Khi Đứa Con Ra Đời Chương 15
Như hai đứa trẻ nhóc đánh cuộc dứt khoát với nhau, La và Nghĩa ngoắc ngón tay rất mạnh, giao hẹn:
- Tao đón ở đây thế nào cũng gặp.
- Tao vòng sang mé kia thế nào cũng gặp.
- Tao mà thua tao mất cho mày đôi giày vải đen mới
của tao.
- Tao mà thua tao mất cho mày cái thắt lưng da có bao đạn bác Lương cho tao.
Nghĩa trèo ngay qua mỏm đá đi lánh vào những bụi cây đuổi tìm cái xuồng gỗ của tàu Phượng Hoàng. Còn La thì núp sau rặng cây phi lao lá rụng và rác biển khô nỏ ùn lên từng đống từng đống. Hai đứa vẫn phải ở lại đây để theo dõi. Còn Vy em thì đi đi về về báo cáo tình hình cho Cam. Tàu Phượng Hoàng tới hôm đảo chính Mồng Chín tháng Ba, bị sương mù lạc vào khóm đảo nhỏ hẻo lánh này nên đã thoát không bị quân Nhật bắt. Sau hôm đó, ba thằng lính Pháp ở Đồ Sơn liều mạng chèo thuyền trốn đi, tình cờ vào đây. Chúng nhập bọn lại: một ba toong, một lái và bốn mạch nô Pháp. Trêu tàu chỉ có hai mạch nô người ta giữ việc đốt lửa và thổi nấu giặt giũ quét dọn hầu hạ ăn uống. Có thêm bọn lính Pháp mang theo súng đạn, tăng sức cho tàu cũng đủ súng đạn, nên bọn Pháp cố thủ hiểm ở ngoài đây, chờ tàu Anh, tàu Mỹ, nhất là tàu của hải quân chúng đổ bộ. Không thì cứ nghe ngóng tình hình.
Một cơ sở của Cam ở ngoài này có họ gần với người anh em cùng vượt ngục đêm với Cam, đã cho riêng Cam biết về tàu Phượng Hoàng, và Cam đã báo cáo lên bố Vy, Chấn và Cao kế hoạch đánh cướp tàu.
Mấy đêm nay chỉ chợp mắt có một lúc chập tối và gần sáng, nên La vừa thèm ngủ vừa mỏi rã cả người. Khi Nghĩa đi khỏi, La toan nằm xuống đống lá khô nhưng nghĩ ngợi lại nhổm dậy. Gió buổi sáng như reo thi với sóng. Sóng không to, ràn rạt từng nhịp tràn vào bãi cát nhỏ dưới chân núi. Một mùi thơm thơm hăng hắc rất dễ chịu sực lên khắp chỗ La ngồi. Thỉnh thoảng, mấy con bồ câu biển loáng qua đầu La, tưởng như biến hẳn, sau lại chới với ngay trên những ngọn sóng trước mặt La.
- Bọn này lại chở xuồng đi lùng mua thịt mua cá của những thuyền câu quen đây. Lái hay người nào mà bán, mà đổi hàng cho tàu này, phải biết là kiếm bẫm. Thế nào mình cũng phải dò cho ra cái mối này mới được. Tìm được cái lõng này thì khoái quá!
Chợt một đám mây trắng lóa rất lạ đùn đùn cao ngất phía trên đầu La, nếu không vướng chỏm núi đá, chắc La còn thấy đẹp thấy lạ nữa và La như có thể quơ lấy mây kéo xuống với mình. Cùng lúc đó, từ ngoài biển trôi dần đến những dải mây trắng mỏng dồn nhập vào thành những lớp, những tầng, những hình thù càng đẹp càng lạ hơn.
Đấy đấy như quả núi bông núi tuyết đấy... Đấy đấy hai con tàu to xô vào nhau rồi... Kìa kìa như đàn voi kéo đi rất chậm... Kìa kìa... lại những quả núi to hơn, nhiều tầng hơn... Ối giời, như con cá voi... ba con cá voi... bốn con cá voi... Đúng như cô tiên... lại thêm cả ông tiên nữa. Ông tiên cầm phướn, cô tiên múa lụa. Tuyết tan mà lửa lại rực lên trong tuyết kìa. Cỗ kiệu nào mà che màn như thế nhỉ? Kìa như bà lão dắt cháu kìa! Bà lão đội thúng, đội quả, còn cháu nắm tà áo bà hẳn hoi. Bà lão đi chậm quá... nhưng bà lão và cháu đã đến chân núi rồi... Thôi bà lão và cháu đi vào trong núi rồi!...
- Không! Không! Đúng là u ta dắt cái Lu đấy! U ơi! Hay là u dắt cái bé con cô Xim? Phải rồi, hôm nay là mồng chín tháng 8, u đưa cái Lu và cái bé con cô Xim về chơi Hải Phòng đây. Không phải là tàu bay chở u, không phải là xe hỏa, cũng không phải là ôtô hay xe ca chở u, mà là mây. U ơi, bé Xim ơi, hôm nay đúng là Mồng chín tháng 8 - 1942 năm xưa đây. Mỹ bỏ bom Hải Phòng đúng ba năm rồi!
Mấy lâu nay, La lại cứ phải nghĩ đến u, tưởng nhớ đến u. Nghe người ta kể thì u ôm cái bé Xim, hai xác dính liền với nhau, hơi bom đốt, u và bé Xim đều đen như than. Bé Xim vẫn nép đầu vào ngực u, còn u thì vẫn nhìn trừng trừng. Mắt u cháy hõm mà còn cứ nhìn đấy! Trước kia, cứ nghĩ cứ tưởng đến đó, La lại khóc, lại muốn gào lên. Không biết cái Lê hôm thấy u và cái bé Xim bị chết như thế, và khi bà con trong xóm trong làng gỡ hai xác ra, thì nó có khóc có gào lên không. Còn La hàng năm ròng, cứ mỗi lần hình ảnh đó hiện lên càng vào lúc đêm khuya hay mưa gió lại càng rõ, thì La càng như cuồng. Nhưng gần đây, cảnh tượng đau xót nọ gợi lên, La lại thấy như có một u khác và bé Xim khác cùng hiển hiện. U con cón gánh đôi thùng nước vo hai đáy giấu tài liệu. Bé Xim lũn cũn chạy theo. Có lúc bám lấy vạt áo, thắt lưng u; có lúc u dắt tay như dung dăng dung dẻ ấy. U và bé Xim đi hẳn giữa phố. U và bé Xim đi trên bờ hè nắng.
La đã có ý định nếu có hoa tay hay học được về, thì La phải họa u và bé Xim in như thế. Thôi, hoa tay thì La làm sao mà có được, còn học thì học biết đến bao giờ, vậy La sẽ nói với hai chú rất thân là, là Trần Văn, Thái Trang là văn nghệ, là họa sĩ kia, tả cho hai chú ấy nghe, rồi nhờ hai chú ấy họa cho. Một hôm La đã ngập ngừng mãi mới dám đem ngỏ việc này với Trần Văn. Trần Văn ngẫm nghĩ hồi lâu, vỗ vai La:
- Được! Tôi vẽ được. Nhưng tôi muốn có một bức vẽ thật đúng bá nhà ta và bé Xim hôm bị bom ấy...
La chớp chớp mắt:
- Đừng, chú ạ. Chú cứ họa u cháu đi gánh nước vo, dắt bé Xim. A! Chú Văn này, cháu còn muốn chú Văn họa cho u cháu hay bé Xim cầm cờ đỏ sao vàng có được không? Ừ, mà cũng buồn cười đấy, ai đời đã đi gánh nước vo giấu tài liệu và dắt trẻ con mà lại cầm cờ nhỉ? Mật thám nó bắt ngay lập tức, đưa lên sở săng tan, chứ để yên sao?! Nhưng mà.. u cháu dắt bé Xim đi đón Việt Minh hay cùng đi đấu tranh với bà con với tự vệ, thì họa như thế cũng được nhỉ, chú Văn nhỉ.
Thế rồi, trong những phiên chợ quê, trong những buổi về Hải Phòng đi giữa những phố đông, hay trong những cuộc mít tinh, La lại cố tìm ra một bà người bé nhỏ với một bé gái tưởng tượng ra thành u với bé Xim và cầm cả cờ nữa...
"Tàu Phượng hoàng mà cướp xong thì La được xuống ở đây. Ngày xưa thày với u La chỉ ao ước để dành và vay mượn được món tiền vốn, thuê đóng một cái xe bán phở đầu đường Bờ sông, bắt chước kiểu tàu Long Môn của thầy La phụ bếp hay tàu Bắc Kinh to nhất chạy đường Hà Nội hồi bấy giờ, cho cả nhà quây quần mà làm ăn sinh sống. Nhưng... thầy La chết rồi, cả u La cũng chết rồi, mà chuyến này thì con đã được học nghề mạch lô, đốt lửa hẳn hoi, lại còn được là tự vệ, là du kích, là..."
Mấy con bồ câu biển lại chao qua mặt La, vút sáng trên sóng. Những quả núi mây trắng bồng bồng lở ra, tràn xuống chỏm đá và những ngọn cây lóa lóa ùa đến mặt La.
Nghĩa đã về, mặt mày đỏ bừng, mồ hôi nhễ nhại:
- Lạ quá! Lạ ghê lắm La ơi!
Mặt mày vốn nhăn nhó, da dẻ lại mốc mác, đầu tóc xờ xạc, Nghĩa cuống quít trông càng thương. La bèn lên giọng bình tĩnh, chín chắn:
- Gì thế? Cái gì thế?
- Lạ ghê lắm! Mày phải đi ngay với tao.
- Đi đâu? Tao đi... phải đi theo mày à? Mày lại lằng nhằng quá, Nghĩa ơi!
- Lạ ghê lắm! Đúng là nhà anh Lân rỗ, đi xuồng máy mày ạ. Con bà móm bán nước ngoài Sáu Kho, anh thằng Lý thằng Ly cùng học cậu giáo Thanh với chúng mình ngày trước ấy!
Câu nói hổn hển và rối rắm này càng làm thằng La bực mình. Nhưng sau một phút thoáng nghĩ, thằng La reo lên:
- Anh Lân rỗ, à? Anh Lân rỗ làm tàu, con người chồng trước của bà móm à! Giời ôi! Giời ôi! Anh Lân rỗ đi xuồng của hai thằng Tây tàu Phượng hoàng à? Hay mày hoáng?
- Có hoáng cái con cu tao đây này! Nghĩa văng hất cánh tay La đi, trở lại vẻ nghiêm trọng. Đúng là anh Lân rỗ, anh thằng Lý mắt ti hí gan lì, thằng Ly mắt lợn luộc chuyên sẻ mực trộm và đổi ngòi bút cũ của mình lấy ngòi bút mới của lớp:
- Giời ôi! Nghĩa ơi! Cái xuồng ấy đỗ ở đâu? Nó đi mua gì, làm gì?
- Nó không mua mà cũng chẳng thấy ai đón cả. Nó bơi vào hẻm núi. Một thằng Tây và anh Lân rỗ đi lên. Thằng trông như Tây lai ở lại coi xuồng. Anh Lân rỗ trèo lên một hốc đá, thằng Tây đi cùng tay lăm lăm súng lục, hai người chuyển dần ra... một con lợn chịt mõm đóng rọ này, anh Lân phải vác cật sức; một lồng gà này và một sọt các thứ rau cải xoong, cần, tỏi và cà chua...
La cau mày:
- Thế ở các bãi, các chân núi gần đấy có thuyền, có xiệng nào không?
- Có thì tao mù tao lòa hay sao mà không trông thấy!
- Thì tao cứ phải hỏi mày mà. Và cũng không có người nào lạ chứ?
- Làm gì còn có người nào ở đấy nữa! Tao thấy thằng Tây cầm súng và anh Lân rỗ đi lên núi, nhìn ngó chung quanh, rồi lại lách vào bụi cây chỗ hốc đá lấy ra các thứ ấy, tao cứ chờn chợn và thấy như là chuyện "Vừng ơi! Hãy mở cửa ra" ngày xưa tao với mày nghe ai kể đấy!
La mím mím môi:
- Thế chúng nó vẫn không biết mày đi theo chứ. Và mày không lên cái hốc ấy chứ!
- Tao có là giống bò đâu!
La càng phải dịu giọng:
- Vậy mày với tao lại phải đi theo xuồng chúng nó ngay thôi.
Nghĩa không đáp. La hồi hộp rồi rợn hẳn người, vì Nghĩa thần mặt ra:
- Xuồng nó đi lối khác mất rồi!
Nghĩa đã tưởng sẽ bị La tống cho ít nhất là một quả vào bụng, nhưng La chỉ kêu lên:
- Nó bơi lối khác à? Thôi được, thôi được! La ôm chầm lấy Nghĩa. Giời ôi! Sướng quá, sướng quá! Thôi mày chịu khó gác đây, để tao về báo tin với anh Cam.
- Đưa tự vệ ra đánh cướp tàu ngay à?
- Không phải thế đâu? Mày phải gác đây cẩn thận nhé. Sáng mai tao ra với mày. Chắc cả anh Cam cũng ra đấy! Mày mà để chúng nó biết hay ai biết mày gác tàu chúng nó thì... (La giơ quả đấm luồn từ dưới cằm Nghĩa lên) ông chỉ cho một cái này thì rụng hết cả cái nhai xương...
La lại ghì lấy cổ Nghĩa:
- Chắc chắn cướp được tàu Phượng hoàng mày ơi!...
- Ông đếch vào, ông cũng về với mày cơ. Khi đánh cướp tàu ông cũng phải được phát súng đi với tự vệ lên đánh nhau trên tàu...!
La lắc lắc vai Nghĩa:
- Giời ơi, Nghĩa!... kỷ luật đấy! Kỷ luật đấy! Mày ở lại gác chúng nó... Mai tao ra với mày.
⚝ ✽ ⚝
Thím Coóng lại nắm cả hai bàn tay Cam ấp ấp xoa xoa mà nói:
- Anh Cam à... à à thồồng chí Cam à, thồồng chí Cam lại tược về... tốt quá tốt quá!!!
Đôi mắt quầng sâu, gò má gồ hóp, da vừa cháy nắng vừa sạm vì than bụi và lửa của lò nung, tóc búi rụng gần hết, làm trán dô thêm, thím Coóng cười cười lại nhìn vào mắt Cam như nhìn một người ruột thịt. Không! Còn quý hơn cả người ruột thịt vì một tình nghĩa khác.
Khi vừa vượt Hỏa Lò ra, lần trước Cam cũng hẹn gặp thím Coóng ở nhà Ngọ. Thím Coóng vẫn làm ở nhà máy Xi măng, xúc bột và xe gạch với Ngọ. Chân chấm đầu của Cam, sau khi Cam bị bắt và xử án tám năm tù, thằng cháu người nhà cai Máy đá vào làm. Còn con trai lớn của thím Coóng thôi việc khuân vác ngoài bến Sáu Kho thì phải ở nhà, ăn nhờ mẹ, mãi sau mới xin được việc phụ bếp ở dưới tàu của chú Quay bố La làm ngày trước, thì năm trước năm sau tàu bị bom Mỹ, cả chú Quang và anh con lớn thím Coóng đều chết mất xác. Thành thử, thím Coóng lại một mình đi làm nuôi ông bố chồng và một đứa con gái nhỏ. Còn hai đứa con trai suýt soát tuổi Vy em cũng lại theo Vy em nay làm ở bến Đá sở Xi măng, mai ở nhà Máy gạch, Máy cống, kia ở tràn than, kho hàng bến tàu Quảng Đông, nhiều tuần hoàn toàn lại ăn ở nhà, chẳng có đồng tiền nào đỡ mẹ. Hồi kỳ cả bố Cam và bố Vy còn ở Xi măng thì thím Coóng là con gái. Hai người lại thân với chú Coóng, nên khi gặp Cam, thím Coóng đã chép chép miệng:
- Đồng chí Cam bị bắt, bị đánh, bị tù thì không chết! Mà thằng Cắm nhà tôi xuống tàu làm lại chết! Giá nó cũng ti (đi) như đồng chí Cam có hơn không.
Thím Coóng vừa nói vừa cười, làm Cam càng thấy thắt ruột thắt gan. Lần này thím Coóng lại nhìn Cam, cười. Cười thật vui mừng, cười thật sung sướng. Cam về nhà hẳn ban ngày. Cam không còn sợ ai bắt Cam nữa. Đảng cộng sản và các đoàn thể Việt Minh của bố Cam, của bố Vy, của vợ chồng Sấm, của cái anh học trò giỏi nhất Hải Phòng con ông thư ký đầu bàn giấy sở Đờvanhxy cùng bị bắt rồi chết ở sở mật thám kia, của thợ các nhà máy, của những người nghèo khổ, lầm than đói rách, của cả Hải Phòng này... đã công nhiên treo cờ, vẽ cờ, dán kẻ các khẩu hiệu, phát truyền đơn và họa cả các hình đấu tranh trên tường bóp bến tàu, đầu cầu xi măng, cầu Tam Bạc, ngay trước mặt nhà thím... Khắp nơi, đi đâu cũng nghe nói chuyện những người làm thợ, làm ruộng, chịu thương chịu khó, hiền lành ngay thật, công tâm công ích, không những chỉ sẽ có đủ công ăn việc làm, no ấm, rồi đây sẽ làm lấy cả các công việc nhà nước, không còn có toàn quyền, thống sứ, đốc lý Tây cai trị nữa, không có quan Nhật, lính Nhật tha hồ bắn giết, thu thóc, tích trữ gạo và in giấy bạc nữa. Nhà nước của mình, Nhà nước Việt Nam làm cách mạng đánh Tây đuổi Nhật lập nên.
Thím Coóng đã xếp gạch, đẩy goòng ở cùng nhà máy với những người cách mạng ấy, và ở cùng xóm, giáp vách chung sân với những người cách mạng ấy. Thím lại bị bắt bị đánh bị giam với những người cách mạng ấy. Cả con trai họ nhà chồng của thím cũng thế. Giờ đây cách mạng ngày thanh thế một to, một rộng, thì những người cách mạng lại càng thân thiết quý mến thím, khiến thím lại thêm...
- Giá thằng Cắm tôi nó cũng ti (đi) như đồng chí Cam có hơn không?
Ấp ấp, vuốt vuốt hai bàn tay Cam, thím Coóng không nhắc lại câu nói mấy tháng trước đây. Thím bồi hồi phấn chấn vô cùng vì lại có việc giúp Cam mà thím thấy rõ là làm cho Cách mạng, cũng như trước kia, thím không cần Cam phải nói ngọn ngành, phải căn dặn chi tiết công này việc khác với Vy nhớn với Ngọ, mà thím cũng cứ làm, từ tin tức báo cho nhau, hội họp giờ giấc, nơi hẹn chốn gặp nhau, đến cả tài liệu chuyển cho nhau, thím cũng nhận giúp...
- Thằng bố mày! Thằng bố mày Cam ạ! Thằng bố nhà mày Cam ạ!
Bà Ngọ cứ xỉa xói, day tay mắm miệng mà chửi Cam.
- Mày hẹn tao tuần trước, tao mua hẳn một giỏ cua về nấu riêu và mua bún về, tao chờ mày... Thằng bố mày, thằng bố nhà mày... không đến, để tao và cái Ngọ phải ăn trừ cơm cả ngày, no cứ binh bích cả bụng. Thằng bố mày, thằng bố nhà mày... Tao phải hỏi cái thằng bố anh em thằng Vy xem con với cháu gì mà như Cuội ấy, thì có nên đem mà...
- Thì bá đem mà bỏ tù con!
- Bỏ tù để mà phí cơm! Để chúng mày tha hồ đi hồng binh với nhau, rồi về làm loạn cả nhà máy, cả thành phố lên phải không?
- Thế thì... trôi sông vậy!
Bà Ngọ bậm miệng cười:
- Trôi sông cho mày ăn hết cá của sông à? Đến cá mắm thối mày ăn cũng còn không đủ nữa là...
- Nhưng con có hẹn gì với bá đâu! Con chỉ bảo nếu mà tuần này con về được thì bá cho con ăn bún riêu nhớ.
- Nhớ với nhé cái gì! Nếu với nung gì! Thằng bố nhà mày Cam ạ! Thế cái thằng Quất bố mày ngày bị bắt giam ở đề lao, nó có hẹn gì tao mà tao cũng vào nhép, đưa cả thư "bem"(1) cho nó. Rồi chuyến nó xuống tàu ra Côn Lôn, nó có hẹn gì tao mà tao cũng đâm xấp giập ngửa ra Sáu Kho với con mẹ mày tiễn chân nó. Hẹn gì, chẳng hẹn gì cả! Cứ đến chủ nhật hay ngày tuần thì phải về đây mà ăn... Không có thì bà...
-----
[1] Bí mật.
Bà Ngọ gí ngón tay như cái dùi đâm đâm vào trán Cam:
- Bà thì bà vạch vôi, cấm cửa! cấm cửa!
- Ối giời ơi, bà khổ thân khổ đời ơi! Bà làm gì lại nổi cơn nổi trận lên thế kia? Đây có là điện của cố bà Tây cậu hay mụ đội Nhị đâu, để bà lên giá Ngữ hổ? Á à... các bà các bác... với chúng mày này... mẹ con cái Ngọ nó đang hành cán bộ của ta đây này...
Đám người ùa vào nhà cười ré lên. Một hồi hai, rồi ba thanh niên ôm lấy Cam.
- Ai bảo mày không lấy cái Tuất, làm rể bà ấy hở Cam!
- Nó lấy cái Tuất về để làm chị nó à?!!
- Này thằng chồng cái Tuất nó cũng sắp đến đây nhé. Nó vừa cục lại chúa là ghen đấy. Nó chuyển sang làm máy đá rồi đấy.
Tiếng cười lại rúc rích, rầm rộ hơn cả nhà có cỗ có cưới.
- Đây có hai bao Bát tô mới đây, hút đi, hút đi...
Bà Ngọ với lên bà thờ, cầm hai bao thuốc lá ấn ấn vào đầu bọn trai gộc, bạn của cả Cam và Ngọ.
Một bà đã đứng tuổi, có con trai vừa được bố Vy và Sấm giới thiệu đi chiến khu, sốt ruột quá, kêu lên:
- Gớm chết! Cũng phải để mà nghe anh ấy còn nói chuyện chứ. Nào anh Cam, bà con nhà máy chúng tôi chỉ mong cán bộ của mình cho biết các tin tức mới, nhất là... là bao giờ... bao giờ thì...
Đúng là từ nãy đến giờ Cam lại chịu một sự bị động rất tất nhiên, rất thông thường mà Cam đã dè chừng với mình. Hẹn gặp thím Coóng là chính. Công việc bàn với thím Cóong là chính. Tối hôm kia La về vội, báo tin có anh Lý ở trên tàu Phượng hoàng và chỗ tàu nhận tiếp tế là hốc đá núi Thằn lằn, thì cả Cam và Vy nhớn đều mừng vì sẽ có một mối đắc lực như kế hoạch đã phác họa. - Đùng cái, trưa hôm qua, Vy em về báo tin gấp tàu đã đổi đi chỗ khác mà đi lúc sương mù gần sáng, không biết là đi đâu. Tổ Vy em, La, Nghĩa đã kiểm điểm rất gắt, La và Nghĩa xin chịu kỷ luật. Cam nghe báo cáo, thấy đầu óc như muốn nổ muốn cháy. Không phải Cam lo sợ vỡ kế hoạch. Không! Trừ phi con Phượng hoàng bay ra Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương hay về bên Tây, bên Mỹ, chứ còn phải lẩn lút ở ngoài biển Hải Phòng này và hóng cuộc đổ bộ của hải quân Anh Mỹ hay đế quốc Pháp lại nhảy vào thống trị Việt Nam, thì nhất định chúng sẽ chết. Nghĩa là nhất định bọn Cam sẽ tóm hết bọn chúng, cỡi lên Phượng hoàng đưa các súng đạn lương thực và hàng hóa, máy móc trong tàu rẽ sóng Nam Triệu cửa Cấm mà tham dự tổng khởi nghĩa, nổ súng kéo cờ nổi còi xông lên tiến công cùng với các nhà máy Xi măng - Sở dầu, bến Sáu Kho, và các xưởng thợ, bến bãi, đường phố xóm làng, phủ huyện, đồn trại... Nỗi lo sợ chính của Cam là: chậm. Chậm bước trong cách mạng, chậm bước trước giờ quyết định, chậm bước khi cần phải đấu tranh đổ máu...
Hôm nay đã mười một tháng Tám, hồng quân Nga đã tuyên chiến với Nhật ngót một tuần rồi! Chấn và bố Vy lại nhận được thêm báo cáo của vợ chồng Vin Hem - Dậu, đạo quân Quan Đông của Nhật đóng ở Mãn Châu đang vỡ. Trong khi ấy, lại có tin Nhật Hoàng rục rịch... đầu hàng.
Mọi người thoạt tiên càng lắng tai để nghe thật rõ thêm. Nhưng rồi mấy thanh niên chồm hẳn lên:
- Hồng quân Nga đã đánh tràn sang Mãn Châu rồi!
Bà có con trai lên chiến khu và bà Ngọ đều túm lấy
vai Cam:
- Nhật chịu thua rồi! Nhật cũng phải hàng rồi! Nó còn lỳ ở đây để giữ cái mả tổ gì của nó vậy?!!
Mỗi người thêm một câu:
- Nhật đánh rồi chiếm Mãn Châu từ những năm tôi đẻ thằng Tý hay cái Sửu cơ mà!
- Có đẻ cái Sửu ấy thì có... nghìn chín trăm ba mươi ba hay ba mươi tư, mà nay là Ất Dậu... bà Ngọ nhỉ.
- Sao bảo đạo quân Quan Đông những hơn một triệu binh tướng, đánh Đông dẹp Bắc, không đâu dám chống cự, cứ làm cỏ các nơi, lương thực súng đạn dư thừa, Nhật hoàng chưa thèm cho ra trận cơ mà!
- Thế thì Nhật hoàng đến đâm đầu xuống lỗ chồ mà
chết thôi!
- Bên Tây, ở Đức thì tiến đánh vào trước Bá Linh, tạt sang bên Đông thì đánh tan quân Nhật, sức đánh như vậy là lực bạt sơn hề khí cái thế như các cụ ta nói, hay nôm na là thế đánh như chẻ tre.
- Như vậy ta không chẻ băng đầu cái chính phủ bù nhìn đi, còn để đến bao giờ?
Cam vội hỏi Ngọ:
- Đội tự vệ xóm vẫn gác các đầu ngõ và đường ngoài bờ sông, ngoài đầu cầu đấy chứ?
- Ối dào, mật thám nào dám mò vào đây bây giờ để bị chịt cổ chết tươi à?
- Cả Nhật nữa vào cũng thịt ngay... Thôi cán bộ cứ lại tự nhiên cho nghe tin tức và phải phân tích kỹ nữa để bà con còn về nhà máy và trong xóm nói lại đấy.
Tuy đáp thế nhưng Ngọ cũng đảo vội ra mấy chỗ bố trí bí mật của tự vệ. Trở về, thấy mọi người lại ồn ồn, Ngọ
dằn dỗi:
- Cho tôi nghe lại mấy. Phải cho tôi nghe lại đấy. Tôi không bằng lòng thế đâu!
Bọn trai gộc và Ngọ còn nán lại trao đổi thêm với Cam về tình hình cả trong nhà máy và ngoài xóm thợ, ngoài phố. Họ lại đòi thêm báo Cứu quốc, Cờ giải phóng và đặt điều kiện phải tăng lên ít nhất mỗi kỳ một chục số, nếu yêu sách không được chấp nhận thì họ sẽ kiện lên tận Kỳ bộ, tận Trung ương, và họ đòi được huấn luyện quân sự nhiều hơn, đủ hết cả các môn chiến đấu, nhiều cả về số người tham dự, võ khí họ sẽ tự sắm, tự chế không những đủ cho mình mà còn có thể cấp cả cho những cơ sở khác.
- Thím Coóng ơi, thím nghĩ xem có nên đi cùng với chúng tôi không, vừa vất vả cho thím, vừa...
Bọn Ngọ đi khi, Cam vào công việc ngay. Thím Coóng liền lắc đầu vì đoán ngay được sự lo ngại của Cam:
- Tôi không xin nghỉ mấy buổi thì tuần sau cũng không có việc, tôi đi tầm thì cai nó cũng chẳng chấm công cho (thím Coóng nói dối Cam điều này). Tôi cũng phải nghỉ, đi đây đó cho đỡ buốt cái đầu. Nắng quá ra ngoài ấy man mát xem có bớt không. Mà anh Cam cùng tôi đi, nếu anh Cam không gặp thằng em tôi, thì tôi sẽ dò hỏi, rồi dắt anh Cam đi tìm tàu. Ngày còn bé rồi lớn lên tôi đi thuyền với người anh bố tôi mấy năm, khắp các đảo này tôi đã thuộc hết các lối đây, Thôi, chúng mình ra thuyền ngay thôi!...
Thím Coóng còn cho Cam biết vẫn nhớ như in các luồng vào những hang nào, hòn nào, hẽm nào hóc hiểm, chỗ ẩn náu lui tới nào của các bọn buôn lậu như buôn thuốc phiện, buôn súng, buôn người. Thím có thể nhờ các bà con thân thiết tin cẩn bắt các mối manh đặc biệt như là đưa người đi ra nước ngoài như hồi kỳ Đông Du các cụ ta nhờ cậy gởi gắm qua đây. Thím lại còn tự tay chở được thuyền. Nếu cần, thím sẽ mượn hẳn thuyền đưa Cam và các đồng chí đi truy tìm tàu Phượng hoàng hàng tháng mà không để phải lo ngại vì sóng gió, gạo nước nhất là lộ liễu.
Cam nghĩ nếu đưa tiền cho thím Coóng để lại nhà đong gạo, thì làm tủi thím vô cùng, mà cũng chẳng đời nào thím chịu nhận. Vậy Cam chỉ nên nói một cách khéo với bà Ngọ, nhờ bà chăm lo công việc cho vừa chu đáo vừa rất tự nhiên.
Chao ôi! Sao trong phong trào cứ luôn luôn có những người giúp đỡ tận tình như thế này? Sao cứ đến lúc khó khăn gian lao và nguy hiểm nữa, thì lại được những người rất mực hiền lành, ít nói và không cần biết tính toán riêng tây gì kia, ghé vai gánh vác. Hơn nữa, làm chuyển hẳn tình thế.
Ngửi thấy mùi khói than, khói dầu và hơi nước tanh từ trong nhà máy tạt ra, Cam biết ngay đang gió to. Dặn dò bà Ngọ xong, Cam đưa thím Coóng đi lối tắt ra bến. Trời càng nắng. Những tầng máy và ống khói lò nung bụi bám dày hàng tấc như có lửa dội. Các khối hình gân guốc, lởm chởm, lớp này dội lên lớp khác. Cam lại phải trông lên cái nóc cao nhất giữa khu máy đá của bố con Vy nhớn, Vy em làm và khu Lò nung bố con Cam, Sấm và thím Coóng làm. Phải, cứ mỗi lần trông lên hay nhớ đến cái chỗ đội xích vệ nhà máy Xi măng đã treo cờ kỷ niệm cách mạng tháng Mười Nga năm xưa ấy, Cam lại thấy ngày cách mạng thành công của ta càng đến gần thêm, và Cam lại được về sống ở đây để làm việc gấp ba, gấp bốn, gấp trăm lần, hay phải hy sinh chăng nữa, Cam cũng chưa thật xứng đáng.
⚝ ✽ ⚝
Vin Hem lại thấy Dậu tìm cái làn to để đi chợ và khi mở tủ lấy tiền thì nhặt tất cả su hào trong cái hộp mây. Vin Hem đã toan không nói, nhưng cho rằng mình như thế là nhẫn tâm, bèn gọi:
- Dậu ơi! Lại đây với tôi.
Dậu biết lại có chuyện, nguây nguẩy làm bộ phật ý:
- Vin Hem cứ làm việc đi.
Tuy vậy Dậu vẫn đến bên bàn Vin Hem, ngồi xuống đùi anh:
- Vin Hem đã giao ước với tôi, có một số việc riêng của nhau, không ai được can thiệp với ai cơ mà.
- Nhưng đây là việc chung, Dậu yêu quý của tôi phải để tôi có ý kiến chớ.
Dậu lại nguây nguẩy, không ôm lấy vai Vin Hem nữa, quay ghé người đi:
- Đấy thì cứ việc có ý kiến.
Vin Hem kéo cánh tay và cả vai Dậu xoay lại:
- Dậu thương yêu của tôi, Dậu đừng chiều tôi quá, nhất là không nên coi tôi là một thằng phàm ăn, chỉ thích có miếng ăn.
Dậu tát khẽ vào má Vin Hem, giơ một ngón tay lên, trừng mắt.
- Thôi đấy nhé! Phải thôi ngay.
Rồi Dậu ôm lấy cổ Vin Hem, hôn và xoa xoa, vò vò đầu như xoa xoa vò vò con bé của mình ấy, đoạn đứng lên ra cửa gọi mẹ Nghĩa rằng:
- Bá ơi! Bá đưa cái rổ to ấy đi nhớ. Giời, còn đem vỉ buồm với bát ôtô và chai lọ kia đi làm gì?
Mẹ Nghĩa dau dảu:
- Thế rồi phải mua những lạp chí chương (2)củ kiệu, giấm thì đựng bằng tay à. Nghĩa rằng thì là...
-----
[2] Tương ớt.
Hai người líu ríu ra đi. Trong lòng Dậu vẫn còn ái ngại Vin Hem lúc nào cũng tỏ ý lo Dậu túng thiếu. Càng gần đây, mỗi khi đi chợ hay đi phố về, Vin Hem lại lắc đầu thấy Dậu bày la liệt các thức ăn và rau quả mà nói:
- Tôi không bằng lòng đâu! Tôi sẽ đình công với bà chủ tôi. Bà chủ tôi sẽ đóng cửa nhà máy, vỡ nợ vì tôi. Dậu lại càng làm bộ khó chịu, lặng thinh xuống bếp:
- "Nó cặm cụi cả ngày cả đêm thế kia, có là giống chó thì mới không nghĩ đến. Nó không cha không mẹ, lấy mình, tằn tiện chịu thương chịu khó cũng như người mình, mình mà ăn ở nhọ nhem như những con nào kia, để nó coi thường mình à? Với lại...
Điều này làm Dậu nghẹn nghẹn cả tâm tư:
- Nó không phải là Tây đế quốc, nó là người của mình, mình cần cái gì, giao việc gì nó đều hết lòng hết sức.
Còn Vin Hem thì càng thêm suy nghĩ. Đôi hoa tai vàng đã bán hồi cuối năm ngoái. Ừ thì vì Dậu vô ý để hoa bị bẹp, vỡ cả mặt ngọc, Dậu sẽ đánh đôi khác. Nhật đảo chính Pháp chưa được đầy tháng, Dậu bán cái lập lắc. Vẫn cứ phải nhận việc này đi. Dậu đong gạo và gửi tiền về quê, dạo có bà cô bá dì và mấy chị em chạy đói ra chơi. Tháng trước đây, Dậu bán sợi dây chuyền vàng thật thay bằng sợi dây bạch kim giả với quả tim vàng tây. Không khéo cứ cái đà này, còn chiếc nhẫn, Dậu cũng sẽ giả lại hiệu mất!
Chiều thứ bảy, ngày chủ nhật, những bữa ăn đặc biệt vẫn giữ đều. Đã thế, Dậu lại càng hay mời khách. Dậu bảo với Vin Hem hôm thì Dậu cúng, hôm thì Dậu giỗ. Và hôm nay Dậu đi sắm lễ làm giỗ bà dì nuôi Dậu bồ côi cha đây.
Ở tủ buýp phê, ngăn trên cùng, Dậu bày ban thờ có tấm ảnh bà dì lồng trong cái khung sơn son thếp vàng. Người trong họ đều nói, từ khuôn mặt, đôi mắt, cái mũi, cái miệng, cái tai cho đến đầu ngôi và khăn vấn, mẹ Dậu thế nào thì bà in như thế. Ngày còn làm gái bao của chủ Đờvanhxy, có lần Dậu đã treo ảnh ở mé bàn đánh phấn của mình. Nhưng thấy Đờvanhxy có vẻ không thích, Dậu phải cất đi. Hình như Đờvanhxy khinh ghét và cả hằn thù nữa tất cả những gì là người ta. Càng những người và những gì có vẻ là quê kệch, y càng như không dám nhìn tới, động tới.
Như thế thì làm gì mà thằng La chả đốt nhà thằng tây nọ và bế cái em nó đi?!!
Vin Hem lại quay vào bàn đồ đầy các thứ kìm, giũa, cưa, kéo, đục, tuốc-nơ-vít, dây điện và đồng, thép, nhôm. Vin Hem đang chữa khẩu súng lục của Trần Văn đưa thêm. Khẩu này bị gỉ ăn gãy một bánh xe, Vin Hem phải thay hẳn, và phải làm hoàn toàn một bánh khác.
Dậu đã về với bọn bốn bà con trên Bắc xuống. Mẹ Nghĩa và hai bà xúm lại làm cơm với Dậu. Còn một bà và mấy đứa bé ra phố chơi. Mười một giờ hơn, Dậu lên nhà thu xếp lại lần nữa bàn ghế và lau dọn thêm tủ buýp phê và bàn thờ. Hôm nay lại muộn. Mâm cơm cũng bày lên trước. Con gà trống béo vàng, mỏ ngậm một bông hoa hồng nằm trong đĩa to ở giữa hai đĩa xôi gấc, bốn bát đồ nấu, bốn đĩa đồ xào. Cái đĩa chén hoa, trầu cau, chè đường, nước mưa và rượu trắng giăng ra trước mặt.
Tiếng ồn ào không chỉ ở dưới bếp, mà cả trên nhà và ngoài sân. Bà cụ Xim, chị em Lê đã đến. Rồi Dâng, Ngọt và lũ con của Ngọt. Khách đàn ông chỉ có mỗi một người: cậu Khòa. Cậu Khòa bế thằng cu nhà Dâng, đội khăn xếp, mặc áo the thâm, quần là, đi đất. Dậu giới thiệu với Vin Hem, nhận toàn là bá, là dì, là chị, là em, là cậu của mình.
- Thôi... thôi... Vin Hem ơi, Vin Hem đi thay quần áo, mặc bộ đồ trắng ấy rồi còn vào lễ dì với tôi... Kìa thôi, chốc nữa sắp xếp cũng được mà. Để mời các cụ lên giường, vào bàn thôi. Ấy đừng! Đừng mà, ai lại trải chiếu xuống sàn nhà thế kia. Bá Nghĩa ơi, cứ ghép thêm hai bàn con lại để các cụ ngồi cho vui.
Đang cắt đặt công việc, nghe tiếng mẹ Nghĩa cuống lên chào Xim, Dậu bổ ra cửa. Xim mặc áo lụa màu mận chín, vấn khăn sa tanh, đeo kính râm, xách cái làn mây nhỏ chạy lên nắm lấy tay Dậu, Dậu ôm lấy Xim:
- Dì lại cho cháu quà gì đây?
Chưa lên khỏi bực thềm, Dậu đã gọi Vin Hem. Khi Vin Hem xốc xốc lại áo đứng lên đón Xim, thì Dậu vẫn ấp cánh tay Xim, hớn hở bảo Vin Hem:
- Bà này cũng là em mẹ tôi đấy! Vin Hem chào dì đi.
Xim trân trọng chào lại Vin Hem. Đưa mắt nhìn thấy ban thờ hương hoa sực nức, Xim cười, hỏi Dậu:
- Hôm nay giỗ bà nhà trên Bắc, mãi sáng tôi mới biết chẳng kịp sắm đồ lễ gì cả.
Dậu liền tự nhủ:
- Không hôm nay còn là ăn mừng ta nữa. Vin Hem nó lại khoe với tôi về những tin tức của Hồng quân Nga và cả tin tức trên Hà Nội nữa đấy! Trong cái làn của chị Minh Hiền kia thế nào chả có đồ lễ mà phải là đồ lễ ấy mới quý giá chứ.
Dậu nắm tay Xim, kéo ngồi xuống phản với bà cụ Xim:
- Bà ơi! Bà phải giữ dì cháu ở lại một tuần với cháu nhé.
⚝ ✽ ⚝
Nghe tiếng biển trong khuya, Lân càng thấy như là tiếng người. Nhưng tiếng người ấy vẫn cứ thăm thẳm không chịu hiện rõ, không chịu đến thật hẳn với Lân. Lân không có đồng hồ. Trời lại thưa sao, nhiều lúc mù mịt hẳn. Thời cơ lợi quá rồi. Lân biết bây giờ còn sớm vậy mà Lân cứ mong, cứ sợ.
Cả La và Lý đã gặp Lân. Hai anh em Lân cứ ngồi ôm lấy mặt, gục xuống gối mà khóc! Mẹ chết rồi, em cũng chết rồi. Vợ con Lân đưa nhau về quê vẫn bặt tăm. Giời ơi! Nếu không có cách mạng thì anh em làm sao mà lại còn gặp nhau. Lý thì nhiều lúc đã nghĩ đến chuyện ra lính, đi phu mộ Tân thế giới, cao su đất đỏ, để lấy một món tiền ăn chơi cho đã trong năm bảy ngày, hoặc mở mấy tiếng xóc đĩa, nếu được thì càng tốt, không thì sẽ tự tử.
Không! Không! Lý chưa nên vội như thế. Lý cứ xuống tàu đã, tới nơi ấy, Lý sẽ lừa xu ba dăng, cai sếp hay đốc công một mẻ, lại ăn tiêu cho đã rồi hãy chết. Còn Lân, chuyến này nếu không thoát được lên bờ, cứ phải làm việc như tù như mọi ở dưới tàu, mà chịu ngày lại ngày một cực hình tùng xẻo là nhớ vợ con, nhớ mẹ, thì Lân sẽ cướp súng, đổ ét xăng đốt tàu và bắn chết được thằng tây nào sướng thằng tây ấy, rồi nhảy xuống biển muốn ra sao thì ra. Còn như cứ phải ở với chúng nó, theo chúng nó sang Tàu hay về Pháp, thì Lân coi như là mình bị đi đày vậy.
La không dám đứng lâu trong cảnh nọ, vừa phần Cam đang chờ trông kia. La lay lay vai Lân, nghẹn ngào dặn lại Lân các việc, rồi kéo kéo cánh tay Lý để cùng nhau trở về bờ.
Tối tối Lân vẫn bị xích ở gần chỗ thằng gác. Một người ta nữa thì bị nhốt khóa trái cửa cạnh buồng máy. Lừa được phiên thằng gác uống rượu say, La và Lý đã lên tàu với Lân. Chỉ hơn tiếng đồng hồ thôi sao mà đâu mà nhiều chuyện nhiều việc như hàng tuần hàng tháng vậy? Kế hoạch nhất nhất việc gì, Lân cũng cam đoan làm được cùng với người mạch nô bạn. Lân đã góp thêm nhiều ý kiến. Còn tình hình trên tàu thì Lân kể rõ từng việc từng thằng còn hơn cả Lý khi báo cáo về đồn Cao.
Thằng mại bản quyền chủ tàu thì khi không uống rượu cũng gần như trâu điên. Người lái tàu và coi buồng máy nhát còn hơn cáy. Ba thằng mạch nô mũi lõ hoàn toàn là một thứ lưu manh, chỉ tính đến chuyện khi Anh Mỹ đổ bộ hay Pháp lại được làm chúa đất Đông Dương thì phải sang ngay Hương Cảng, Thượng Hải hay Xanhgapo uống rượu, chơi đĩ hẳn một tháng bằng tiền những kiện hàng quý nhất... vô thừa nhận. Có một mạch nó không ăn ý với bọn này vì anh đông con, vợ rất hiền lành, chịu khó. Hơn hai năm nay, tiền anh gửi về Pháp rất thất thường, nhưng mỗi khi nhận được thư qua đường Ấn Độ, anh vẫn không thấy vợ than thở túng thiếu gì cả, trái lại đều tả cảnh nhà con cái vẫn khỏe mạnh, ăn học tử tế, và chị càng nhớ anh vô cùng...
Ba thằng lính trốn, gặp được tàu, có một người còn trẻ làm lính nhà thuốc khá tốt, chưa có vợ, y nhất định khi về Tây sẽ viết báo vạch mặt tất cả bọn quan lại và chủ các sở mỏ Pháp hèn hạ, đểu cáng không thể tưởng tượng được ở Đông Dương. Còn hai người kia rất sợ chết. Một người mới cưới vợ. Một người bố mở tiệm cà phê ở Mạc xây. Lúc nào cũng kể cho chung quanh nghe chuyện cái nhà nhỏ ở ngoại ô của mình với món tiền của bố mẹ mình gởi ở nhà băng có thể nuôi sống một gia đình vợ chồng con cháu năm người không phải làm gì ít nhất là trong bốn, năm năm. Điều mong mỏi bồn chồn gần nhất của hai người này là đồng minh mà thắng thì họ xin ngay đi Thượng Hải đáp máy bay về ngay nhà.
Tất cả đều có súng trường, không kể hai khẩu súng lục của tên mại bản và người coi buồng máy. Thêm một khẩu liên thanh, tên mại bản và ba thằng tay chân chuyên nhau canh giữ. Hàng hóa toàn đồ thuốc len dạ và có thể là tiền Hồng Kông và vàng.
- Thế ra thanh thế cách mạng đã lên như thế rồi. Cả bốn tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang đều thành lập Ủy ban giải phóng đến tận các làng. Liền ngay Hải Phòng thì từ Quảng Yên lên Đông Triều lên Hải Dương đều có chiến khu. Chiến khu ở ngay Hải Phong An Sơn cách tỉnh Kiến An và Hải Phòng không đầy mười lăm hai mươi cây số. Nhà máy nào, khu xóm nào, đường phố nào cũng có cơ sở Việt Minh. Lại tổ chức cả những đội tự vệ luyện tập quân sự ngày đêm, chỉ chờ lệnh là tổng khởi nghĩa. La và Nghĩa đều là Việt Minh, là tự vệ, là tuyên truyền võ trang, đã đi cướp kho thóc, cướp đồn... Cậu giáo Thanh thì đưa Lý trở về... Lý cũng vào tự vệ làm cơ ở ở Hải Phòng. Có phải thế này là đang đổi đời... và nếu cách mạng thành công thì đổi hẳn đời không?
Những đám mây mù mịt bỗng ùn ùn che kín hết cả tàu. Gió tung sóng lên. Thân tàu rùng rình, chồm chồm như sắp bặt cả neo. Lân chỉ muốn đập vụn ngay cái khóa xích ở chân mình để đứng hẳn dậy mà ra mạn tàu xem sau lùm sương mù kia, cán bộ và các anh em đã đến chưa. Cái khóa Lân đã có chìa giấu sẵn, nhưng Lân không muốn mở bằng cách thông thường, mà phải ghè nát như thế mới hả. Và chỉ nghĩ đến lúc đó thôi, Lân đã phải nghiến răng kin kít, vặn mình chào chạo.
Tên gác ở trên mũi tàu đã tựa hẳn vào cột và chống khẩu súng xuống sàn mà ngủ gà ngủ vịt. Nó là thằng lưu manh nhất trong ba thằng tay chân của mại bản tàu. Nếu như tiếng "chép chép" bắt chước tiếng cá khuya chỉ mới dứt, động hiệu, La và Lý sẽ chạy tới, thì Lân sẽ vùng đến chịt ngay cổ nó, còn La và Lý thì cho nó ăn hai nhát búa nếu nó kháng cự. À! Mỗi khi nó chở xuồng đi lấy gà lấy rau lấy cá về tàu, Lân đều ân hận sao không phang ngay cho nó một đòn gánh vào gáy vào thóp, cướp lấy súng mà bơi xuồng đi. Chỉ vì nghĩ xa nghĩ kỹ nên Lân lại phải nuốt giận như nuốt than lửa, nuốt tro xỉ vậy.
Đối với thằng trâu điên chúa tàu mà Lân phải phục dịch hơn ba năm nay, Lân cũng phải dằn lòng như thế.
Gió bỗng như thét lên. Sóng cuộn sương mù rầm rập chồm lên tàu. Chép chép chép. Đúng ba tiếng ám hiệu. Lân bật khóa, nhẩy tới đè bóp chặt lấy cổ thằng gác. La và Lý ấn nghiến cả hai khăn mùi soa vào miệng nó, trói quặt cánh khuỷu nó vào cột tàu. Lân giơ cái búa gõ gõ lên đầu nó, bảo đáng lẽ thì nó phải hóa kiếp, nhưng vì chính sách cách mạng nên tha chết cho nó. Ở dưới buồng máy, người bạn Lân được mở cửa thả ngay, cùng Cam, Vy nhớn và hai tự vệ đến ngay buồng mại bản và lái tàu.
Cả thằng trâu điên mại bản, lái tàu, đốt lửa, mạch nô và ba tên lính khi choàng dậy đều tối tăm mặt mày, lạnh toát cả người vì thấy những mũi mã tấu và súng không hiểu từ bao giờ đã chực ở trên đầu, bên sườn và hai bên người mình. Hơn chục anh em của Cam và Vy nhớn cùng Lân và người mạch nô ta đều thu gọn tất cả súng của bọn trên tàu và dàn ra trấn từ buồng lái, mũi tàu và mấy cửa chính để hộ vệ cho những anh em dưới hai thuyền đinh đổ lên chuyển các hàng hóa, đạn dược.
Sáng rồi. Cả vùng sương mù rực lên, nghi ngút. Mặt trời càng lên cao, những khối núi, những bãi cát và tầng không càng như bốc thành lửa thành khói hết. Nhiều phút, từng khoảng từng khoảng trời mây và mặt biển vụt hiện ra, chói lòa với hai mũi thuyền sáng rực, anh em chèo lái và tự vệ đi lại vùn vụt.
Ở hai khoang cuối có chiếu trải hẳn hoi, Cam xếp bọn trên tàu ngồi riêng ra, có một bọn không bị trói. Đứng ở đằng mũi chiếc thuyền to, đặt khẩu súng máy La và Lý trấn giữ, Cam cứ phải luôn luôn vẫy vẫy và bắc loa tay gọi Vy nhớn ở trên tàu, nhắc Vy nhớn phải trông coi cẩn thận các hàng hóa chuyển xuống. Còn Vy nhớn thì một nửa tâm trí càng rộn rực vì mình phải ở lại tàu với Nghĩa và một số anh em để chờ lệnh tổng khởi nghĩa. Vy nhớn đi đi lại lại trên boong, chân cứ như người đá bóng sắp đến phút dàn quân hay như người chạy thi chờ còi trước vạch vôi và băng dây mở cuộc...