạ lại lười như thế, tao phải xin cho học hết ông giáo này đến thầy giáo khác nhưng chẳng được chữ nào, vậy mà học cậu giáo Thanh chỉ ba bốn tháng đã biết đánh vần trắc, chữ viết buông sáng sủa đẹp đẽ hẳn hoi. Anh mày đi làm tàu về, đưa tao đôi giày vải đen, tao bán được sáu hào, tao bòn nhặt tiền bán trầu nước, thuốc lào thuốc lá được thêm bốn hào, trả cho cậu ấy tiền tháng học của chúng mày. Sau anh em mày phải theo cậu ấy vào xóm trong học vì ngoài này chật quá. Tao vẫn gánh nước ra Sáu Kho bán cả ngày, khi nào có tàu to về, hay nhiều phu phen làm tối làm đêm, mày mới phải ngồi thay tao một chốc một nhát, còn thì chỉ có việc cùng em ăn học. Tại mày đã lớn quá, mày thích theo đòi không được xuống tàu thì cũng xin tập công nọ việc kia, nên mày không cố thi để lấy cái bằng sơ học. Còn thằng Ly thấy mày biết làm đủ bốn phép tính, đọc thông viết thạo, mà còn nhất định thôi học, nên nó cũng bỏ học, lại ra Sáu Kho bán trầu nước...

"Nhưng rồi ra nào có được công ăn việc làm để thân lập thân đâu! Mày ra đi đăng lính khố xanh, đâm đầu vào cái cửa này để làm gì hở Lý? Tháng tám đồng rưỡi, chín đồng bạc lương, cơm hàng cháo chợ nhà thổ, xóc đĩa, chắn, bất, đố mười... cờ bạc ngay trong trại, vay non trả muộn phải cầm quá vòng tử cả sổ lương, đến nỗi phải đi ăn chịu cả bát cháo hoa, tấm bánh đúc, mua chịu cả bao diêm phong thuốc, mặt dày mày dạn nói năng van lạy từ nhà chủ thổi cơm tháng cho đến con mẹ bán quà ở cổng đề lao, cổng nhà thương... Nhục nhã đến nỗi ăn chặn cả nắm xôi, gói bỏng mật của nhà pha đi làm cỏ vê... "Rồi lên đóng các đồn ở rừng xanh núi đỏ... Hàng năm cũng không viết cho mẹ lấy một lá thư, chứ đừng nói gửi cho mẹ đồng quà tấm bánh... Đã tưởng mày mất xác ở trên Lạng Sơn trong chuyến năm xưa quân Nhật kéo sang tràn qua Đồng Đăng, hay trong chuyến vừa qua ở Quảng Yên. Nhưng Lý ơi! Mày vẫn còn sống đến bây giờ đấy, mà chỉ mẹ mày em mày là không còn thôi! Mẹ mày em mày chết rồi. Mẹ mày và em mày có anh mày đi làm tàu, vợ con hẳn hoi, và có mày cũng sức dài vai rộng, lương tháng, gạo bông, quần áo lĩnh, mà cả mẹ lẫn em phải chết đói đấy!..."

"Chao ôi, đã đành như anh mày không được mẹ mày chăm bẵm, bồ côi cha từ năm lên chín lên mười, phải ra Sáu Kho đội than, đẩy xe bò tự kiếm lấy miếng cơm mà ăn, rồi thì bấn bíu vợ con không trông nom được mẹ mày. Chứ như với chúng mày, mẹ mày đi bước sau đây, sinh được anh em mày, nuôi mày cho đến năm mười hai mười ba, em mày lên tám lên chín rồi mới bồ côi, vậy mà anh em mày không biết quấn túm lấy mẹ, bảo ban nhau làm ăn, để đến nông nỗi..."

Thanh lại đưa bao thuốc lá Bát tô cho Lý.

- Lý lấy thuốc hút đi.

Lý buông hai tay bưng đầu, đón lấy bao thuốc. Những tiếng nói và cuốn phim vô hình vụt biến đi, nhưng một hình ảnh khác và tiếng nói khác tiếp ngay tới.

Bà mẹ Lý người gầy xương, trán ngắn, gò má cao, da đen cháy, mặc xống vải dày nhuộm nâu, áo cụt tay chắp vá, khép nép ngồi mén ở góc giường. Anh em Lý đứng sau lưng nghe mẹ kể sự tình với Thanh và khẩn khoản xin Thanh cố nhận dạy bảo cho con mình học. Lý, Ly là hai đứa lớn trong đám học trò đầu tiên ở xóm Cấm của Thanh. Có buổi bà mẹ Lý không gánh mà đội gánh nước, tay cắp cái rổ to càng ràng những hộp, những bát, những gói, những dao bài, đèn hoa kỳ, gáo dừa, que đóm... cạp rổ lại còn mắc lủng lẳng một điếu cày. Ở ngoài Sáu Kho về, bà cũng vẫn đội, vẫn cắp. Hết nước, hết trầu cau, thì thêm mấy ống cân gạo buộc túm vào khăn vuông mớ khoai tây, miến vụn của bọn trẻ con bấu xấu, và dúm mắm tôm đặc, bó rau muống, rau cải đi qua phố mua vội... Người mẹ ấy nhiều buổi còn phải dằn thằng Ly ra, tru tréo lên mà lau mặt, lau tay để nó đi học, không thì mũi dãi bùn đất ghê khiếp quá!...

- Thưa cậu, cậu để cháu châm, cậu để cháu châm. Lý bật lửa, khum khum tay che, kính cẩn đưa Thanh.

Lý càng thấy như thật mẹ và em đang cùng mình ở trước mặt cậu giáo. Còn Thanh thì vẫn nhìn kỹ Lý, từ cái thân hình cao dỏng, gầy và xanh, mặc quần áo lính vải màu nước dưa, không đội mũ và có lon liếc gì cả, tóc sã như cánh gà rù, ngồi đối diện mình kia, Thanh nhớ đến hôm xưa còn nắm tay viết cho cái thằng Lý tóc để rũ, gương mặt lỳ, mắt ti hí, sức vóc khỏe hơn cậu giáo, nhưng có vẻ ngoan ngoãn và quý mến cậu giáo khác hẳn với những đứa cùng học.

Lý cũng không thể tưởng tượng được lại gặp Thanh ở đồn đây. Thanh cũng thế. Chính Lý đã chạy theo gọi Thanh, khoanh tay cúi đầu như ngày trước, rồi xoắn xuýt mời Thanh vào hàng bia nước chanh. Thanh đang vội nhưng phải nán lại chuyện với Lý gần hai tiếng đồng hồ. Hôm đó, Thanh về báo cáo ngay với Xim. Vy bố, Chấn,

Cao và Xim đều reo lên và quyết định tức khắc công tác cho Thanh.

Lại một lần gặp nữa. Lần này, Lý nhất định mời Thanh về ăn cơm ở nhà người nấu tháng cho mình. Tối, Lý còn xin phép cai xếp cho mình ngủ nhà. Đến hôm nay thì Thanh coi như đã nắm vững được hoàn cảnh tình hình trong đồn. Từ viên đội nhì cháu họ bếp Kình, đến viên cai xếp, viên cai thơ lại, lính nhà giấy và từng người bếp, người lính cùng ngũ với Lý... Tính nết hoàn cảnh lai lịch của từng người; tháng năm đi lính tập tành trận mạc, đã đóng ở những tỉnh nào, đồn nào, đi những đâu, làm gì, đối xử với dân cũng như với tù ở các trại các đề lao ra sao, đi đánh dẹp bao nhiêu nơi, bao nhiêu cuộc,... Các việc của họ, Thanh không phải chỉ nghe Lý kể chuyện, mà Lý còn lập cho Thanh từng bản hồ sơ, bên cạnh là tấm bản đồ toàn thể đồn Cao với các cổng, các kho, các trại, lô cốt, nhà giấy, nhà ở và các thứ súng đạn cùng sự sắp xếp khi có báo động tập hay phải đánh thật.

Thanh hỏi một thì Lý đã trả lời tới ba. Thanh không hỏi thì Lý lại càng nói nhiều nói kỹ. Lý vừa chuyện như vừa xưng tội. Lý chuyện không biết chán, không biết mỏi như với một người bạn thân thiết, tin cậy mong mỏi bao lâu. Lý xưng tội không phải với một cha cố, mà với một thầy cả không có bảy chức thánh nhưng Lý lại thấy thiêng liêng cao trọng hơn. Vì thế Lý càng đau khổ, nghĩ ngợi, khi mời Thanh có uống bia, uống nước chanh chai không, thì Thanh chỉ bảo làm cho mình một cốc chanh quả. Còn lúc đến bữa ăn ở chủ nhà nấu cơm tháng. Thanh đã chạy xuống bếp, giữ lấy tay Lý, giữ lấy con gà, mà rằng:

- Nếu Lý không lên nhà với tôi, và tôi chỉ nghe có một tiếng là tôi ra ngoài phố ngay!

Không chỉ nói thế, Thanh còn bưng mâm cơm đang dọn thêm món ăn ở dưới bếp lên, khiến Lý phải giằng lấy, tủi thân vô cùng.

- Cậu giáo! Thì cậu giáo không cho phép con, cậu giáo cứ lên nhà đi.

Lý bảo chủ nhà tráng nhanh bốn quả trứng rồi vội vội vàng vàng xới đầy liễn cơm bưng lên với một cút rượu "Hổ cốt" mà Lý ép hết sức Thanh cũng chỉ uống nổi với mình không đầy nửa chén. Mỗi lần nhấc chén mời Thanh hay gắp cho Thanh miếng lòng, miếng thịt, hôm nay đầu kỳ tiền, chủ nhà đi chợ mua một miếng thịt thủ và cân lòng, thấy Lý có khách và là người thầy học nên đã thái thêm một đĩa ngoại lệ lại còn tráng trứng nữa, thì Lý lại muốn thét lên:

- Giời ơi! Cậu giáo ăn đi chứ! Cậu giáo uống đi chứ! Một cút chứ một chai lít, thằng Lý này cũng tiếp cậu hết. Còn mấy đĩa thức ăn này chỉ gắp gọn và lùa mấy miếng là hết, cậu không cho làm gà thì đã có hàng giò chả, hàng bún xáo vịt ngoài chợ gần ngay nhà kia, cháu mà ra bê cả mâm về, cậu đừng trách!

Cơm xong, đang xỉa răng uống nước, Lý xin vô phép ra ngoài một tý, rồi bưng về một đĩa các thứ bánh cao lâu có những chiếc đã khô như củi, nhân thì chẳng còn thể biết là mùi vị đỗ xanh hạt sen hay mứt gì. Lý mua hai gói chè củ ấu, cho cả vào một ấm chuyên, rót từng chén đặc chát mời Thanh uống và ăn bánh. Khuya lắm, Lý buông màn sẵn, Thanh phải vào màn cho Lý đi ngủ. Lý nhất định nằm ở cái võng bên bàn ăn. Trong khi Thanh cứ phải căng mắt ra vì bao nhiêu hình ảnh và ý nghĩ, Lý đã ngáy pho pho, thắt lưng da, áo ngoài, ví tiền, xà cạp và quần cuộn thành một đống gối đầu lên, lòi thòi cả xuống đất, giạng háng gác đùi lên cả bàn...

... Phải, giờ đây người mẹ Lý đang ngồi trước mặt Thanh. Lý và em đứng đằng sau, nhưng không phải bà kể lể các tình cảnh khúc nhôi của đời mình hai lần góa chồng nuôi con, mà còn phô với Thanh tất cả các chuyện tủi nhục của đời làm lính của Lý mà từng việc, từng việc, từng tháng, từng năm như diễn ra trong khói mù, trong sương muối. Bà vừa nói vừa nhìn Lý. Cái khổ mặt trán ngắn, gò má cao, mắt nhoi nhói, da đen cháy ấy, nhiều lúc đăm đăm yên lặng rất lâu rồi ngập ngừng không hết lời, nhưng Lý cũng đủ hiểu thấm thía cái điều này: "Đời mẹ chết đi đã thiệt thòi khốn khổ, khốn nạn... Đời con sống được đến bây giờ, thì con đừng để phí để hoài. Nước đục thì đánh cho trong, vải lấm thì giặt cho sạch. Con như kẻ chết đuối được người giơ tay đón vớt đấy!... Thôi nào, mày đỡ giành nước cho u đội, bỏ gọn bát và hộp diêm thuốc vào rổ cho u cắp, mắc chặt cái điếu vào rổ kẻo lại rơi... Chiều có ra Sáu Kho đón u mà thấy còi tàu to thì nấu thêm ấm nước, cho u bán khuya rồi lấy gạo về thổi cơm. Bảo thằng Ly đưa cơm canh ra ngoài cho u ăn..."

Lý một tay vuốt cánh tóc mai, một tay pập pập vỗ tàn điếu thuốc hút một hơi dài, nhìn Thanh đau đáu:

"Cậu giáo không nói, cháu cũng biết cậu là cán bộ, là Việt Minh rồi! Cậu xem xem có còn phải hỏi cháu điều gì để tra xét cho kỹ thì cậu cứ hỏi. Để rồi cháu cũng phải hỏi cậu điều này, chỉ mỗi điều này thôi. "Có phải là cấp trên định phá, định cướp cái đồn này không? Mà nếu còn e ngại thì e ngại điều gì? Cả cậu nữa, cậu có tin cháu không? Như ý cậu, cậu thấy cháu có thể giúp tay cậu được việc gì vậy?..."

Ông giáo và chú ngũ cứ ngồi nhé, tôi chạy quàng ra chợ xem có nải chuối, mớ ổi gì không? Có khách, chú ngũ bảo họ cứ việc múc nước và lấy thuốc hút... Tôi về ngay... về ngay...

Bà hàng lếch thếch cắp rổ đi như chạy, mặc Thanh và Lý. Lý lại đáp ngay, chưa dứt câu Thanh hỏi:

- Đúng! Đúng đội nhì quản đồn không ưa thằng cai thơ lại lắm. Đội nhì thì ỷ mình còn trẻ, tuy không đỗ bằng Pháp Việt nhưng nói tiếng tây cứ làu làu, viết chữ còn đúng còn đẹp hơn cả nhiều ký lục ở trại giám binh tỉnh. Chỉ vì y không chịu luồn lọt mấy thằng quản ta cáo già và mấy thằng quan một quan hai tây đồn ăn bẩn uống bẩn, và y chỉ thích đi cô đầu, làm thơ làm bài cho cô đầu hát, đối với lính thì cho lu bù, có thằng moong (1)liền hai đêm về nhà cũng mặc, nhà pha đi làm để trốn lung tung, nên đáng lẽ nom mê (2)đội từ lâu mà mãi tới năm kia mới được. Còn thằng cai thơ lại đọc sách báo quốc ngữ nhiều chữ cũng phải đánh vần, nhưng rất khéo chiều các sếp và hay bô báo, nên thi lép (3)cai hai ba lần đều trượt mà vẫn cứ cố thi và rồi thi được lấy vớt. Không bị cái đảo chính này, thì nó cũng nom mê đội đấy. Cai sếp tuy hay thét lác nhưng thế mà lại khá! Bụng nghĩ sao miệng nói vậy, năm ngoái lại cưới một cô vợ là thứ tư hay thứ năm ấy, để kiếm chút con trai. Hắn bảo nếu mà được con trai thì chẳng đợi tuổi hưu, hắn cũng đấm... cu vào cái đời ắc ê, phải đi theo đít các tây đồn để coi tù xe nước và quét dọn chuồng gà, chuồng thỏ nhà xì cho vợ cho con nó, mà phốc về ngay nhà quê với mấy vàng lưới, trông nom cho sáu đứa con gái lớn làm hai sào rau thì còn sướng hơn cả quan tổng đốc và quan giám binh!...

-----

[1] Trốn.

[2] Lên ngạch.

[3] Học thi làm cai.

Thanh dẽ dàng:

- Thế bọn quan Nhật về đây thì "hẩu" với ai nhất.

Lý phải ngẫm nghĩ:

- Kể thì Nhật ưa thằng cai nhà giấy hơn. Nhưng phải ra ý tin dùng đội nhì và cai sếp. Nhất là từ ngày ta phá kho Bến, lão huyện trẻ bỏ huyện lên Hà Nội, thằng huyện mới về có vẻ sắm nắm công việc cùng Nhật, luôn luôn về đồn...

Thanh cũng theo dõi kỹ tên huyện mới này. Mặt thì cho gọi các tổng lý lên hiểu dụ không được hống hách hà hiếp dân và bắn tin muốn gặp cấp trên của Việt Minh để thương lượng; mặt thì bảo quân Nhật quyết trừng trị Việt Minh cũng như những ai đi theo, và rao giá hễ ai bán sống hay bán chết được một cán bộ Việt Minh, thì được mỗi người từ hai vạn đến năm vạn đồng, rồi muốn đong thóc, mua sợi, muốn làm chánh tổng hay bang tá, tri huyện trên cũng xét.

- Thế Lý xem trong số anh em binh lính có ai là người nhà hay kẻ thân cận, ăn ý với thằng cai nhà giấy và thằng huyện mới không?

- Người nhà thì không có ai cả. Còn thân cận và ăn ý xem chừng... xem chừng như cũng không. Cả hai lão bếp và những lính quê ở tỉnh đây và tỉnh xa đều oải... oải thần tử, rất nhớ nhà, nhớ vợ nhớ con. Nhất là lo: lo phải đánh thật với Việt Minh, lo bị đánh chụp đánh úp, và lo phải đổi lên mạn ngược... Mấy thằng đã thôi cả tổ tôm, xóc đĩa, đi chơi phố chơi chợ, cóp tiền gửi về nhà quê đong thóc trữ, hay gửi bà con trong làng, đánh giấy cho vợ con ra lấy.

Lý lại ân hận. Nếu mẹ Lý, em Lý không bỏ Hải Phòng về quê ở Nam Định. Nếu một hay hai tháng sau đảo chính, Lý được gặp Thanh hay bắt được liên lạc với một người... như chị Minh Ngọt, em chị Dâng. Nếu Lý không mắc nợ, trả mãi bây giờ mới hết, và cũng chắt chiu như mấy người lính mang tiếng là lù đù nhút nhát kia.

..." Mày theo mẹ mày ra đồn Đông Triều ở bên kia sông cũng vào dạo này, để thăm cậu mày. Cậu mày chỉ bị tù có mười tám tháng là may lắm đấy! Chả thế mà tất cả trại, ngay chính mấy thằng anh chị, du côn, ăn cắp bảy tám lần tù sắp đeo số đỏ đi phát lưu chung thân ở Côn Lôn, cũng gàn cậu mày đừng có dại chống án lên Hà Nội. Đi ở kéo xe cho Tây, làm ăn thế nào mà khi hạ càng, luống cuống để tùng bê chủ, chủ ngã giập cả sống mũi. Nó không chết, không bỏ ăn là may lắm! Chứ cái bụng tổ bố thế kia mà chúi dụi mà vập xuống thì đến vỡ mật hay giập bong bóng đái mất thôi! Rồi cậu mày trốn đi, ừ thì bỏ cả tháng lương không lĩnh mà chỉ lấy có mấy khăn bàn, khăn giường, nhưng vẫn là ăn cắp, mà tội ăn cắp của chủ Tây, nhẹ nhất cũng từ một đến ba năm tù. Chắc bọn quan tòa và trưởng lý nó ghét cái thằng chủ nhà cậu mày cũng là tây nhưng là tây coóc (4)tây mắm tôm, tây vé chợ, tây gác cổng nên mới xử như thế.

"Mẹ con gặp cậu mày đang xe nước. Thùng xe bằng gỗ to phình như bốn cái bụng con trâu cái, nước chảy ri rỉ tong tong. Kéo nước từ giếng lên đổ đầy thùng đã gần hết buổi cỏ vê. Thế mà hơn chín giờ sáng phải xong một chuyến để đúng mười một giờ thì vừa duýt (5)chuyến nữa. Hai người một xe nước kéo lên dốc đồn. Khỏe đến như Tiết Nhân Quý ngày xưa cũng phải mửa mật ra. Thế mà cậu mày với một người nữa ho lao dở phải đi một xe. Tám nhà pha bốn xe nước; lính coi là khố xanh, phục dịch làm sao không những chỉ hàng ngày đủ nước cho cả trại lính lê dương mà còn cho bồi bếp vú em khâu đầm nhà quan hai quan ba quan đồn, quan nào cũng uống rượu, dữ hơn hùm hơn beo.

-----

[4] Người xứ Coócxơ.

[5] Đúng.

"Mẹ mày kho được nồi tôm rảo, rang được gói mắm ruốc với giềng, thổi được rá xôi lạc, tưởng dúi dấm được cho cậu mày. À quên, còn phong kẹo lạc nữa! Ngờ đâu cả lính đi coi và cai tù trong bọn đi làm cỏ vê cũng ăn ngay ở dưới chân đồi hết cả kẹo lạc, xôi và tôm... Chắc mấy hào mẹ mày nặn ở lưng ra bảo mày đưa giấu cho cậu cũng lại thành "diêm thuốc" cho cai tù và lính đi coi hết thôi! Mẹ mày còn mỗi cậu mày là ruột rà hương khói cho cả họ. Cậu mày lại không có vợ con gì cả chỉ vì nghèo đói lam lũ quá, nên mẹ mày lại càng thương. Ở tù về, về cậu mày mới lấy vợ, cũng là một nhà pha, án muối lậu. Ngày vừa qua, mẹ mày đưa thằng Ly về với cậu mợ ở nhà quê, định dựa dẫm vào nhau, ai ngờ cả mẹ mày, em ruột mày, cậu mày đều chết đói. Còn mợ mày và hai đứa con bỏ lên Hà Nội tới giờ vẫn chưa thấy về làng... thì có lẽ cũng..."

Tiếng nói và cuốn phim vô hình ấy lại thì thầm và rưng rưng trước mắt Lý. Lý đi ngược lên con đường đồi đất đỏ, như vẫn trông theo bốn xe nước ken két đẩy lên dốc, nước rỉ rỉ tong tong, cứ từng quãng từng quãng phải dừng lại để chèn bánh, người đẩy, chuyển sang đến giúp xe khác. Và cái người lính đi coi cỏ vê ấy đang lốp cốp ăn cả gói kẹo lạc của nhà pha, tay cầm roi điện, vai khoác súng, bước từng bước từng bước, mồ hôi cũng nhễ nhại, thở không thôi mà cũng tức cả ngực. Từ sân đồn, quanh nhà giấy quan ba, xuống đến chân đồn, những lính lê dương loại ba gai ba đồ nhất phải đổi ra đây, cởi trần, quần đùi, đi giày da không bít tất, có kẻ không đội mũ mà chỉ bịt vuông mùi soa hay khăn mặt, đang cuốc, đang xúc đá sỏi, đất, làm cỏ vê cũng như tù... Mấy thằng mồ hôi như tắm chạy xồ ra mở he hé cái nút gỗ quấn vải ở thùng nước mà uống hưng hức hừng hực, nhiều lúc nước phụt tối tăm cả mặt mày...

Lý nheo nheo mắt ngước nhìn những ngọn thông và trời mây. Nắng nhoi nhói nhay nháy. Từng đám mây bông to hơn quả núi, lúc nghiêng nghiêng chúc chúc, lúc giăng dài nổi bồng lên, lúc mở rỗng ra, sáng lòa, xanh hút rồi lại sáng lòa. Hình như mặt biển xa kia đang đón những lớp mây ấy đổ xuống, và từ những đợt sóng chói chang, biển dội lại mặt trời.

Bao nhiêu trưa nắng như trưa nay Lý đã đứng gác, hay đi theo tù cỏ vê, hay cũng làm cỏ vê ở những đường đồi, đường biển như thế này. Nhưng rồi đây, chỉ mai kia thôi, Lý sẽ không bao giờ quay lại cái đời ấy nữa!

"Cái đời mày đã chạy khốn chạy khổ theo tây giám binh, những tưởng chết phí chết hoài vì đạn của quân Nhật và cả đạn của chính quân Pháp nhà mày kéo nhau bỏ chạy bắn hoáng!...

"Rồi dù có cầm roi có vác súng đi coi và được ăn xôi, kẹo lạc của nhà pha, nhưng vẫn cứ phải hết lo tù trốn lại đến tù cướp súng, tù phá đề lao, cướp đồn cướp trại mà quan ra lệnh ô phơ (6)dù họ chỉ tay không, đeo xiềng, nhốt chặt hàng trăm người trong buồng cưa sắt mấy lớp khóa kỹ rồi khi nghe ô phơ thì cũng cứ bắn, cứ bắn..."

-----

[6] Nổ súng.

Không! Lý sẽ bắn! Nhưng mũi súng của Lý sẽ bắn lên đồn kia, vào trại kia. Rồi bắn cả vào các đồn, các trại, các đám quân Nhật, quân Pháp cùng với cô Xim, anh Cam, cậu Thanh, chú Cao, bác Vy, Chấn là những kẻ cùng nghèo khổ, từng sống với Lý và nhiều người đã phải tù đày bấy lâu. Cùng với họ, Lý có thể tin cậy chắc chắn rằng tất cả sự no ấm, tự do, hạnh phúc sau đây giành giật được, xây dựng nên, những ai lao động chịu thương chịu khó đều hưởng chung, hưởng thật, hưởng đúng...

Còn anh Lân mày nữa! Cả anh Lân mày cũng đi theo Việt Minh chứ, đi theo cách mạng chứ!"

Lý lại phải nghĩ đến người anh đi làm tàu, hơn ba năm, bốn năm rồi Lý cũng không viết cho một dòng một chữ nào, và tới nay cũng hoàn toàn bặt tăm tin tức chẳng biết đang ở đâu, sống hay chết.

Lúc Thanh dặn dò lại Lý mấy công việc chính, đưa Lý hai tờ báo Cứu quốc và tập truyền đơn binh vận và cho Lý liên lạc với ba người lính nhân trong đồn, đoạn Thanh chào bà hàng, bắt tay Lý ra đi, thì gặp bọn Thái Trang, Trần Văn, bếp Kình và quản đồn từ phố chợ đi vào làng trong. Trưa nay, cả bọn ăn giỗ ở nhà một người cơ sở trong ấy làm trưởng bạ có họ với Trần Văn. Thái Trang và Trần Văn cho mời một đào đi hát gõ rất thân bọn anh để bình mấy bài thơ của Thái Trang và của cả quản đồn, và Trần Văn sẽ đích thân dạo đàn...

⚝ ✽ ⚝

Chấn phải chấm chấm mắt lại hơi đùn nhử, đọc tên những tỉnh những nơi đã thành lập chiến khu. Chấn ghi tắt trong sổ tay. Cao vội kêu lên:

- Nào Cao Bắc Lạng ba tỉnh trước... nào gì, à Thái Nguyên, à Tuyên Quang...

Xim cũng kêu theo:

- Chậm chậm chứ bố...

Cao đế liền:

- Bố cu... thôi, bố đĩ... càng tốt! Ruộng sâu trâu nái con gái đầu lòng. Chậm chậm chứ bố đĩ...

Xim lừ mắt, rồi reo mừng:

- Tuyên Quang... và Yên Bái... lại cả Yên Bái nữa!... Thế là sáu tỉnh hoàn toàn thành lập khu giải phóng rồi!...

- Thế thì chuyến này phải đặt nếu là thằng cu thì là thằng cu Bái, còn cái hĩm là cái hĩm Yên...

Đến bảy chiến khu thì Cao và Xim nhất định bắt Chấn đọc thong thả từng tên một, ghi xong tên nào mới cho sang tên khác.

Cao lên tiếng trước:

- Một: chiến khu Lê Lợi ngoài Bắc.

Xim tiếp theo:

Hai: chiến khu Hoàng Hoa Thám ngoài Bắc.

Cao ngắt lời:

- Thôi không ngoài không trong gì cả... Ba, Quang Trung Bắc Bộ.

Xim càng run tay:

- Ba: Quang Trung Bắc bộ. Bốn... bốn... (Xim nóng bừng cả người) bốn... chiến khu Trần Hưng Đạo (Bắc bộ).

Cao miết gần gẫy cả đầu bút chì:

- Năm: Trung bộ... chiến khu Phan Đình Phùng.

Xim luống cuống:

- Ấy ấy, bút hết mực hay sao thế này! Cho tôi mượn bút chì vậy nào... Thôi thôi lại ra mực rồi. Bút khí gió thổ tả này mà vẫn không chịu thay. Chả là ở tù dùng cái quỷ gì cũng viết được mà. Đầu dây thép đập giập, lông gà lông chim, có phải không hở ông Đấu?... Sáu!... Sáu... chiến khu Trưng Trắc Trung bộ. Hay quá! Chiến khu thế kỷ thứ hai mươi ở Việt Nam lấy tên một nữ anh hùng dân tộc!

- Thôi... thôi... mẹ hĩm ơi! để tôi ghi với (Cao cười, vừa ghi xong thì ngòi chì oặt hẳn đi).

- Bảy, chiến khu Nguyễn Tri Phương Nam bộ.

Để thật không thể nào sai sót. Xim đọc lại tất cả sáu tỉnh và bảy tên vị anh hùng đặt cho bảy chiến khu của toàn quốc, và bắt Chấn hễ mình xướng lên xong một tên thì Chấn phải nói lên rằng đúng, rồi mới được đọc tiếp.

Vy bố phải tranh thủ đi gặp bọn Thái Trang, Trần Văn và cho hẹn quản đồn. Cao sẽ chuyện kỹ với y, nên về sau. Chấn chưa truyền đạt tinh thần và những điểm chính của nghị quyết của hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ từ ngày 15 đến 20 tháng Tư trước đây, mà chỉ nói sơ bộ về tình hình trong nước và thế giới, nhưng cũng thấy cả mình bừng bừng trong người.

Tin ba mươi vạn Hồng quân Nga đã tiến vào Bá Linh, quân đội Hítle hoàn toàn bị đập tan và đại biểu của bộ Tổng tư lệnh quân Đức quốc xã phải ký tên vào bản đầu hàng ở ngay trước mặt đại biểu bộ Tổng tư lệnh Hồng quân,... Những tin ấy thế là đã phải liên tiếp đưa lên các báo hàng ngày từ hơn nửa tháng nay. Bên cạnh nước Đức phát xít phải đầu hàng không điều kiện trước Hồng quân Nga, bọn Chấn lại còn được biết tin thêm về bọn quân phiệt Nhật qua thư của Vin Hem bắt được bằng đài, viết vội cho Thanh cầm ra hôm qua thì Chấn lại còn biết rõ thêm: phong trào phản chiến đã nổi dậy ở ngay trên đất Nhật. Khắp Đông Á, đâu đâu cũng vang dội "Tình thế Nhật nguy ngập! Tình thế Nhật nguy ngập! Tình thế Nhật nguy ngập. Trận Phi Luật Tân kết liễu. Đường biển từ Nhật sang các thuộc địa miền Nam bị tê liệt hẳn... Mặt trận Diến Điện cũng tan tành đến nơi... Và Nga đã xé hiệp ước trung lập với Nhật, sớm tối sẽ mở cuộc tấn công lớn định đoạt sinh mạng của đạo quân Quan Đông của Nhật, trực tiếp giúp cho cuộc đấu tranh chống xâm lược và tự giải phóng của các dân tộc bị áp bức ở Á Đông...

- "Ông Vui ơi là ông Vui! Hay là ông vui thú ở lại nghe ngâm thơ để chúng tôi phải chờ đến tối, thì... chúng tôi phải tẩn cho ông một trận om xương đấy!"

Cao và Xim lại phải nghĩ đến cuộc cướp đồn đang bố trí. Chấn càng lặng lẽ, lần lượt soát lại trí nhớ về từng điểm đã được nghe phổ biến với Vy bố trong đó có mấy điểm sau đây Chấn rất lo mình ghi sơ suất và nhớ sót hay quên đi phần quan trọng, như:

- Cần kíp gây dựng những căn cứ địa kháng chiến.

- Cần phải thống nhất, củng cố và phát triển các đội quân giải phóng.

- Thống nhất chỉ huy quân sự.

- Tổ chức các đội quân đặc biệt (đội quân thợ, đội quân phụ nữ, đội quân danh dự, đội quân ngoại quốc).

- Vũ khí quân nhu.

Và mục nhiệm vụ phát triển cao trào kháng Nhật cứu nước ra toàn quốc, mục cộng tác tuyên truyền, mục tự phê bình..

Tiếng xe đạp lọc xọc. Vy bố đã về, nét mặt đăm đăm, giẫm lên cả con chó nhà bên cạnh chạy sang theo quấn lấy chân anh. Cụ Hương ngồi đan dưới bếp nheo nheo mắt nhìn, trống ngực thòm thòm không kém bọn Cao.

⚝ ✽ ⚝

Sẩm tối. Cả phố Chợ và phố Đồn đều lặng ngắt. Hiệu khách to Chính Thiện bán thuốc bắc, cân gạo và thầu cơm đề lao đóng cửa sớm nhất. Hiệu tạp hóa và ty thuốc phiện của Tài Cắm lại để hé ô cửa vừa đút lọt cánh tay ở bàn bán thuốc, chỉ chốc lát nữa thôi, cũng đóng sập lại, mặc dầu trong nhà vẫn ăn uống, hút xách, có người gọi đong thuốc cũng mặc. Mấy hàng nhỏ của ta hình như ỷ thế nhà mình chẳng giàu có gì và sẵn sàng hưởng ứng, đón nhận mọi sự xảy ra, nên cứ để mở rộng cửa ra vào và thắp hẳn đèn ba dây để ngồi uống nước, chuyện trò. Hàng phở kiêm hàng cơm ở đầu dốc lên đồn vẫn mở, nhưng không có bóng lính tráng nào ra vào cả. Phố Đồn ở hai bên dốc và trước ngã ba, mọi khi lính tráng hay thậm thụt, la cà trong mấy nhà thổi cơm tháng, cho vay lãi, chứa tổ tôm, hút thuốc phiện và ở gia đình vợ con bạn cùng ngũ, nay cũng bằn bặt, thỉnh thoảng mới nghe thấy tiếng chó sủa và bóng người qua đường... Chỉ còn bếp lửa và khói lò ở hai nhà làm đậu và tráng bánh cuối góc chợ. Đây vẫn tụ tập những người đi than đi củi, bán giang bán vỏ, củ nâu và làm thuê làm mướn, khi bình thường cũng như mưa gió, họ không ngủ đỗ thì cũng thổi nấu nhờ, ăn uống và chuyện với nhau rất thân. Nhà chủ chẳng cần biết họ ở đâu và cũng chẳng hỏi han gì cả, thậm chí đến mấy con chó cũng như mặc kệ họ ra vào, lấy mượn xoong, nồi, bát đĩa nhà mình.

Các làng các ấp các trại xung quanh và ở xa xa trong những chòm đồi, bãi sim, rừng dẻ, lại càng im ắng. Đêm tối thêm sâu hút, sâu thẳm với tiếng ếch nhái, côn trùng vang vẳng...

Quản đồn Cao đã gọi người lính phục dịch bưng mâm và lau bàn:

- Thôi, chú ngũ cứ đi ăn cơm, nước nôi mặc tôi.

- Bẩm ngài đội, để con pha chè.

- Đừng,... đừng!... Đã bảo chú cứ đi ăn cơm, mặc tôi. Nào, chú cho tôi mượn hộp diêm của chú. Hộp diêm của tôi mới mua ban chiều, lại bỏ quên đâu ấy. Tôi đến phải dùng bật lửa và mắc liền với dây chùm chìa khóa. À! Chú nhớ để thêm nước sôi, đổ thật đầy vào cái phích to cho tôi.

Vẫn đi giày đinh, thắt lưng da bao súng lục, quản đồn đứng dậy, kéo nhích ghế ra. Y lấy hai gói chè củ ấu cho cả vào ấm tích và chỉ chế một nửa nước sôi. Nhấp nhấp chén chè đặc hơn hết mọi khi và châm thuốc hút, y lại nhìn xuống cổng đồn và trông ra xa. Mặc dầu kiểng đồn đang đánh tới tiếng thứ sáu rồi thứ bảy, y vẫn rút cái đồng hồ quả quít ở túi cạp quần ra xem.

- Ừ, đúng bảy giờ, đã bảy giờ rồi! Chỉ còn một giờ nữa thôi! "Phải! Chỉ còn một giờ nữa thôi là ta sẽ quyết định cả một đời của ta! Chết! Chết! Hẳn như cái chết ta lại không sợ! Ôi giời! Ai mà chả phải chết, ai mà tránh được cái chết?!! Nhưng trước một công việc mà còn phải lo phải nghĩ đến sự bấp bênh, trước một tương lai mà còn phải lo phải nghĩ đến sự vô định của nó, trước một mục đích mà còn phải lo phải nghĩ rằng có thật hợp với mình không, có thật đúng với mình không và sức mình có thật theo được đến đầu đến đũa không... thì...

Quản đồn Cao thấy nhói lạnh cả người.

"Phải! Chỉ còn một giờ nữa thôi! Chỉ còn một giờ nữa thôi! Đây không phải là một cuộc đấu súng, ta bắn được cả tay trái, từ năm ta vào lính đến khi đeo lon đội, đều làm cả quan ba giám binh khố xanh, đến quan tư pháo thủ, quan năm lê dương phát ghen với nhau vì ta và vì cả lính của ta bắn giỏi cơ mà! Đây cũng không phải là một trận đánh. Đi trận thì có trận được trận thua, thua trận này, thắng trận khác, hay có thua chín trận rồi trận thứ mười trận thứ hai mươi mà thắng cũng được!... Đây càng không phải là canh bạc... Đánh bạc thì nhờ vận. Vận đỏ ăn to. Vận đen thua lụn thua bại thua hết... Ta chẳng những rất không thích chơi bời cờ bạc mà còn không bao giờ ham bất cứ những đồng tiền gì bất nhân bất nghĩa! Chẳng may bố mẹ ta chết sớm, chú Kình nuôi ta ăn học nhưng ta không chịu để toàn tâm toàn chí vào năm thi, (con mẹ nó chứ! làm sao cả tính lẫn ám tả, lẫn luận pháp văn, năm ấy lại khó ghê khó gớm thế, đến nỗi nghe đọc và chép đầu bài mà cũng run cả tay, thì còn làm, còn viết đúng sao được?!), nên ta phải thôi dở dang rồi đi lính. Nếu không, ta cũng sẽ xin làm hương sư, hay đi học trường bách nghệ rồi làm thợ ngoài Hải Phòng, trong Vinh, trong Sài Gòn đấy. Mà đúng bây giờ đây là một keo vật. Ta trần trọi tay vo vật nhau với số phận. Số phận của ta ở vào cái năm Mùi đẻ ta, cái tên Mùi bố mẹ ta đặt cho ta, mà ai ai hoặc xem lá số tử vi của ta hay trông bàn tay và mặt mày của ta, đều tấm tắc bảo ta sẽ suốt đời yên nhàn, sung sướng, không phải lo nghĩ gì cả. Ta là con dê mà! Con dê đã hiền lành lại được chăn nuôi thong dong thì còn phải lo còn phải nghĩ gì nữa?!

Ta vật nhau với số phận để không nhận mình là con dê, đời mình là đời con dê, con dê và đời con dê chỉ việc nhởn nhơ ăn cỏ không phải lo phải nghĩ gì cả... Cái thằng Mùi là ta ấy từ tối hôm nay, một giờ sau đây, sẽ cởi cái áo ka ki nhà binh Pháp này, dứt bỏ cái lon con đỉa kim tuyến ở cổ tay áo, ở cầu vai, sổ lương nếu không xé không đốt đi thì cũng không còn ký lĩnh tiền nữa... để đi theo...

Quản đồn Cao hai tay ấp chặt lấy đầu. Người lính phục dịch đi vào, giập giày, đứng nghiêm:

- Bẩm ngài đội, thày cai xếp bảo con lên bẩm với ngài đến bảy giờ rưỡi thì cho lính sắp măng (7). Nếu ngài khó ở, để tối mai đi câu lơn (8)cũng được. Mấy hôm nay lính tráng nhà ta canh gác cẩn mật lắm. Việt Minh nghe chừng cũng thấy gờm. Ta mặc họ không động đến họ thì thôi... chứ tội gì họ lại gai chuyện sự sinh sinh sự với ta... Bẩm ngài đội, ngày mai thì chúng con làm thịt con lợn trên huyện biếu đồn ta. Cụ ông trên nhà xuống chơi với ngài đội, thật vừa dịp quá! Thày cai sếp sẽ thân đánh tiết canh hầu rượu cụ ông nhà ạ ạ ạ...

-----

[7] Tập hợp.

[8] Hành quân cảnh giới.

⚝ ✽ ⚝

Sao chi chít. Dòng sông máng tuy sâu, và ở lọt vào những ven đồi sim, mua và cỏ lưỡi rắn rậm rạp, cũng lấp lánh, lấp lánh. Hai cánh quân tự vệ của Cao và Xim nằm phục ở hai bên đồi cạnh đường đầu cầu xuống. Một cánh trấn phía bên kia, anh con cụ Hương và Thanh chỉ huy. Như thế quân đồn Cao đi tối là vào giữa trận địa mà nếu ta bắn thì họ chỉ còn cách nhảy hết xuống sông tháo chạy nếu không sẽ chết trụm với nhau ở giữa cầu, ở đường dốc.

- Cứ bấm đèn xem lại đồng hồ nào. Cao rin rít tiếng bảo Xim.

- Còn kém năm phút nữa cơ mà!

Xim để ánh đèn thật gọn trên cổ tay che khuất dưới

bụi cỏ...

- Sao vẫn chưa thấy liên lạc về báo nhỉ? Từ đồn ra đây chỉ trong vòng hai cây số, chuyển chậm như rùa cũng phải quá nửa đường rồi!

- Bây giờ ông lại vặn tôi! Họ đi có phải như ôtô ray của ga Hải Phòng nhà ông đâu?

- Đã hẹn với nhau bảy giờ tối nay chỉ còn năm phút nữa, mà sao vẫn chưa thấy có liên lạc báo?

"Có thể quản đồn Cao đi chậm không? Hay là quản đồn Cao thay đổi ý kiến? Hay là có sự chệch choạc, bất trắc gì? Hay là so đo hơn thiệt quẩn quanh hèn hạ rồi rút lui?! Biết đâu, biết đâu lại còn cả phản trắc nữa?"

Cao chỉ hỏi thêm mấy câu thôi nhưng rất dồn dập làm Xim đã có phút hơi bối rối. Nhưng Xim trấn tĩnh ngay được, đáp lời rất rành rẽ chắc chắn:

- Tất cả những gì có thể xảy ra, ta đã bàn tính ước lượng kỹ với nhau rồi. Ta cứ thế mà xử trí, mà hành động. Trách nhiệm trước Tổ chức, tôi vẫn cam quyết rằng cuộc chiến đấu này nhất định thắng, không thể nào có sự sai sót, hồ đồ và phản trắc đảo lộn ông Cao ạ!

"Bà lại cứ phải giải thích cho tôi! Thế cứ hỏi kỹ là không tin tưởng, là hoang mang à?!! Cuối cùng, nếu có bị phản trắc, thì thằng Cao này để bà chịu thua hay sao? Hai mươi chứ trăm hai mươi lính và súng mà tiến đến đây, cũng phải choảng cho tan và cướp lấy súng!"

Cao lại ân hận không sửa được thêm hai khẩu trong số bốn khẩu của Dâng chuyển cho. Kể ra chỉ có mười tay súng và ba chục giáo, mác, mã tấu mai phục và nếu phải diệt đánh hơn hai chục lính đồn này thì cũng mạnh lắm. Nhưng thêm võ khí, thêm người vẫn hơn!...

- Cao ơi! Cao ơi!

- Cô Xim! Cô Xim!

Con trai cụ Hương ở chỗ phục bên kia cầu đã cho liên lạc chạy sang báo tin. Cao và Xim lên đạn và cho truyền đi khắp nếu được lệnh bắn thì phải nổ súng trước. Những bóng người rõ dần, rõ dần với những tiếng bước chân và súng đạn chập chừng lách cách. Rồi tiếng súng nổ, chỉ có ba phát súng nổ. Dưới ánh sao, hơn hai mươi mũi súng và cánh tay giơ lên. Quản đồn đi trước, tay súng lục, tay cầm tờ báo Cứu quốc mật hiệu giang ra. Cao và Xim đã tiến đến; Xim tưởng như vỡ trống ngực.

- Thầy đội cho lệnh anh em hạ súng. Hoan hô anh em đã quay súng trở về với dân, với nước, với cách mạng!

Vừa nghe khẩu lệnh Hoan hô, hơn hai mươi tự vệ thuộc cánh quân của Xim, Cao đã ào ào chạy xuống. Những tiếng hoan hô rào rào cất lên. Những người cầm giáo mác mã tấu đón ngay lấy súng vừa nắm chặt lấy tay của anh em lính đồn mà rung mà lắc mà ấp rất lâu. Có tự vệ quên cả nhận súng, để lính đồn ngẩn người ra, suýt buông rơi súng...

Kẻ đứng, người ngồi sụp xuống lại đứng lên, tất cả toàn lính đồn Cao đi theo đội Mùi đến im phăng phắc nghe Xim và Cao nói chuyện. Mấy người khóc cứ thút tha thút thít. Mấy người ho sặc lên. Cuối cùng, khi Xim bảo đội Mùi hỏi anh em ai muốn về nhà ngay, ai muốn để mai kia mới về, ai muốn ở lại lâu và ai muốn đi theo cách mạng, thì có người òa lên:

- Con cũng xin như thế ạ. Cháu đi... Cháu xin được đi với hai cán bộ ạ!...

- Kìa! Kìa! Sao lại vẫn cứ cháu, mà lại cả con nữa kìa! Anh em ơi! Tôi chứ, tôi chứ! Chúng ta gọi nhau là đồng bào, đồng chí, anh em tôi tôi với nhau thôi!

Đội Mùi đã cởi áo, toan rứt cả lon. Xim và Cao vội giữ lấy tay:

- Chưa được! Thầy đội cứ mặc áo, giữ lon và giữ cả súng nữa. Chúng ta còn phải về lấy đồn cơ mà!

Đội Mùi bàng hoàng. Anh phút quên kế hoạch mới chỉ đạt một nửa. Nửa giờ nữa anh sẽ đem lính trở lại đồn làm như đã xong cuộc hành quân cảnh giới, chẳng gặp Việt Minh hay gặp sự bận bịu trở ngại gì hết. Anh sẽ gọi lính gác mở cổng và lại nổ ba phát súng cho cánh quân của Vy bố phục quanh đồn nhảy vào chiếm đồn cùng với cánh quân của Xim của Cao. Cai sếp cố nhiên lúc đó sẽ lọt trong đám lính của đội Mùi, còn cai nhà giấy, lính nhà giấy, hay lính nào kháng cự thì Lý sẽ cùng anh em tự vệ của Vy bố trừng trị tức khắc.

Đội Mùi phải đóng lại cúc áo, và nhận khẩu súng lục Xim đưa trả tận tay. Lính đồn một phần ba xin về nhà ngay. Một phần ba về đồn để lấy quần áo đồ đạc và trang trải nợ nần. Những anh em xin đi theo đa số là nhân mới, là cơ sở hay mới được tuyên truyền giác ngộ.

- Có tiện thì về qua tớ đem giùm cho tớ gói quần áo lót mới may để tớ cho thằng em nó đi ở cày nó mặc nhé.

- Trong cái túi dết có hai phong bì thư và cái ví da cũ, tôi cất bức thư báo tin bà cụ tôi mới mất và hai tấm ảnh chụp mẹ con nhà nó năm ngoái, bác bếp giữ cho tôi, rồi tôi sang bên nhà xin lại bác.

- Trâu bò ở lâu với nhau thì thân, mà người ở lâu với nhau thì lại ghét... bác ạ, câu nói đó thật là đau đớn. Cũng chỉ tại cái thằng đế quốc nó hiểm, nó ác, nó gây ra cả. Bác với tôi đã giận nhau hơn hai năm, không chịu giàn mặt nhau, vì hai bụi chuối ria đường bị cắm đất mở đường, bác xử được tiền, tôi thì mất đất, rồi khi vào ngũ; thì bác để tù đi làm cỏ vê nói chuyện với người nhà, tôi trông thấy giám binh mà không báo cho bác biết, làm bác đã bị vào nhà phạt, lại mất lon bếp... Giờ bác về, tôi ở lại, đôi ta phải thanh thỏa với nhau cho hết mọi chuyện...

- Tớ còn chục bạc, đúng chục bạc đây, cứ bảo mẹ dái nó cho hai đứa đi chợ muốn ăn quà gì, tha hồ tha hồ... Và thế nào cũng phải may lấy một cái cờ, huyện nhà khởi nghĩa, tớ mà được về cướp huyện thì kéo treo cờ ngay trên ngọn cây cau đầu cổng ấy!

- Ối! Ối! Cho mình gởi lại sáp thuốc đây. Về Tiên Lãng rồi mà còn giữ cái thuốc này làm gì. À! Còn cả nửa bánh thuốc tớ cất trong túi dết ấy.

- Chào chị Minh Hiền! Chào anh đồng chí Cán bộ! Chào ngài đội... em về chỉ tuần sau là đánh giấy lên thôi!

Cao và Xim đi cùng toán lính đồn về đường cái. Thanh và con trai cụ Hương đưa một nửa tự vệ đi tắt về phối hợp với cánh quân của Vy bố phần đông là anh em thợ, khí giới tự đánh lấy. Thêm hai khẩu súng Nga vừa chuyển cho, Vy bố và Trần Văn tập bắn, đã bảo nhau giá được đổi lấy súng lục thì sướng quá, và dùng dằng mãi mới trả lại tự vệ, khiến Côn được giữ khẩu này, cứ lo ngay ngáy bị thay bị đổi.

Mặc dầu toán lính đồn lại đi như bình thường và đội anh em tự vệ thì rất giữ gìn ý tứ, nhưng ở trong làng, ngoài phố đang im phăng phắc nhiều nhà bỗng như nén thở, kéo tay nhau, bấm nhau, đưa mắt cho nhau ra hiệu bảo nhau nghe ngóng, chờ đợi và cả sẵn sàng hưởng

ứng nữa.

⚝ ✽ ⚝

Khi quản đồn Cao vừa đưa lính ra khỏi cổng thì cai nhà giấy nhỏm dậy ngay, lạnh toát cả người.

- "Thằng Mùi nó cứ đi! Nó cứ đi! Việt Minh có động dạng gì đâu mà nó phải đem lính đi. Hôm nọ nó về Hải Phòng với thằng chú nó để làm gì?! Hay nó cũng xin xỏ gì thằng Bốn Mắt? Bề ngoài nó cứ ra vẻ thơ thơ phú phú, phú phú thơ thơ, không chừng nó chụp người ta còn nhanh hơn cả beo cả sói. Chả thế mà thằng huyện phái người khiêng cả lợn đến cầu thân với nó, còn mấy thằng quan Nhật ở Quảng Yên, Hải Dương hay Hải Phòng đi công cán qua, lại chuyện riêng với nó hàng giờ, thân mật cứ như đối với tay chân hạ thuộc của mình lâu rồi!"

"Hừm! Hay chuyến này nó sắp sửa nhảy lên Hà Nội hay Lạng Sơn đóng quan một quan hai, và nó chính là người chân trong, giấu mặt của Đại Việt hay Phục quốc cũng nên. Không để tỏ ra mẫn cán và trung thành, thì việc gì phải dẫn lính đi đêm đi hôm thế này?!"

Một, hai, ba, bốn... mười, mười hai... mười sáu... hai mươi lăm... ba mươi, cai nhà giấy nhặt hạt chè thứ ba mươi mốt bỏ lại vào cái lọ bằng sứ men rạn rồi lấy mẩu túi vải đựng chỗ hạt chè, súc ấm tích ủ trong cái giành đan rất kỹ rất chuốt, đã quang dầu lại hun khói bóng như sừng, pha đầy ấm, rót vào chiếc chén đựng liền với ấm tích, nhấm nháp như uống rươu. Cây đèn tây cũ bằng đồng trước kia ở bàn phó quản, nay về tay cai nhà giấy lau cọ đánh thuốc đỏ lộng soi gương được. Ánh sáng qua cái chao giấy bóng màu hoa đào làm tăng thêm vẻ tư thất của một cuộc đời đổi thay, hiển đạt trong cái đồn đến bây giờ cũng vẫn giữ nghiêm mật.

"Tuần tới, ta cũng phải về Hải Phòng hay lên Hải Dương thôi! Không được gặp Bốn Mắt hay quan năm chỉ huy khu này thì ta cũng kiếm cái quà cái lễ đưa thư ký hay thông ngôn của hai ông ấy biếu trình diện cho ta... Thằng Mùi mà được thăng chức, thằng cai sếp cũng chẳng chịu ngô ngọng bỏ cơ hội lo chạy tiến thân, thì ta...

Cai nhà giấy dang hai tay, đu đưa cái ghế bành nệm bọc da màu tiết dê. Nhưng đang ở đà rập rình, y vội buông ngay chân hãm lại kẻo mình quá trớn, ghế sẽ gãy sẽ hỏng, còn mình thì mất cả vẻ quan dạng. Y uống chén nước nữa, mặt mày quýp lại trông ra ngoài trời.

Đoàng... đoàng... đoàng... Ba phát súng báo hiệu đã nổ từ xa. Thế là lính đồn không gặp Việt Minh hay va vấp gì cả, sẽ quay trở về...

Ừ... ừ... làm đếch gì có cái chuyện ấy được! Hay nếu có xảy ra thì chỉ đến như cuộc phá kho cướp thóc ở bến sông, chứ ở đây, cai nhà giấy còn lạ gì mà phải lo lắm về sự tuần tiễu canh phòng, về tự vệ du kích, về cướp phá tấn công, trong khi mình nắm trong tay nào súng tốt, đạn nhiều, đồn trại kiên cố với hơn ba mươi tay súng ăn no, mặc đủ, tập kỹ, cổng ngách hầm hào tiến cũng như thoái chẳng phải e ngại gì cả.

Nhưng cai nhà giấy bỗng như có một sự gì khang khác chờn chợn. Hắn nhìn xuống trại to. Hắn trông ba góc lô cốt. Hắn nghĩ đến cai xếp, đến Lý. Hắn đảo mắt suốt qua cả nhà giấy của hắn đến kho, các nhà, các buồng, các cửa, các lỗ châu mai, các bờ tường, các lối đi, các ngách. Chao ôi, sao mà lại thế này? Sao mà lại trơ trọi trần trụi thế này? Chung quanh nơi hắn không những chỉ như thế thôi mà còn không phải gắn liền với hắn như trước kia, cùng hắn khăng khít ghê gớm, vì giống nhau, bắt buộc phải theo nhau, trên bảo dưới, dưới phải nghe trên, cứ răm rắp tuân lệnh và thừa hành, dưới một sức mạnh và quyết định và sai khiến thế nào cũng phải chịu, phải vâng, cho sống được sống, bắt tù phải tù, đem bắn chịu bắn, tra tấn hành hạ đến thế nào cũng không được phép cưỡng lại! Cái sức mạnh, cái quyền bạo mà hắn tưởng suốt đời ngự trị ở đây, hắn nấp bóng, gối đầu, ôm chân ấy cứ mỗi ngày một sụt xuống, tan dần đi, một ngày thêm tối sầm tối sì lại, rồi thì trong vòng hơn nửa năm nay lại càng làm hắn bàng hoàng vì sự vời vợi đen kịt, đen mò của nó. Và giờ đây chẳng những cai xếp, binh Lý, đội Mùi không giống hắn, không như hắn, chứ đừng nói là thân với hắn, mà còn như sắp quay bước ngược hẳn lại với bước đi của hắn, với cuộc đời của hắn.

Cai nhà giấy ghé ghé ra trời sao chi chít và bốn bề đồng ruộng đồi bãi làng ấp mịt mùng thăm thẳm.

"Giời ơi! Giời ơi! Thằng Mùi nó cứ làm như người không bận đầu bận óc, bận tâm bận trí gì đến chính trị, đến thời thế, đến sự nọ việc kia,... nhưng thật ra là để nó xoay chiều đổi hướng, tìm đường kiếm lối... đi theo Việt Minh! Giời ơi! Giời ơi! Sao tôi đã chịu khó đánh hơi và cũng có lúc đã thoang thoáng thấy phải dè chừng việc này với thằng Mùi, mà tôi lại để đến bây giờ mới thực sự nghĩ ra và nghĩ đến cơ sự đó?!"

Cai nhà giấy càng như một con thú dữ vận dụng tất cả năng giác và kinh nghiệm của mình để nhận xét dưới trại to, dưới nhà lính, ở ba góc lô cốt và cổng chính. Mồ hôi toát đầm, lạnh buốt, cai nhà giấy càng thấy mình không phải sẽ vồ được sẽ chồm lên mà sẽ bị ngập xuống một biển cả, bị đè lên dưới những tầng núi mà tất cả cảnh vật cứ bằn bặt ở chung quanh.

"Mày còn ngu còn dại quá cả mấy đứa bị mày khinh thị nhất đấy!"

Cai nhà giấy thần mặt ra, không còn đủ sức đỡ lấy trán mình nữa.

- Nếu mà đêm nay thật thằng Mùi nó không đi tuần tiễu mà là nó có liên lạc với Việt Minh (hắn kêu lên như mếu như khóc) hay còn đi rước cả Việt Minh về nữa thì là mày hết đời đấy!

Cai nhà giấy nấc nấc:

- Làm sao tôi có tê-lê-phôn hay có cách gì mà báo ngay Hải Phòng với cả Hải Dương. Quảng Yên được bây giờ, hở giời!

Hắn gục đầu rũ xuống mép bàn:

- Thế là tôi đành chịu thua thằng Mùi ư?!! Tôi đành chịu thua chịu chết với nó ư?!! Giời ơi! Sao tôi cũng có tay có chân có tai có mắt mà tôi lại để họ chặt tay chặt chân và bưng hết mất cả tai mắt của tôi thế này?!! Có phải đúng là giời định hại tôi nên đã làm u mê ám chướng cho đến bây giờ?!! Giời ơi! Giời ơi! Làm sao mà giời lại phù tôi, gàng quải thằng Mùi nếu nó định trở mặt, hay nó chẳng làm gì cả càng hay, để đến ngày mai tôi ra được Hải Phòng hay đi lên Hải Dương... Lạy giời, run rủi như thế cho tôi...

⚝ ✽ ⚝

Ba phát súng lại nổ. Nhưng không phải là để báo hiệu như đã hẹn định với cai nhà giấy mà ngược lại, cho tự vệ mở cuộc tấn công. Khi quản đồn gọi cổng, một tên lính gác đêm vừa chạy ra nhận khẩu lệnh và mở khóa xong, chưa kịp thu chân lại để đứng nghiêm chào, thì toán lính đã trào vào. Không! Việt Minh đã trào vào. Việt Minh võ trang toàn súng, còn lính đồn thì kẻ tay không, kẻ lại cầm giáo mác, mã tấu. Và ra lệnh nổ súng là chị cán bộ: chị Minh Hiền! Lý ở chòi canh nhanh như cắt vù xuống trại to, còn ở trong trại to thì hai người đã chồm dậy nhấc hai khẩu súng trên giá gỗ mà lên đạn sẵn sàng. Một người trấn giữ bảy khẩu còn lại, một người phốc ra cửa chĩa vào những tên lính mắt nhắm mắt mở, luống cuống, có lẽ định chạy ra cửa, có kẻ chui xuống gầm sàn... Ở hai lô cốt góc đông và góc tây đồn, hai lính gác cũng gọn như Lý vút lên nhà giấy. Khi cai nhà giấy vừa bước khỏi bực thềm thì đúng là cả một vòng mũi súng, mã tấu, mũi mác đã sầm đến tua tủa vây chặt. Cai xếp ở buồng riêng đầu đằng kia trại to định chạy ra. Nhưng quản đồn và hai tự vệ đã chắn lấy cửa. Quản đồn xua xua tay, vẫy vẫy khẩu súng lục bảo y đừng chạy, đừng chạy, tất cả đồn đã hàng Việt Minh, đã bị Việt Minh chiếm rồi, y cũng phải hàng theo thôi. Cánh tự vệ của Vy bố cùng cánh tự vệ của Trần Văn, Côn và bốn đồng chí thợ chỉ huy vọt qua đường ngay khi tiếng súng còn vang. Để Trần Văn, Côn và hai chiến sĩ tự vệ lục soát kỹ nhà giấy, Vy bố cho dồn tất cả các cai các lính vào giữa sân dưới cột cờ mà Lý đã đốt thêm hai ngọn đèn bão treo sáng trưng.

Cai sếp, người cao lớn, tóc húi kiểu bàn chải, mặc áo dệt lẳn khít, thắt lưng da, bao súng cầm tay, vẫn chưa hết run, khi đi đến chỗ Minh Hiền và bố Vy toan chắp tay lạy, thì Cao vội giữ lấy cánh tay y:

- Thầy cai sếp đừng làm thế! Thày cai cứ yên tâm. Thày cai như thế nào, chúng tôi biết hết. Cả mọi người trong đồn này thế nào chúng tôi cũng biết hết. Nào thày muốn về hay ở lại nào?!

Mặt đang tái dần đỏ ửng, cai sếp lại chắp chắp tay, cúi cúi đầu, ngập ngừng:

- Thưa với các cán bộ... các cán bộ định thế nào, tôi cũng xin theo ạ....

Tất cả những giấy tờ đã chất đống trước cột cờ. Tất cả những súng đạn và thứ gì không phải là đồ dùng riêng của lính tráng mà để sử dụng cho chiến đấu đều chuyển ra hết, gói thành bó, thành vác và đóng gánh. Ngọn cờ lúc xuất quân Côn tranh cho kỳ được để mình treo, đã phấp phới trên đầu mọi người, gió thổi phần phật kéo căng cả dây và rùng rùng cả cột gỗ cao vót.

Cao hô mọi người dàn ra thành ba hàng. Cao đứng trước hàng đầu. Thanh và Trần Văn cùng toàn thể đội tự vệ đứng hàng thứ hai. Cậu con trai cụ Hương, Lý, quản đồn, cai sếp và lính đồn ở hàng thứ ba. Hai người lính đang sốt cũng xin ra xếp hàng chào cờ. Giữa họ là cai nhà giấy khúm núm cứ hết nhìn bố Vy, Cao, Xim, lại đến mấy tự vệ quần áo xanh thợ, người nào cũng vạm vỡ, cầm súng chẳng có vẻ gì bỡ ngỡ, trông đã rất chắc, rất tợn lại còn đeo mã tấu bên lưng. Y cũng nhìn cả quản đồn và cai sếp, mắt như muốn rơm rớm khóc để phân bua cả với hai người rằng mình từ trước đến nay nếu có phải làm gì thì cũng hoàn toàn theo lệnh quan trên mà thuần là công việc giấy tờ bàn giấy. Vậy hai người cố làm chứng tốt cho, nếu các cán bộ có tra hỏi và xét xử thì cũng nói hộ và xin minh xét cho... Cuối cùng y lại hướng về Vy bố, đặc biệt là Xim, với đôi mắt nhìn và vẻ mặt thảm thiết nọ. Và y chỉ mong Xim mau chóng ra hiểu dụ để được biết số phận y thế nào rồi y sẽ nắm lấy áo Xim mà nói thật kỹ và xin thề trước mọi người.

Tiếng Cao ra lệnh bắn súng chào cờ dội hẳn lên. Dân chúng cả mấy làng mấy ấp gần khu đồn đổ ra rầm rập, nghìn nghịt. Đuốc đốt bùng bùng có chỗ lửa bốc cao rừng rực như đình liệu, vây kín trước cổng chính và hai đầu tường của phố Chợ và phố Đồn. Xim đứng giữa cột cờ giới thiệu Vy bố nói chuyện với mọi người. Côn và anh con trai cụ Hương cùng Trần Văn và hai tự vệ tiến ra, mũi súng chênh chếch như để ngắm bắn thêm giặc thù và các sức cản trở cách mạng ở dưới mặt. Trống ngực ai nấy đập chưa bao giờ từng thấy. Trời sao như rung lên. Vùng đồi và sông bãi phía xa vang âm rất lâu, rồi ở cả đấy cũng nổi theo trống, chiêng, thanh la, mõ rùng rùng không ngớt. Những tàn lửa của đống giấy tờ bay lên phùn phụt. Vừng sáng còn rực lên vì ở chân đống còn đốt cả áo mũ, sổ lính, hình thẻ và các thứ lon chỉ vàng, chỉ kim tuyến, dạ xanh, dạ đỏ. Sau khi bố Vy dứt lời, quản đồn đi ra trước nhất trong bọn lính. Y đặt cái áo ka ki, cúc đồng đủ cả các cầu vai, lon tay, cài khít như có người mặc, vắt rũ cạnh cái mũ lưỡi trai nẹp vàng nẹp đỏ chỉ đội vào các ngày lễ. Y thẳng người giơ tay xin phép bố Vy và Xim được chào cờ trước rồi xoay mình chào các tự vệ và bà con đồng bào dân chúng. Sau đó quản đồn kéo kéo mấy tập sổ đang cháy bùng bùng cho cháy bén cháy dập lên áo mình, mũ mình...

⚝ ✽ ⚝

Bích Nga vừa hát, vừa thoăn thoắt xếp lại gói sách báo để theo Xim chuyển tự vệ về làng dưới. Bích Nga đã giật mình vì Trần Văn vào rất đột ngột gọi tên mình, lại bị Trần Văn nắm lấy tay. Bích Nga quăng quắc đôi mày không tỉa và cong, xẵng giọng:

- Kìa Văn!

Trần Văn run tay.

- Bích Nga đi ngay với chị Minh Hiền à! Sao Bích Nga không ở lại?

- Ở làm gì? Làm gì?

Trần Văn choàng lấy vai Bích Nga:

- Bích Nga! Bích Nga ở lại với tôi rồi mai cùng đi. Thoáng giây Trần Văn tối rầm cả mặt và thấy như cả người bị tung lên rồi ngã dúi đi. Bích Nga vươn tay dằn đẩy hẳn Trần Văn ra. Trần Văn thở dội:

- Tôi yêu Bích Nga! Tôi phải yêu Bích Nga rồi! Tôi yêu Bích Nga vô cùng! Thế còn Bích Nga có yêu tôi không? Bích Nga! Bích Nga! Giời ơi! Chúng ta được sống thế này mà không yêu nhau?!!

Cái cằm hơi lẹm của Bích Nga đã ngước lên, ức và cổ phập phồng nấc nấc. Bốp! Một cái tát như của một cơn hờn giận dữ dội bị nén từ lâu, vả trái vào mặt Trần Văn. Trần Văn chưa kịp mở mắt thì đôi cánh tay lẳn chắc của Bích Nga đã ôm lại Trần Văn. Bích Nga gắn môi mình vào môi Trần Văn mà rít lên:

- Không nói nữa! Giêsuma, không nói gì nữa Trần

Văn ơi...

⚝ ✽ ⚝

Người con gái cụ Hương ẵm con và dắt cả cụ Hương và bà lão bên làng vào nhà. Dưới ánh sáng chiếc đèn ba dây, Bố Vy và Xim đang tíu tít cắt đặt công việc và trả nhời các đồng chí tự vệ mới đi chiến đấu về và các đồng chí địa phương kéo đến hỏi thêm rất nhiều chuyện.

- Như thế thì không thuận đâu chị Minh Hiền ạ. Bà con nhất định nghe điều gì chứ không nghe điều này đâu! Thắng lợi về, dân ấp chỉ có con lợn cân cả hơi mới được hơn năm mươi cân, làm rau để các cán bộ và tự vệ ăn mà không cho... thì có đời thuở nào lại ăn ở như thế không?!

- Đời thuở ta chứ còn đời nào nữa, cụ Hương và chị cả nhỉ?

- Thì càng đời thuở ta mới càng nên...

Xim lắc vai người con gái cụ Hương...

- Mới càng phải biết ăn, biết lo, biết làm, biết giữ, biết tránh...

- Thôi thôi... bao giờ chị đã giải thích mà chả đúng. Tôi cứ ra bảo mấy cậu mấy chú ấy chọc tiết