Khi Đứa Con Ra Đời Chương 14
Cụ Khiêm ướm chiếc guốc vào chân. Cụ nghiêng ngó rất lâu rồi lẩm bẩm:
- Vẫn chưa được! Phải đẽo đằng gót tí nữa thì mới thật in.
Ông bõ nhìn, cười thầm, và càng bứt dứt. Cụ Khiêm vẫn chưa chịu đi tắm mà nước bưng lên thì gần nguội rồi. Kể ra, guốc nhà đẽo như thế, lắm cửa hàng cũng khó làm bằng. Vậy mà cụ Khiêm cứ còn chưa vừa ý.
"Dễ thường cụ định đưa lên hội chợ Hà Nội để đấu xảo?!! Đấu cái kiểu guốc này không còn ai làm và không còn ai đi nữa, hơi cao và rộng mũi như guốc các bà lão ngày trước, không sơn, không chuốt, từ dáng guốc mặt guốc đều nền nã, thì đẹp quá! Các bà lão khó tính nhất, mượn đi chơi cũng vẫn được!"
"Cha ở nhà làm thợ hay mở hiệu thì đông khách lắm đấy! Cha cứ kỹ tính như thế này, thì cha còn là không về các tỉnh to ở với các cố được đâu!".
Cụ Khiêm không phải bị đổi, mà là xin với cả cha bề trên và cố Nhân cha chính xứ Hải Phòng để về Xứ họ An Sơn trong kỳ Mỹ bỏ bom dữ dội quá sức lẽ mình. Năm nay cụ đã bảy nhăm tuổi, nhưng cụ vẫn làm lễ sáng năm giờ cho các con chiên, và hễ động chuông kẻ liệt, bõ nhà thờ vào trình, thì dù nửa đêm gà gáy, cụ cũng nhiều khi phải chờ hàng nửa giờ mới gọi được xe kéo. Những buổi chiều thứ sáu đầu tháng và lễ các Thánh tông đồ, cụ Khiêm vẫn đi chầu, cũng quỳ ở ghế gỗ hàng giờ mà vẫn đủ năm chục tràng hạt, rồi ra về sau cùng lúc ngoài trời tối mịt.
Nhưng tất cả những gì là quyền thu, quyền phát, các thứ sổ sách, tiền nong, các đồ lễ tết... nhất nhất cụ Khiêm đều để cố Nhân cũng như các cố tây chính Xứ khác nắm giữ. Vả lại, các cố tây cũng thấy thương và lo cho cụ Khiêm vốn là kẻ nhà quê nhà mùa, chậm chạp thật thà quá đỗi, người cứ ngày một yếu một lẩn mẩn, nhỡ để xẩy ra sự sai sót, và không đôn đốc quán xuyến được nhiều việc ở nhà xứ chính, nên các cố phải đảm nhiệm hết cho cụ Khiêm, mà chỉ để cụ Khiêm trông coi những việc nhẹ nhàng như trên kia. Ấy là chưa kể những việc giao dịch về phần đời, với các quan, các tòa, các sở... cụ Khiêm vốn chậm chạp vụng về mà phải ghé vai thì vất vả cho cụ quá. Thật là tội nghiệp.
Về phía cụ Khiêm, sợ mình tuổi tác dễ quên dễ lẫn, nên cụ Khiêm càng xin nhường hết mọi quyền mọi thứ. Cụ đã bảo các con chiên đi xin lễ Mi sa, dù chỉ phải đóng cho nhà thờ một đồng bạc thôi, thì cũng cứ nộp cho thầy giáo thơ ký để vào sổ của cố chính xứ.
Chỗ cụ Khiêm đang ngồi vừa đẽo guốc vừa chuyện với người bõ nhà thờ đây là bên gian nhà cũ của cha chữa lại, lợp rạ làm kho và làm bếp. Nhà ở và nhà khách của cụ là trên vườn kia, lấy gạch gỗ ngói nhà thờ cũ xây lại, thêm mấy chục cây xoan và tre ngâm của các con chiên quyên góp. Còn nhà thờ xứ họ thì hoàn toàn bằng tiền đóng góp của các con chiên, tiền mở hội, đấu giá mua ảnh Đức mẹ và tiền của cố bà Đức Sinh giữ năm bát họ to cho cả nhà giàu bên đời cũng được chơi mà cố cầm cái. Cơ ngơi trông nom như thế, cụ Khiêm về nghỉ thì nhàn quá! Nhàn quá! Bởi vậy, ông bõ đi hầu cụ Khiêm đã hơn hai mươi năm nay, khi chạy theo cái xe kéo còn đẹp hơn cả cỗ kiệu nhà thờ mà cố bà Đức Sinh sai người lên Hải Phòng đón, ông bõ đã tự nhủ.
- Lại được về xứ quê với cha đây, các con chiên đều thuần, chỉ việc nghỉ ngơi không phải bận tâm gì, là thuể thỏa nhất!
Cụ Khiêm còn làm cả quai guốc. Cụ lấy mây chẻ nhỏ, chuốt kỹ, bện sợi sáu. Cụ bảo giống quai này mát và sạch, không như đi quai da chỉ tổ ngứa, gãi làm lở, thối chân.
- Ớ bõ! Mấy hôm nay ba nhà cuối xóm Chợ lại về đủ, chỉ cho các con đi mót nhà mà cũng được hàng thúng thóc thổi nấu ăn cả bữa tối phải không?
- Trình cha, có một nhà hư lắm, để các con nấu nướng cả ngày, mua từng rổ cá, chỉ đun nhập nhuội rồi ăn, nên lại ốm, lại vào bà mụ xin thuốc.
- Sao bõ biết?
- Trình cha, hai bà đi nhà thờ phô đấy ạ. Con phải đến ngay tận nhà bảo ban cho họ.
"Ừ, bụng cao dạ dốc, nhịn thèm nhịn nhạt mãi mà!"
- Thế cái ao sau vườn nhà Mụ đã dọn quang rồi chứ?
- Trình cha, chẳng ai như các cô mụ, chỉ vừa men đến bờ duối còn cách ao hàng mấy thước, thì đã tru tréo lên với nhau và kêu cả tên cực trọng nữa! Sau thanh niên tự vệ trong làng phải dọn giúp cho hết các việc. Trình cha họ phải xe đất lấp hẳn ao đi. Ai đời, người chết thành dòi thành bọ, không biết bao nhiêu là xác!
- Sao bảo Việt Minh cũng phá kho thóc của nhà Đức Sinh chia cho mọi người cơ mà?!
- Giêsuma lạy Chúa tôi! Nhà vợ Tú nó bày trò đánh trống, khua thau, gõ mõ để tẩu tán thóc đi rồi lại kéo nhau về Hải Phòng ở. Còn rặt mấy thúng thóc mục thóc chuột ăn, nó tung ra, mở cổng cho các nhà bên đời đến quét hót đấy chứ! Nếu Việt Minh đến đây sớm thì chả nhiều người bị chết khốn chết khổ như thế!
- Ớ bõ, vậy thóc gặt vụ này gởi nhà xứ bên, gởi nhà cụ trùm có cẩn thận không?
- Trình cha, trong xóm cũng rào rấp và lập tự vệ canh phòng. Có lo chỉ lo Nhật họ kéo đến thu, hết mất chứ bây giờ đâu đâu cũng nổi Việt Minh, dân đâu về đấy làm ăn, còn mấy ai đi ăn mày và chịu đói nữa! Mà thưa cha, chuyến này Nhật họ có kéo về thu, chắc chả được với Việt Minh không khéo bị đánh to cũng nên!
- Đánh nhau to với Việt Minh cơ à? Thế thì min phải sức cho toàn Xứ họ ta hễ thấy sắp động dạng thì phải sang cả xứ bên sông thôi!...
"Trình cha... trình cha... cha là đấng bậc bề trên, cai quản phần hồn tất cả mọi người, cha giảng dạy điều gì của Chúa, thì tất cả phải nghe theo, nhưng bây giờ cha bảo điều này thì... con thấy... thấy khó khăn lắm! Cha mà lại biết rằng mấy thanh niên tự vệ trong xứ họ đang bàn với nhau là nhà xứ có một khẩu súng gióp năm, và cha có một khẩu súng hai nòng bỏ han bỏ gỉ hết cả, thì xứ họ xin cha cho anh em mượn, anh em lau chùi để tập tành canh giữ cả ấp trại và đánh cả Nhật nữa đấy!..."
Cụ Khiêm đi trước, ông bõ ôm quần áo theo sau ra nhà tắm ở góc vườn. Cởi một áo cánh nhưng vẫn mặc quần trắng dài, cụ Khiêm xát xát, xoa xoa, bóp bóp một lúc rồi mới cho ông bõ dội nước mà phải dội từng gáo mỗi lần một sớt chảy dần để cụ Khiêm kỳ cọ lấy. (Nghe nói ngày xưa hồi còn mồ côi cả cha mẹ ở chăn trâu cho nhà chú thím, cụ Khiêm con theo người anh họ đi cày nữa. Rồi khi vào nhà Chung làm chú bé, cụ Khiêm ở với cha nào cũng được yêu mến vì cái nết dậy sớm thức khuya, việc nặng gì một mình cũng làm hết, kể cả đào ao, vượt đất, trồng tre là công việc của thợ đấu. Mà vẫn sáng dạ, giúp lễ cho các cha vừa nhanh gọn vừa cẩn thận. Duy chỉ phải tính gan lì và hơi gàn bướng, nên chậm vào trường lý đoán, rồi khi được làm thầy cả thì ở với các cố tây hình như không hợp lắm, mà cũng chẳng được ở xứ to xứ chính nào lâu).
Ông bõ lấy miếng vải sợi thô bào khắp lưng cụ Khiêm kêu cùng cục cùng cục. Người to xương, ăn uống không thích mỡ màng nên càng gầy, tuy vậy vẫn khỏe và vô bệnh.
- Bõ à, min bảo bõ bổ thêm ba chục hố nữa mà trồng xoan bõ chưa làm đủ thì để min làm với.
- Trình cha, đã được hơn hai mươi hố rồi ạ, chỉ một buổi nữa là xong.
- Thế vụ này bõ định trồng rau gì ăn ở ngoài vườn vậy? Min bảo cứ trồng hết hành và rau cải bẹ cho min. Chỉ dưa hành nén với mắm tép là tươm bữa. Bõ phải gơ thêm mấy thước rau lang cho lợn. Nuôi lợn như người bỏ ống ấy, lễ Sinh nhật năm nay chắc Chúa lại cho được mùa to đây.
- Trình cha, con pha thêm nước ạ...
- Thôi, thôi, min trướt chậu này nữa là đủ rồi. Nào đưa min đôi giày mới của min đây!
Cụ Khiêm lại ướm chân đôi guốc gỗ, lộc cộc đi, có vẻ khoan khoái lắm.
Có tiếng giật chuông ngoài cổng. Cả hai con chó thiến hồng hộc chạy ra cắn. Cụ Khiêm truyền ông bõ ra xem. Trở vào, ông bõ hơi luống cuống:
- Trình cha, có cậu giáo con bà Thanh và một ông... như là cán bộ.... cán bộ Việt Minh đến thăm cha...
- Cán bộ!... cán bộ Việt Minh trên huyện hay tỉnh về thế?
- Trình cha con không được biết, cha chưa cho phép con không dám hỏi. Trông người cũng có tuổi...
Cụ Khiêm cũng hơi băn khoăn. Ông bõ ôm chậu quần
áo lên:
- Trình cha, người đã có tuổi mà ăn vận xuềnh xoàng không thấy đeo súng lục ạ.
Cụ Khiêm cười:
- Đến thăm min chứ có đi bắt quân dữ đâu mà mang súng. Bõ mời vào nhà khách chờ, min ra ngay. Pha chè mạn bánh của min ấy nhé.
"Ừ mình cũng đang muốn gặp họ, xem xem thế nào. Cũng táo tợn đấy chứ, không hiểu súng ống có gì mà cả gan đã phá hết kho thóc này đến kho thóc khác, lại còn cướp cả đồn lính hàng ba chục tay súng và đánh lại cả người Nhật. Dễ thường lại định kéo cả vùng xứ họ đây cũng nổi quân mở đất như ông Đề Thám ngày xưa chắc?!"
Lần đầu tiên trong đời làm thầy cả, cụ Khiêm mặc áo tiếp khách mà thấy hồi hộp. Không phải vì e ngại những sự bất trắc, mà là như linh cảm mình sẽ phải có thái độ, sẽ phải giải quyết trước một công việc rất mới lạ, chưa từng nghĩ đến và cũng chưa từng phải tiếp ai, nghe ai như thế.
⚝ ✽ ⚝
Cụ Khiêm lại bị chia lòng chia trí. Nhưng lần này đã làm dấu thánh giá đến lượt thứ năm thứ sáu và đọc gần đủ hết các kinh rồi mà cụ Khiêm vẫn thấy không thể cầm lòng cầm trí được.
Cụ Khiêm vẫn quỳ ở cái ghế nệm riêng trước tòa Mình Thánh. Nhà thờ xứ họ nghèo nên chỉ trên hàng đầu và ở bên tay phải là có một ghế dài vừa đủ năm người ngồi sít, nhưng ít khi thấy người ngồi, trừ những ngày cố bà Đức Sinh trong ấp, hay vợ chồng nhà tuần phủ và các con cháu trên tỉnh về đi lễ. Dưới đó là nền gạch, trải dọc hai hàng chiếu dài ẩm sì, cũng lại chỉ các cụ ông cụ bà và con cháu các chức sắc ngồi phía trên, mà nếu không thấy bọn họ thì bõ nhà thờ liền cuộn lại. Phần đông đều ngồi đất. Nhà thờ cũng không có tòa giảng và gác chuông. Từ ngày khánh thành, cụ Khiêm chỉ giảng mỗi lần vào tuần lễ phục sinh và đứng trước bậc thềm dựng lan can ngăn khoảng bàn thờ với các con chiên mà nói. Chuông, thì treo ngay trên sà gồ lối cửa cha vào ban thờ Mình Thánh. Sáng, chiều, giờ giấc hàng ngày và các tuần các lễ, bõ nhà thờ giật một mình cái dây nhỏ tí téo cho chuông bính boong gọi các con chiên. Chả bù với những quả chuông hàng tấn, trên các tầng gác nhà thờ cao tít, đủ độ lớn, nhỏ với các tiếng kim tiếng thổ, giật bằng những thừng chắc còn hơn chão tàu to, ba lực điền đu lên chỉ mới nhúc nhắc! Bệ ban thờ ở trước mặt cha xây bằng gạch. Khám thờ cũng sơn son thiếp vàng nhưng chân nến, bình hoa đều bằng gỗ, và hoa lá đều bằng giấy xanh đỏ, màu đã xỉn quăn, cúp, rách rụng và bụi bám trắng.
Tượng Đức Mẹ ngự trong khám. Ở bậc dưới, tượng thánh giá để gỗ, không khảm nạm gì cả. Chúa Giêsu giang hai cánh tay rỉ máu, đầu đội mũ gai, nhìn xuống hai bậc gạch trải giấy kim nhũ đã mốc meo dưới chân mình và cách đó là nền đất ẩm xì, trần trụi, chỗ các bà già và người con mọn nghèo đói nhất trong xóm trong xứ, những chiều hôm ban tối vắng lạnh nhất, họ thường đến với Chúa, đọc kinh thầm thì.
Để tỏ lòng kính mến cha xứ và cũng để người cha xứ già lão đặc ân về coi xứ mình bằng lòng, hầu hết các con chiên trong xóm trong xóm ngoài không phải đi làm đồng hay ốm yếu quá đều bắt các cháu bé dắt đi, kẻ bồng bế con cái, kẻ cố lê lết đến. Nhưng sau hàng ghế của cha, không kể hai chú bé và ông bõ, vẻn vẹn đếm không được hai chục con chiên. Ấy là mấy tháng nay đã gặt lúa, hầu hết mọi nhà bỏ xứ đi lên tỉnh và các nơi kiếm ăn gọi nhau trở về gần đủ. Phải, cụ Khiêm đã biết rõ rằng mấy chục con chiên ấy đã chết, và chết đói. Nhưng sao đến hôm nay cụ Khiêm mới được thấy thật rằng họ đã chết, hiểu rằng họ đã chết, cả ông trùm già dòng họ Lê và vợ chồng cụ lang mù ngoan đạo nhất xứ? Và cụ phải cảm ra một sự ghê rợn và cực kỳ đau xót là: đáng lý họ còn sống, sống tốt sống lành! Hơn ba năm, về đây chăn dắt họ, làm phép giải tội cho họ sau khi họ xưng tội để được chịu mình thánh kẻ hàng tháng một kỳ, kẻ vào ngày lễ trọng, nếu như cụ Khiêm đã thấy họ chỉ phạm rất nhẹ vào một hay hai ba điều trong mười điều răn của Chúa và sáu điều răn của Hội thánh, thì nay lại thấy rõ thêm là tội nặng nhất của họ là... bị nghèo đói quá. Mà nghèo đói quá cũng không phải vì chúa phạt... "Chúa lòng lành vô cùng, thương yêu người ta vô cùng cơ mà! Và Chúa đã phán: "Hỡi những kẻ khó nhọc và gánh nặng bay hãy đến cùng ta, ta sẽ cho bay được yên nghỉ" Họ chết chỉ vì...chỉ vì... bị cướp mồ hôi công sức bị cướp hết thóc gạo, bị cướp mất đất nước. Họ là những kẻ nô lệ, dân vong quốc nô!"
"Người cán bộ Việt Minh đứng tuổi, ăn mặc xềnh xoàng, đã đi tù đi đày mấy lần, hơn chục năm ấy đã nói với min như thế đấy. Giêsu! Người đó đã dẫn ra cả lời Chúa mà min thường giảng cho các con chiên nghe. Làm sao mà lại biết và nhớ cả những câu Chúa phán trên này?! Min hỏi ông đã học ở trường nào, thầy học là những ai và ông đã xem những sách gì, thì ông đó lại: "Thưa cha, chúng tôi chỉ được học ở trường trong tù, thầy dạy là dân chúng, sách là cả và thế giới, với đời sống của đất nước, của mọi người chân lấm tay bùn, lầm than đói khổ, không chịu làm nô lệ mãi, đã biết bảo nhau đứng lên đập tan những gông cùm xiềng xích"... Còn các ý các lời của Chúa, chúng tôi nói lại với cha, chính là các ý các lời mà các con chiên của cha, những bà con anh em đồng bào cùng sống với chúng tôi, đã khóc lóc với chúng tôi, than thở với chúng tôi, về kiếp người và số phận của họ, rồi hỏi chúng tôi, bàn cùng chúng tôi, quyết tâm cùng chúng tôi làm cách mạng!"
"Giêsu, người cán bộ Việt Minh đó đến với min, chẳng đeo súng, chẳng xưng mình chức tước gì cả. Trông vẻ người, dáng người, min cứ thấy hao hao như vẻ người dáng người của những kẻ chịu nạn chịu tội và cũng đều bị đóng đanh, và là những kẻ rất khiêm nhường, rất thân yêu mọi người khốn khó như thương yêu chính mình ta vậy!"
"Ba mươi bảy ba mươi tám năm về trước, min lên thăm một cha già về làm lễ ở xứ Bỉ nội ở Yên Thế. Nghe đâu trên này có ông Đề Thám dám nổi quân chống lại người Tây, nắm trong tay hàng mấy đồn binh lương súng ống, tớ thầy rất mạnh. Min đã tưởng kẻ làm giặc như thế thì phải thô lỗ, hung ác, kiêu căng lắm. Vậy mà là bạn của cha già, bỏ cả tiền cho cha xứ xây nhà thờ, gặp năm mất mùa đói kém, còn xuất thóc cho cả mấy cha xứ họ xa bị đói, vào đồn vay đem về cấp đỡ các con chiên mà rồi không lấy lãi, không cả thu thóc về nữa.
"Chuyện với ông Đề thì càng thấy rõ ràng là người khí khái, có chí lớn, rất thương những kẻ cơ nhỡ cùng khốn. Còn trông ông ta thì phải thấy ngay cặp mắt gan lỳ không biết gì là sợ hãi hay chịu khuất nép quy phục ai, cũng giống như vẻ nhà ông cán bộ Việt Minh hôm nay nhờ cậu giáo Thanh đưa đến thăm ta ấy".
"Thưa cha, nhân nghĩa phải thắng hung tàn, chính nghĩa sẽ diệt cường bạo. Dân nước ta càng ngày càng muôn lòng như một, mà cửa miệng đã có câu "thành đá không bằng dạ người". Cách mạng đã xây được lòng người, tựa vào lòng người, và lòng người đã ăn vào Cách mạng, thì quân Nhật hay bất cứ quân đi cướp nước, bóc lột nào cũng bị đánh đổ hết..."
"Nhà ông cán bộ Việt Minh gói ghém câu chuyện như vậy rồi chào min, chúc min khỏe mạnh, chăn dắt con chiên như đúng ý Chúa và lời Chúa, đoạn ra về, chứ không... tống tiền, bắt nộp của cải, hay dọa nạt như bấy lâu bao đấng bậc, cũng như bao quan chức và người thường đã rêu rao!".
Cụ Khiêm lại giơ mẫu ảnh thánh giá lên hít hít suýt soa kêu tên cực trọng. Tiếng đọc kinh thầm thì rên rỉ ở đàng sau vẫn giữ đều nhịp. Tuy bên ngoài nắng to, nhưng trong nhà thờ, cứ mờ mờ và như có khói. Năm cửa to, ba cửa ra vào ở mặt chính và hai cửa hai bên, chỉ mở có một cánh to phía bên trái. Những cửa sổ trên cao là cửa nhỏ, lắp thứ kính ráp, tấm thì vàng nhờ, tấm thì xanh lục, đỏ vang, tấm màu mận chín. Có những chân cột và góc tường ẩm lạnh như của một kho muối.
Từng chân cột, từng góc tường ấy nay chỉ còn mấy người, kẻ quỳ kẻ phục mà đọc kinh. Chỗ này là chỗ một ông cụ già đã chết đói. Xó nọ hai mẹ con nhà một bà già cũng đã đói chết! Chân cột kia thì cả nhà bốn bà cháu mẹ con chuyên xe sợi vá lưới nay chỉ còn mỗi người mẹ. Có khoảng hai chân cột và suốt mé đường không còn người nào. Đó là chỗ gia đình cụ trùm; còn vợ chồng cụ lang cùng với mấy gia đình đi nghề, nhịn đói mà vẫn cứ liều vượt sóng gió ra khơi đắm thuyền chết hết. Có hai gia đình không thể đổi cá lấy nổi bát gạo vì cá rẻ quá, và chẳng người nào còn gạo, đành ăn cá trừ cơm thì bị kiết lỵ ốm chết. Nhà năm người còn hai; ba người còn một.
Cụ Khiêm vẫn nhớ như in từng người đã ngồi dưới các chân cột, mé tường, xó cửa ấy. Từng ông già bà lão, đàn bà con mọn, đàn ông trai tráng, con gái con trai, trẻ lớn trẻ bé... họ đã hàng tháng hàng năm xưng tội với cha, chịu lễ của cha, đón lấy nước phép của cha rẩy mà vuốt lên trán, rồi làm dấu thánh giá, quỳ gục xuống khi cha giơ chén ca-ly-xê và mình thánh Chúa lên trong tiếng chuông rung rộn ràng. Họ còn cúi đầu xin cha nhận cho họ và họ bằng lòng làm vợ làm chồng ăn ở suốt đời hòa thuận với nhau, rồi ôm những đứa bé mới lọt lòng để cha rửa tội tổ tông truyền và đặt tên thánh quan thầy cho con cháu họ...
"Giêsu! Giêsu! Thế mà họ đã chết rồi! Họ đã chết đói
cả rồi!"
Liền với tiếng kêu lần này của cụ Khiêm, lại vang lên những câu nói của Lương. Lương nói rành mạch nhẹ nhàng nhưng cụ Khiêm thấy trong con mắt của Lương có sự đau xót vô cùng, quyết liệt vô cùng như thể tất cả mọi nỗi thống khổ của những con người kia đã mượn lời Lương mà nói, mượn mắt Lương mà nhìn mà phán xét và cũng sẽ mượn cả tay Lương mà trừng phạt làm thành sấm sét mà trừng phạt các quân giặc quân dữ.
⚝ ✽ ⚝
Thanh và Lương trở về làng Hải Phong. Thơm lại đón hai người vào nhà vệ Kháng.
Từ ngày cai sếp đồn Cao đi theo Việt Minh, trở về thăm làng và được chắp liên lạc với Lương và vệ Kháng, vệ Kháng đã xếp hẳn gian buồng phía nam trông ra khu vườn rộng cho Thơm ở riêng. Vợ chồng vệ Kháng còn nhất định bắt Thơm phải để mình thổi nấu cho ăn. Nhưng Thơm khất khi nào về bến sông nhà làm việc thì Thơm xin nhận. Bố cai sếp đồn Cao là anh ruột vệ Kháng. Người cô họ vệ Kháng là em con dì con già với bà cụ Hương điếc bên bãi Trại. Một người lính nữa ở đồn Cao xin về làng cũng là người trong họ nội vệ Kháng. Bởi vậy càng quý Thơm, vợ chồng vệ Kháng càng nèo cho bằng được Thơm lấy nhà mình làm nơi đi lại, nơi hội họp của các cán bộ. Riêng vợ Kháng càng có cảm tình đặc biệt với Thơm, vì biết rõ Thơm là người đặc trách chú trọng tuyên truyền giác ngộ mình.
Vợ chồng vệ Kháng cũng chỉ được hai mụn con gái. Nhưng vệ Kháng không như anh cháu cai sếp, lấy thêm vợ hai vợ ba, mặc dầu người vợ vệ Kháng ốm yếu quá không còn thể chửa đẻ được nữa, mà vệ ta thì năm bảy, năm tám tuổi rồi! Thế rồi lại được Thơm giảng giải nhiều điều về người phụ nữ ta, những nông nỗi cay cực họ và những quyền lợi mà họ được hưởng phải thật xứng đáng, nhưng vì chế độ xã hội này với bao nhiêu tục lệ vô lý vô cùng lạc hậu, nên thân phận nô lệ của họ càng nặng nề đen tối hơn, trăm bề chịu thiệt thòi hèn hạ, thì cả vợ và hai con vệ Kháng càng thúc giục bố phải làm sao cho Thơm về hẳn nhà mình cũng như nhà mình phải là cơ sở của Việt Minh như lời anh quản đồn Cao và anh cai sếp căn dặn.
Những lần Thơm phải ở lại bến ngoài bốc than bốc đá cả đêm hay phải đi khai hội ở các xóm liền liền mấy tối, vợ vệ Kháng cứ ngẩn ngơ cả người, ra đứng vào chờ, nhà dọn cơm ăn cũng mặc.
- Nó lại ốm đứng rồi đấy! Thôi tôi phải đi đón ngay cô phe mia Thơm về tiêm ngay cho mấy ống thuốc...
- Thuốc gì? Thuốc gì! Thuốc với thuộc gì nào, có việc quét vôi lại cái buồng và chữa lại cái cửa cho chị ấy đi khóa về mở, mà ông cứ bận mải bận mê các việc gì ấy!
Vệ Kháng chỉ cười tuế tóa:
- Thế thì chị Thơm lại càng đi nhiều, càng ít về nhà. Mình làm thế là như đối với khách, với người ở trọ cách biệt, chứ còn gì là tình cán bộ với cơ sở nữa?!
Nghe tiếng Thơm và hai con gái cứ ríu ra ríu rít từ ngoài ngõ vào, vợ chồng vệ Kháng cuống lên:
- Chiều nay ông cứ để mặc mẹ con chúng tôi ra đồng đắp bờ tát nước, tối khuya thì thắp đèn mà làm. Ông phải ở nhà. Đấy đấy... tôi đã bảo phải mua đôi chiếu mới, mà hai phiên rồi vẫn chưa mua. Các anh ấy ngủ lại đây thì sao? Tôi đến phát uất vì ông thôi.
Nhà vệ Kháng tuy là bốn gian tường đất, mái rạ, nhưng bác khéo tay và rất chịu khó sửa sang, nên sáng sủa đẹp đẽ có phần còn hơn cả nhiều nhà gạch trong xóm. Đã thế ba gian bếp và khoảng vườn lại ở vào thế rất đăng đối, nên chỗ ở thêm bề nền nếp cơ ngơi hơn. Chỉ tội hiếm con trai! Năm vợ có mang đứa con gái đầu lòng, vệ Kháng phải đăng lính khố xanh để lấy tiền chuộc lại khu thổ cư hiện nay cầm từ đời ông bố lo vợ cho bác. Ở lính đến năm thứ sáu thì được thêm mụn con gái nữa và phải xin mãn hạn. Nhà neo quá, vệ Kháng lại bị tật. Bác ở lính chuyên giữ chân... làm vườn và chăn dắt dê, chó, thỏ, gà tây, chim bồ câu cho các quan giám binh. Quốc ngữ vọc vạch được những chữ in to, vần dễ. Chữ nôm đọc và viết được mấy tên các cụ trong gia phả. Người như thế mà khổ! Chỉ vì chậm chạp và quá cẩn thận. Trong một chuyến quan năm lê dương đầu tỉnh đi câu lươn qua đồn của giám binh vệ Kháng. Vệ Kháng luống cuống thế nào đón khiêng hòm rượu của quan năm lên đồn đánh vỡ mất hai chai quý nhất. Tên cai nhà bếp lê dương đã đá và chỉ đá một cái mà vệ Kháng không trỗi được. Hàng tháng nằm ở nhà thương tỉnh bó bột và tiêm thuốc uống thuốc chữa cả bệnh sốt rét ngã nước, vệ Kháng dậy thì chỉ còn đi được tập tễnh. Và không hiểu uống thuốc tiêm ra sao hay bị động phải gân mạch thế nào, mà vệ Kháng từ đấy phải mang cái tên vệ Khiễng, về nhà vẫn ăn nằm với vợ mà không thấy vợ thai nghén gì cả! Nhưng có rất nhiều người lại bảo là do vợ vệ Kháng và số vệ Kháng. Vệ Kháng cứ thử cưới một cô vợ bé mà xem xem...
Cả vệ Kháng cũng líu tíu vì lại thấy có Lương. Ngày bác còn đang ở tỉnh Kiến An, bác đã được nghe cả các bọn lính khố xanh, bồi bếp các quan và các người bến sông phố chợ... chuyện về những cuộc bắt bớ tra tấn, nhất là các vụ xử án các ông tù chính trị, tù cách mạng, tù cộng sản, trong một buổi xử án đại hình, người nhẹ nhất cũng mười năm khổ sai hay cấm cố, còn thì đều chung thân và án chém.
- Ông Lương về huyện mình bây giờ, cũng bị xử án tù chung thân năm ấy đấy! Còn cậu giáo con bà Thanh làm cán bộ đi cướp đồn Cao thế mà lại là học trò ông Lương.
Vệ Kháng lại được biết Lương trước đây bán phở gánh ở chợ Sắt rồi đánh xe ngựa đường Đồ Sơn, Phú Thái và bị đi đày Côn Lôn, nên đã kể các chuyện đó với mấy người thân thuộc tin cậy, rồi từ mấy người này, các chuyện về Lương đã được truyền đi như một thần thoại vậy:
- Cũng người Hải Phòng, Kiến An nhà ta đấy!
Đôi tràng kỷ tre ngâm, tự tay vệ Kháng chọn tre và nhờ thợ Thu Hồng về đóng cho mình, đã sạch bóng mà bác còn đem cả nửa mảnh áo cũ của mình để dành làm mụn vá ra lau đi lau lại. Còn khay chén thì bác múc đầy chậu thau nước bể kỳ cọ và lau bằng cái khăn bông riêng. Lương phải ra sân và xuống bếp để can ngăn bác, bác mới lên nhà tiếp chuyện. Tuy vậy khi thấy mấy thanh niên cứ thập thò ngoài cổng, bác lại ra vội, bảo họ rằng hai con gái bác đang bận làm cơm và nhà đang có "các anh ấy" về, chiều tối hãy đến. Nhưng cả bọn đó và mấy ông hàng xóm đứng tuổi cũng cứ vào quây lấy Lương, Thanh và Thơm, vì Lương và Thơm đều ra mời họ. Vệ Kháng càng phải nín nhịn vì cả mấy bạn gái của con cũng kéo vào nhà, ngồi gần sập cái giường kê ở gian bên, và bắt Lương phải nói chuyện nhiều như là khách chính của họ vậy. Đã thế Thơm lại quay sang ngồi, chỉ chuyện với vợ con vệ Kháng và mấy cô này. Ừ thì mụ ta cầm tay nắm cánh chị ấy còn được, chứ cả mấy cô ả cũng như bíu lấy vai chị ấy, cười cười hỏi hỏi huyên thuyên thì còn ra thể thống gì nữa!
Hai hôm sau, các lối các lõng vào làng đã rào rấp hết. Lũy tre của các nhà bao quanh đều ken thêm chông thêm chà. Ngõ nào cũng có bờ có búi làm ổ chiến đấu. Từ nhà này sang nhà khác, tự vệ du kích tha hồ bổ đi các xóm. Trai tráng và các đàn ông đều chẳng chịu đi đâu xa. Nhiều nhà lại còn hẹn hò với bà con xóm nhà thờ nếu có báo động thì cứ sang trú bên họ bằng mấy lõng riêng và có ám hiệu với nhau.
Không phải là một hội nghị kiểm điểm thanh niên tự vệ, về phát triển phong trào võ trang chiến đấu mà không khí cũng rất sôi nổi. Mãi gần chiều bọn trai gái và mấy ông hàng xóm mới chịu ra về. Còn bác Vệ gái và hai cô con, Thơm khẩn khoản phải ra đồng làm cỏ nốt, cả ba người mới chịu đi. Sợ lại có khách và bọn Lương lại phải tiếp như ban nãy, vệ Kháng liền hạ ngay cánh cổng, cài chốt cẩn thận. Rót bốn chén nước chè vườn đã hãm đặc, vệ Kháng xoa xoa tay, hắng giọng mãi mới nói lên lời.
- Bác Lương, cậu giáo và chị Thơm xơi chén nước mới rồi em xin phép có câu chuyện muốn thưa cùng...
Lương kéo tay vệ Kháng:
- Thì bác cứ ngồi xuống với chúng tôi.
Cũng lại sợ bọn Lương có công tác gì khẩn đi chăng, vệ Kháng vội nói:
- Vâng, bác, cậu Giáo và chị Thơm xơi nước nào, xơi nước nào, em xin phép vào buồng lấy cái này.
Thấy vệ Kháng lục sục mở chiếc hòm da rồi đi ra một cách trân trọng mà lại cập rập, Lương cũng băn khoăn. Anh càng hồi hộp khi vệ Kháng bưng một gói to quấn vải tây điều, đặt giữa bàn:
- Thưa bác, cậu giáo với chị Thơm, thanh phạng này nghe nói là của từ mấy đời trước những đời cụ đời kỵ chúng em, cố tổ họ chúng em theo ông quận He được ông thưởng cho. Đáng lẽ thì anh cai sếp nhà cháu nó phải giữ đấy, nhưng cảnh nó vợ nọ con kia, nhà thờ cứ hoang toàng thậm chí ngày giỗ bác ấy và ông nó, nó cũng không về, khiến em phải khấn thay cho vợ con nó, nên em mới phải đem về nhà em. Nay vận nước đã mở, anh nó lại đi theo cách mạng, rồi về nhà lại tuyên truyền giới thiệu gia đình em với cậu giáo và bác, chị Thơm. Bác, cậu giáo và chị Thơm tin cậy vợ chồng em và các em nó, lấy làm chỗ đi về, nên em thật là nghĩ ngợi... Cảnh nhà thanh bạch neo bấn, chúng em lại chỉ được có hai mụn con gái mà em thì lại có tuổi có tật, không có người đàn ông ra đi đua đòi lập công cứu nước, thì em xin... xin ủng hộ cách mạng làm võ khí. Và rồi... xin bác, cậu giáo và chị Thơm cho em mua....
Vệ Kháng cởi mấy vuông vải điều quấn thanh phạng ra trong đã sắp sẵn hai mươi tờ giấy bạc một đồng giữ gần như không còn một nếp gấp, nếp sờn:
-... Em mua công trái ạ ạ ạ!
- Bác vệ mua tín phiếu, bác vệ mua tín phiếu chứ.
- Vâng à vâng... tín phiếu... tín phiếu, em mua tín phiếu mà cũng xin bác với cậu giáo và chị Thơm cứ giữ lấy cho em.
- Sao lại giữ tín phiếu của bác mua? Vinh dự đóng góp đó, chúng tôi không được phép...
Lương chưa dứt lời, vệ Kháng đã bưng đặt tất cả vào tay Lương. Thanh phạng vẫn sáng quắc, sắc còn hơn nước, bản không to lắm cũng không dày lắm, nhưng trông rất gợn rất chắc. Thứ này mà khoa lên mà phạt mạnh, thì cứ là xả ngọt đôi người ra dù có mặc áo giáp hay che mộc che khiên gì chăng nữa. Ở chỗ vát trên đầu có một lỗ nhỏ buộc sợi kim tuyến, và ở một mặt trổ dấu tròn ghi chữ "tử", chắc bên kia phải là chữ "sinh". Không niên hiệu và tên lò đúc gì cả...
⚝ ✽ ⚝
Chuông nhà thờ xứ họ An Sơn bên cạnh, trống làng và chuông chùa ở làng Hải Phong phía dưới, chiêng mõ trong các xóm ven bãi ven đê cứ nổi lên dồn dập. Chuông nhà thờ kéo trước, làm cụ Khiêm choáng váng cả người vì không hiểu ra sao. Tự vệ nhà xứ trông thấy quân Nhật đổ về thì báo động ngay. Hải Phong mãi phía xa thoáng nghe trên kia báo động cũng thúc trống và đánh chuông.
Còn Hải Sơn thì bổ tự vệ thanh niên đi các lõng, các ụ nghênh chiến.
Cuộc bao vây để triệt hạ khu Hải Sơn đã mở. Quân Nhật từ cửa biển Đồ Sơn thốc lên, từ trên tỉnh Kiến An và sân bay Cát Bi phóng xuống, ba mũi khép lấy hai đường cái và cầu con ngòi tiến vào làng Hải Sơn là đích chính của trận này. Suốt mấy tháng nay, phong trào khu Hải Sơn ngày càng như mũi chông mũi mác đâm vào thái dương, vào trán quân Nhật. Tên tri huyện vùng đây đúng là một thằng khốn nạn, chỉ được cái bẻm mép, những nào thủ đoạn chính trị này, chính sách mua chuộc và chia rẽ nọ, biện pháp mềm dẻo và chặt chẽ kia, rút cục cứ để các bố Việt Minh nó phá hết kho thóc này đến ấp trại và các đồn lính khác. Thậm chí, mắt càng như mắt chó giấy, giương lên mà nhìn để cả cụ Khiêm xứ họ An Sơn ủng hộ súng cho Việt Minh, mặc kệ các ấp nhà Đức Sinh và tuần phủ nổi trống chia thóc ngay giữa ban ngày, rồi thì bỏ mặc các trai tráng trong ấp và tự vệ luyện tập cả đêm. Còn để cả trưởng ấp quản lý đồn điền ngay cạnh huyện lĩnh súng của tỉnh về... nộp lại cho Việt Minh với cả máy chữ, bàn đá tha hồ in, phát áp phích truyền đơn nữa!
Cứ cái đà này thì bị mất đầu và làm tù binh của quân đội đồng minh đổ bộ lên Hải Phòng đâu chưa thấy, mà phải chịu thua chịu nhục với cộng sản với Việt Minh hoành hành ngay trước mặt mình đã! Và cái khu Hải Sơn kia, với một lũ những thằng tù Sơn La, Hỏa Lò, Nghĩa Lộ về, sẽ còn kéo theo không chỉ mấy tổng trong huyện, mà thành một lò lửa, một pháo đài dữ dội, nổ súng đánh rộng ra các nơi, và cố nhiên sẽ tước khí giới tống cổ mình đi.
Ba mặt quân Nhật vừa dàn ra là xả ngay súng máy vào làng. Ở ba ổ chiến đấu, tự vệ ta cũng bắn trả, tuy chỉ từng viên đạn nhưng suýt nữa xơi trúng lấy thằng lính hung hăng bò lên trước, có liên thanh yểm hộ và sĩ quan kêu thét ngay sau lưng. Với ba cam nhông ập đến, quân lính súng ống như vậy, bọn quan Nhật tưởng nuốt chửng ngay Hải Sơn. Vì thế, đạn súng máy cứ bắn phứa phựa, sau khi mấy khẩu súng trường trong làng đoành độp một loạt bỗng thôi, chừng như súng bị hóc hay phải dè xẻn đạn.
Bọn chúng lại hè nhau phá cổng phá lũy tìm những ngạch dễ xông vào. Nhưng thật ác, những búi tre gai và cành bồ kếp rấp thành đống cứ dằng dịt bùng nhùng, không tài nào gỡ ra hay vượt qua được. Nếu là hàng rào dây thép gai hay đường hào chiến lũy mắc điện thì mìn địa lôi phá lại dễ. Đây là những lớp tre rậm rạp bùm xùm nếu có chui vào lọt thì lại bị tự vệ từ những ngách tường bên trong bắn ra không còn biết đâu mà tránh,
Gần một tiếng đồng hồ rồi. Bọn quan chỉ huy cáu tiết đã chửi và lấy cả đốc gươm dộng thình thịch lên người những tên lính ngập ngừng định quay lại tìm chỗ khác để phá cổng rào.
Cao ở tổ đón đánh gần cổng. Đây có một tự vệ là đồng chí và Côn. Côn vừa chiến đấu vừa chạy giao thông truyền lệnh truyền tin cho các tổ. Thấy quân giặc vẫn chưa vào được làng và được biết sự lúng túng e ngại của chúng, tất cả mọi người càng thêm nức lòng khi Côn đến chuyển lời của Cao căn dặn phải bình tĩnh và quyết tâm chiến thắng. Thơm cũng ở tổ có một đồng chí thanh niên tự vệ và một chị cán bộ phụ nữ. Thơm đôn đốc việc bảo vệ bà con chị em và cứu thương.
Súng máy của quân Nhật lại xối xả; những búi gai rấp cổng cũng đã bị lỗi doãng ra. Mấy bờ tre ở phía cánh đồng sắp sửa phá toang.
- Chú Cao! Chú Cao! Chú vào đi, mặc cháu, mặc cháu!
Đoàng... mũi súng trường của Côn đã ngắm đúng và nổ trúng tên lính trèo lên bức tường đất cạnh cổng. Đoàng... đoàng... hai phát đạn nữa một phát bắn trúng ngực tên lính vừa nhảy qua rãnh nước.
- Tiếc quá! Tiếc quá! Chú ơi, ta mà cướp được hai khẩu súng của nó, kia chú ơi!...
Khói đạn và lửa đã bốc cháy mù mịt. Bọn Nhật xông được vào một sân nhà ria làng liền đốt cháy ngay và trèo lên một bờ tường, quạt súng máy. Cao thét Côn phải hạ ngay tên Nhật nguy hiểm nọ và bảo đồng chí tự vệ rút vào, báo tin cho tất cả anh em bà con biết đã bắn chết hai thằng Nhật, và chúng đã phá rào đang vượt qua vườn qua ao xóm ngoài để tiến vào ngõ giữa.
- Tiên sư chúng mày, chúng mày vào ngọt Hải Phòng năm xưa qua bến đò Khuể, rồi lại chiếm ngon Hà Nội của thằng Pháp tối đảo chính, chứ chơi nhau với Hải Sơn của chúng ông thì chúng mày bỏ mẹ.
Vệ Kháng nghe tin truyền đi nhấp nhỏm chỉ muốn ra ngay xem cái chỗ đã bắn chết Nhật. Nhưng nghĩ đến nghiêm lệnh của ban tự vệ, nhất là của các cán bộ, thì phải cố nén lòng mà ngồi nhà.
Giời đất! Lúc này mà tôi vẫn còn trai tráng và được cùng anh em tự vệ chiến đấu với Nhật thì sung sướng biết mấy! Súng mới súng to nào không biết, chứ các súng trường thường bất kỳ kiểu gì mà vào tay tôi, thì tôi cũng bắn được ngay và bắn viên nào trúng viên ấy chứ chẳng để phí đạn của ta đâu!
Ngay đó, gai ốc trong người vệ Kháng nổi lên. Khói đã bốc mù mịt. Khói đốt nhà, khói các đống rơm đống rạ bị cháy. Khói và lửa phần phật như sắp sập xuống ngay vườn vệ Kháng, ngay nóc nhà vệ Kháng, ngay trước mặt vệ Kháng.
- Không! Không! Dù có lệnh rút ta cũng không rút. Ta mà rút thì bỏ nhà cho ai? Ta mà bỏ cái nhà này và cái nhà này mà bị nó đốt nó phá thì ta sống làm sao được?!! Ta cũng chẳng thể sao bỏ được hai đứa con gái ta, để chúng nó ở lại với anh em cho đành lòng! Bất hạnh thế nào thì ta phải đến liền ngay với nó! Thôi, thôi, nhà ta có mất có tan có nát thì ta sẽ làm cái nhà khác! Chứ hai đứa chúng nó... thì...
Vệ Kháng nhổm nhổm trông về phía sau đình, đây hai con bác cũng ở một tổ tự vệ. Một cô được giữ khẩu súng của cha Khiêm bên nhà xứ An Sơn đem về sửa chữa, chính bác đã dạy cô từ tháo lắp đến các kiểu bắn. Một cô giữ thanh phạng mà Lương nhất định không nhận và dặn bác phải coi là một gia bảo, quý còn hơn vàng, nên luyện cho cô mấy đường gia truyền hiểm nhất. Tiếng chuông, mõ, trống, chiêng, cồng càng rùng rùng nhiều phút át cả tiếng đạn rền.
"Quỷ quái quỷ quái! Đúng là đường gạch, ngõ rộng vậy mà vào đây lại càng tắc tị thế này? Rút ngay, rút ngay đi thôi, không thì bỏ mẹ hết với chúng nó đây này".
Một tốp lính Nhật, có thằng bị rào gai giữ lấy áo và cào suýt bật cả con ngươi, đã hò hét nhau kéo gỡ được mấy bó gai ở con đường rộng nọ, đã tưởng từ đây là mở một lối dễ đi vào giữa làng. Chúng bị đứng hẫng trong một ngõ cụt, hai bên lại toàn những tường đất sần sùi còn ghê rợn hơn cả mắc dây thép điện vì từ những kẽ hoăm hoắm cứ thế bắn đạn hay xỉa dáo xỉa đòng ra không để ai tránh được. Chúng hốt hoảng lùi lại và lom khom men mén từng chân tường bờ đất mà tiến.
Đoàng... đoàng... độp... đoàng... ở mặt khác những phát đạn gan góc, tinh ác vẫn nổ tiếp. Tên quan trẻ chịu trách nhiệm đánh vào khu chính uất quá lại thét bắt khẩu súng máy quạt nữa, xả nữa khi tiến ra trục đường lớn. Đạn tung tóe không còn biết vào những đâu. Tất cả những cái gì quơ nhặt được đều bị ném bị dùi vào các đống lửa. Khói sà xuống đất như của các đống dấm lúc gió thổi tạt ngang và đang cháy bùng bùng.
Vệ Kháng ho sặc vì khói khét, mùi lông lá, chăn chiếu, quần áo và cả thịt da người nữa. Vệ Kháng chợt tiếc. Vệ Kháng tiếc vì trong tay chỉ có con dao vót nan. Sao vệ Kháng không nghe lời Lương giữ lấy thanh phạng để chiến trong lúc này. Thôi, không xông lên chặn đón hoặc mai phục hạ được năm ba quân Nhật, thì chí ít cũng có thể "làm" được một thằng lớ quớ mò vào nhà hay bị lạc đường lạc ngõ. Chao ôi, tiếng tăm và sung sướng nào bằng! Vừa rửa được tủi hận phần mình, vừa tỏ cho các làng các vùng trong toàn tỉnh và ở các nơi xa thấy rằng Hải Sơn đây không chịu kém cỏi, đã hạ được cả Nhật đánh vào làng, vào nhà mình! Rồi lại cả con gái Hải Sơn nữa! Con gái Hải Sơn cũng bắn cũng chém được Nhật. Con gái Hải Sơn có cả hai đứa nhà vệ Kháng đấy!
Vệ Kháng liếc liếc lưỡi dao vào miếng đá mài, gại gại bàn tay thấy rất gợn rất bén. Bác đưa chuốt rất nhẹ những sợi mây; đôi tai bác và tất cả cảm giác đều dướn lên. Chợt cánh cửa hậu lối ra vườn bật tung. Một mũ vải chum chủm và một mũi súng cắm lưỡi lê nhô vào định lao qua sân. Vệ Kháng không còn lối nào chạy nữa, trừ lối vọt tường nhà mình sang nhà bên cạnh rồi luồn ra vườn ra đồng. Không được liều như thế! Chỉ toi mạng! Lưỡi lê của nó kia không sọc qua ngực qua mạng mỡ mình thì cả xạc dờ đạn cũng đủ xơi ngon mình khi mình đu lên bờ tường. Và tội gì lại phải chạy như thế. Một chọi một sợ gì. Rồi lại cướp được súng, thì gậy ông lại đập lưng ông. Ở gốc cây sau đống rơm này đứng trấn và đón bắn, sắp hết đạn hãy chạy vậy.
Tên lính Nhật vừa nhổm lên và thoáng thấy người ở nhà, nó chưa kịp bấm cò, thì như có một làn chớp, một tia sét bổ xuống đầu hắn. Con dao vót nan đánh xoạt đã phạt cổ tên Nhật lại còn lẻm thêm một miếng mặt. Một phát đạn vọt qua tường, một hình thù, máu phón phọt lảo đảo chúi dúi sầm vào người vệ Kháng. Bác co chân đạp băng đi, giật lấy súng, định phốc qua gốc cây trầu lối cửa ngách. Hai phát đạn của vệ Kháng nổ liền. Tên Nhật bị đạn sượt bắn trả liền. Vệ Kháng ngã vật ra. Hai đồng chí tự vệ trèo lên phía sau bắn cứu nhưng không kịp. Tên Nhật sống sót bỏ chạy. Một anh xốc vệ Kháng lên lưng bổ qua bờ duối ở góc vườn, cõng vệ Kháng về chỗ Cao và các đồng chí trong ban chỉ huy tự vệ đã rút về bố trí cho anh em đón đánh vào mặt cạnh sườn quân địch. Cả súng máy và bốn súng trường của toán Nhật xông đến nhà vệ Kháng đều phải bắn tới tấp để cướp lấy hai xác tên lính đưa ra ngoài ôtô.
Lúc này mặt trời đã chiếu chõ đỉnh đầu. Khói lửa ngun ngút, nhiều khoảng tưởng như có dầu tràn ra loang loáng, bùng bùng...
Những ngọn lửa đỏ rực phụt lên quá cả ngọn cau ngọn tre. Khói tre rầm không còn thấy rõ lối đi trong ngõ, hay nóc nhà nào cách nhà nào. Có tự vệ nhảy bổ vào cả quân Nhật rồi chạy sang ngõ khác, nhà khác để đón đánh toán giặc mới, và giúp bà con chạy đến khu có ban cứu thương mà quân Nhật không vào được.
⚝ ✽ ⚝
... "Quân Nhật bị bắn chết ngay lúc cố xông vào làng... Quân Nhật bị bắn chết ngay cả lúc xông vào được làng rồi và đang khiêng xác nhau ra ôtô... Quân Nhật chỉ cậy có súng máy bắn vung bắn vãi và đốt phá các xóm... Quân Nhật cứ như chó dại chó dồ ấy..." Câu cuối cùng này là câu nói của Thơm tự nhủ, tiếp theo những câu lan truyền tin tức trên kia. Cứ ở đâu dồn dập tiếng súng máy của Nhật và tiếng súng bắn tỉa của mình, Thơm lại chỉ muốn đến ngay xem người mình có bị thương bị chết ai không và Nhật bị hạ bao nhiêu đứa. Nhưng từ chỗ chỉ huy và các tổ chiến đấu vẫn chưa báo về có anh chị em tự vệ nào bị chết bị thương cả.
Thơm cũng tiếc, Thơm tiếc nếu mình cũng được giữ súng, được vào tổ chiến đấu ở mặt đó, và Thơm lại càng nghĩ đến bao nhiêu việc, bao nhiêu chuyện khác... Lúc Thơm cùng hàng xóm liệm cha Thơm nhập quan, sau đó một tháng, người anh Thơm lên Hà Nội rồi chết, Thơm chỉ được nghe kể lại là có người quen cho một cái chăn quấn chặt chẽ hẳn hoi khiêng ra ôtô chứ không bị trần truồng vứt lên xe bò rác đem đi chôn... thì Thơm chỉ muốn đi mượn ngay súng lục của các đồng chí để tìm mấy thằng tây thằng Nhật được biết là đứng đầu các sở các nhà nắm quyền mua bán thóc gạo hay làm quan to chức trọng, mà bắn chết hết. Bắn suốt qua thái dương chúng nó. Bắn xuyên qua mặt chúng nó. Gí súng tận trán chúng nó mà bóp cò. Thơm càng tưởng tượng càng thấy bàn tay rất chắc, trống ngực rất đều.
Cũng như Thơm càng thấy rằng cho đến lúc chết Thơm vẫn không thể bao giờ ngồi yên tâm ăn bất kỳ bữa cơm nào thịt cá xào nấu năm bảy món, mà thấy vẫn còn có người đói rách ăn mày ăn xin, vì không có công ăn việc làm, ốm yếu bơ vơ, hay vẫn cứ phải nghĩ nhớ những cảnh ngày chết đói tàn khốc khủng khiếp kia.
"Thơm sẽ tình nguyện suốt đời dạy truyền bá quốc ngữ hay nuôi dưỡng các trẻ mồ côi... Thơm sẽ không lấy một đồng tiền công nào ngoài món tiền may một năm hai bộ quần áo và xuất đóng góp cho cơ quan thổi nấu ăn uống. Lấy chồng, có con, chồng Thơm cũng phải sống như thế với Tổ chức". Bởi vậy khi Cao ngỏ ý lấy Thơm và ông bố Cao sẽ cho làm lễ cưới Thơm về nhà mà ai nấy đều rất vun vào, thì Thơm bảo Cao:
- Sao lại phải cưới tôi? Cứ cách mạng thành công là tôi... cưới anh ngay. Tôi vay trước Tổ chức nửa tháng sinh hoạt phí, tôi mời các anh các chị như Chấn, Minh Hiền, đồng chí Vy, đồng chí Lương đi ăn một chầu phở với anh và tôi rồi về nhà uống nước, ăn bánh, hút thuốc lá là xong lễ. Chị Dâng chị ấy lấy Thanh dễ thường không có phép cưới thì không là vợ chồng, không được có con với nhau đấy?! Anh phải nhắn cho ông nhà... có giết một con lợn năm mươi cân hay một tạ chăng nữa, thì tôi chỉ bưng mâm lên bàn thờ làm lễ gia tiên chứ không rửa bát... cho các khách đâu đấy!
Cao vóc người đã to lớn, da đen cháy đen sắt, khi bặm miệng, khi quắc mắt lên trông càng tợn. Cao gừ một tiếng:
- Thế thì tôi xin chịu cô Thơm ạ ạ ạ.
Nụ cười chấm câu của Cao sao mà ghét quá đến thế này! Còn cô ả Thơm, tiếng nói ồm ồm, béo lùn và cũng đen như củ tam thất ấy, trong khi làm ra bộ dằn dỗi với Cao, trông sao mà giòn gái thế?!!...
Tổ của Cao đã rút hẳn về xóm giữa. Chỉ cách mấy ngõ là đến chỗ Thơm đóng. Cao cho liên lạc và báo tin thêm quân Nhật đang tiến sát về phía Cao, lại một thằng nữa bị Cao cho ăn đạn. Thơm phải hết sức chú ý bảo vệ bà con đồng bào, nhất là các cụ già, các chị em con mọn và các trẻ em, nếu phải rút đi thì cứ theo như kế hoạch đã vạch qua lõng bờ ao, cùng bà con đồng bào ra trước. A! Nếu Thơm cùng ở ngoài kia với Cao trong lúc này! Còn khẩu súng Nga mà Cao được giữ kia, không đến lượt Thơm thì Thơm hãy được khẩu súng săn của cụ đạo xứ An Sơn để chiến đấu. Không biết người ta nói có đúng không; súng hai nòng bắn voi bắn cọp còn được nữa là bắn Nhật! Mà Thơm đã được bắn đã nhằm bắn không thể nào lại không hạ ít nhất là một thằng. Rồi người sung sướng và vinh dự nhất trong cuộc đấu tranh này sẽ là Xim. Xim không bao giờ kể với mọi người, dù chỉ một tí tẹo thôi công việc của mình ngay cả trong những lúc chuyện trò thân mật và rất bình thường. Nhưng trong nhiều hội nghị, nhiều buổi khai hội và trong những cuộc mít tinh, thì những công việc những thành tích của các đồng chí cũng như của quần chúng, Xim đều nêu lên với tất cả ngành ngọn kết quả và ảnh hưởng.
- Đạn súng hai nòng cũng là đạn ghém. Vậy thì nổ hai phát mà trúng ngay vào bọn quan hay bọn giữ súng máy thì hả quá!...
Thơm đang nghiêng nghiêng nghe các tiếng súng và trông ra xóm ngoài khói lửa ầm ập, thì choàng người lên vì có tự vệ vừa chạy vừa báo tin vệ Kháng đã chém chết và bắn què hai lính Nhật. Bác vệ Kháng cướp được cả súng nhưng bị bắn chết rồi, tự vệ đã cõng về nhà ban chỉ huy! Hai con bác vẫn đang đuổi theo cánh quân Nhật, không cho chúng vượt qua ngõ Đá vào tiếp ứng bọn ở xóm giữa. Bà con đổ về xóm Đông càng nhiều, để rút ra lũy, ra cổng chạy xuống phía dưới mà quân Nhật không đón được và nếu có dàn quân thì ta cũng phá toang để đồng bào thoát hiểm.
Vai Thơm, đầu Thơm, lưng Thơm, hai tay Thơm đều chĩu chịt những bị, những gói, những thúng, những bọc. Thơm còn giữ còn dắt các chị em mới đẻ, các cụ già, các bà con mọn và từng đùm từng đám trẻ em. Tiếng gọi: chị Thơm, chị Thơm ơi! Cô Thơm ơi! Đồng chí Thơm ơi! Chị cán bộ ơi! Ơi chị Thơm! Ơi cô Thơm! Ơi đồng chí Thơm... cứ tíu tít ở chung quanh Thơm và từ xa.
- "Bác vệ Kháng hy sinh rồi!... Bác vệ Kháng hy sinh rồi!..." Tay dắt một bà cụ tay ẵm một thằng bé và còn dắt thêm một bé gái, hai vai khoác hai cái bị quần áo, Thơm tự nhủ câu trên đây và càng muốn mọc thêm hàng ngàn cánh tay, bàn tay như là phật nào có tượng trên tỉnh Bắc Ninh ấy. Cả bọn Thơm mấy người đã chạy được đến cái ngõ có cửa chui sang ngõ bên kia, thì chợt bên bờ tường đầu nhà nhô lên cái mũ chum chủm, Xim vội đẩy cả bà cụ và bé gái, toan lách vào sau thì một tràng đạn súng máy lia ran.
- Bà ơi! Bà bế thằng chó này! Bà sập cửa lại đi.
Thơm dúi thằng bé cho bà cụ rồi lấy hết sức ném quả lựu đạn lên bờ tường nhô thêm hai cái mũ và mũi súng nữa. Tất cả những viên đạn giặc đều xối dồn vào chỗ ngách hẻm. Cùng phút, một mảng vách sập xuống kéo theo cái nóc tranh lem lém bùng bùng lửa khói. Cũng ngay lúc ấy có những tiếng thét tiếng reo:
- Thằng súng máy bị hạ rồi các đồng chí ơi! Cả xóm giữa xóm ngoài, quân Nhật đã phải lùi rồi các đồng chí ơi!... Cố Hương điếc từ hôm kia sang chơi ở nhà người cô họ vệ Kháng cạnh đình, mặc dầu các cụ ông cụ bà cố can ngăn níu giữ khi thấy tiếng súng nổ, tiếng chiêng tiếng mõ tiếng trống ran ran tứ bề. Vẫn nghe ra những tiếng reo trên kia, cố Hương liền nhảy bổ ra cửa, túm lấy đồng chí trong ban tự vệ người họ gọi mình bằng cậu, lắc lắc giật giật, run cầm cập tưởng chừng cố chưa hết câu thì đã đứt mất ruột:
- Trống thờ thần của làng ta vẫn ở trong hậu cung đấy chứ! Nổi lên! Nổi trống lên, anh nó à à à...
Cố Hương cùng người cháu ẩy toang cánh cửa lim, kẻ trước người sau chạy vào trong đình. Chiếc trống hai mặt bịt bằng hai bộ da trâu mộng chọi nhau xong thì làm thịt tế thần và khao dân ngoài hội Đồ Sơn, giá trống là ba cột lim cao gần chạm nóc nhà, chỉ những năm nào đại tế của ba tổng ăn chạ mới rước ra động hiệu, bỗng từ gian hậu cũng vang vang rền rền lên như sấm như sóng. Tất cả dân làng ở phía ngoài biển cũng nghe rõ: kẻ đang cày bừa, kẻ đang gánh lưới, phơi lưới, kẻ đang mở buồm đẩy sào, kẻ đang đẩy siếc, và ở trên cả mấy ngọn đồi xa, người người đều reo lên:
- Súng... súng Nhật im rồi, phải im rồi! Trên Hải Sơn động trống thế kia thì thắng to rồi! Bà con ơi! Hải Sơn nổi trống đuổi Nhật kia kìa... trên Hải Sơn nổi trống đuổi đánh Nhật kia kìa, đang thắng to kia kìa!...
Hai cam nhông Nhật tả tơi chạy đến cổng làng An Sơn thì bị nghẽn. Lương và đội tự vệ phục chặn đánh trên đây đã phá toang mặt cống. Nước chảy, rác quấn đất sụt, xe không thể nào nhúc nhích. Súng của chúng lại bắn loạn xạ. Chiếc cam nhông chở những xác chết và lính bị thương đi sau cùng, thấy đúng là tiếng trống càng đuổi theo mình, và cả từ lái xe đến hai tên đội Nhật đi hậu vệ cho bọn võ quan chạy trước, đều thấy chưa bao giờ có một thứ tiếng rung động nào kiêu hùng, rởn lạ như vậy. Đã thế ở bên đường rậm lại có tự vệ của An Sơn hợp với tự vệ của Hải Phong đổ ra truy kích...