← Quay lại trang sách

Sức Sống Của Ngòi Bút NHỮNG TÁC PHẨM KỲ DIỆU ẤY ĐÃ ĐẾN VỚI TÔI

Trước khi những tác phẩm văn học Nga và Xô viết đến với tôi, thì tôi được xem hai phim Tarát Bunba (1)và Tội ác và trừng phạt (2)của hãng phim Pháp chiếu ở Hải Phòng. Vào khoảng mùa rét năm 1935. Mùa rét năm ấy tôi bắt đầu viết văn. Tôi viết được một tập truyện ngắn, có mấy truyện được đăng báo, tên tập truyện tôi quên mất rồi! Hình như là "Những người đau khổ" hay "Những cảnh cùng khổ" gì đó. Sở dĩ tôi quên cả tên đứa con đầu lòng của mình, chỉ vì khi viết xong, một sự thực cứ dần dần hiện rõ ở trước mặt tôi. Tôi thấy tôi có may mắn lắm thì chỉ một vài truyện được đăng báo là cùng, chứ in thành tập đem trưng bày bán ở các hiệu sách là cả một hy vọng mịt mù, một nhén lửa tắt ngay sau khi hé sáng. Ngày ấy, nhà xuất bản rất ít và rất ngại truyện ngắn. Còn tôi, chỉ là một thằng học trò mới ra khỏi nhà trường, một tên tuổi không có hình vóc tiếng tăm gì cả! Một sự thực nữa cũng dần dần mở ra ở trước mặt tôi. Đó là những cảnh khó khăn cùng kiệt của một đời sống nghèo đói giữa những thành phố xa lạ, một đời sống mà sự khắc nghiệt của nó tôi càng thấy thật là cắt vào da vào thịt mình, thật là đè sập xuống đầu mình, cũng như đã cắt, đã đè lên bao nhiêu xương thịt của những con người ngoi ngóp, tan nát ở chung quanh tôi.

-----

[1] Truyện của Gôgôn.

[2] Truyện của Đốxtôiepxki.

Tôi cũng không thể nhớ rõ bằng cách gì tôi đã được đi xem hai phim kia. Hình như đó lại là tiền của mẹ tôi mỗi ngày chạy chợ về cho tôi để hôm sau tôi ăn bún, ăn khoai thay bữa cơm trưa mà tôi đã nhịn ăn để mua vé. Hình như đó là tiền tôi để ra sau những tuần lễ dạy học thay cho người anh cùng mẹ khác cha với tôi, ông ta mở một trường tư trong cái ngõ gọi là ngõ Cố đạo. Hình như đó lại là tiền của người con gái lớn của bác tôi kia, chị ấy đã giấu cho tôi vì thấy tôi có lần dạy học chỉ được ăn cơm và tiền cắt tóc, còn tiền xà phòng giặt cũng không có!

Phải, Tarát Bunba và Tội ác và trừng phạt đã đến với tôi vào khoảng mùa rét. Cũng mùa rét năm ấy tôi bắt đầu viết Bỉ vỏ, tiểu thuyết đầu tay của tôi. Tôi cũng không thể nhớ rõ tới những chương nào hay xong được bao nhiêu trang bản thảo Bỉ vỏ thì tôi đi xem hai phim kia. Nhưng, những ấn tượng của nó để lại trong tâm trí tôi, và những cảm giác đã rung chuyển tôi đến ngày nay, vẫn rõ, vẫn sắc vô cùng... Đó là tình thương mênh mông đối với con người. Đó là sự đau đớn và tinh thần bất khuất của con người xoắn lấy những tâm trí nào còn thao thức, bắt những tâm trí ấy phải nghĩ ngợi, phải tìm hiểu về những khổ não tan vỡ của những cuộc đời, về những kiếp sống, về những cảnh ngộ của con người.

Những quằn quại của Rátkônikốp (Raskolnikov) nhân vật phạm tội trong Tội ác và trừng phạt, những cảnh tàn khốc, đau xót trong Tarát Bunba và tâm hồn anh dũng quật cường của Tarát Bunba, thỉnh thoảng lại như giội lửa lên trong tâm trí tôi những khi tôi ngồi một mình trước bàn viết hay đi đường một mình. Giội lửa và làm tôi thấy tôi không thể một phút xa rời cuộc sống, không thể xa rời và tìm được nguồn hy vọng nào khác ở ngay trong đời sống.

A! Đời sống chung quanh tôi! Con đường hằng ngày tôi ra đi lang thang cho nhẹ đầu óc, cho khuây những buồn rầu! Trên con đường này tôi phải qua một cái chợ gọi là chợ Vườn - hoa đưa người. Cả khu vườn hoa ấy, một đám cỏ tươi cũng không có. Còn hoa thì ở trên mấy cây không có tên mà người ta rất sợ khi nó có hoa vì mùi hoa ngai ngái, hôi, hắc, hễ phấn hoa bay vào tai có thể làm tai điếc. Trong vườn hoa chỉ có những cây cọ, cây núc nác tây gai góc. Dưới những gốc cây đó, tụ tập từng đám từng đám ăn mày trẻ con đàn bà, những người nhà quê tha hương cầu thực, những người con gái mười ba mười bốn tuổi bị dỗ đi làm con sen con nhài, làm cô đầu chanh cốm và bán đi làm nô tì ở các tỉnh biên giới. Và từng đám đĩ. Những đĩ thường thường đã có tuổi, ốm yếu, ở các nhà thổ, nhà chứa lậu thải ra, những đĩ cũng có kẻ chỉ mới mười bốn, mười lăm tuổi mà bệnh đầy người, cứ chập tối là ở các bụi cọ nhô ra the thé gọi khách vào. Giá tiền mãi dâm chỉ vừa đủ một bát phở, một bữa cơm ăn các thứ thừa của trại lính Tây. Chỗ mãi dâm kín đáo, sạch sẽ nhất là những ngõ nhà xí bên đường, dưới những tầng lầu khách sạn thâu đêm sáng đèn, inh ỏi tiếng bài sừng, đàn tam thập lục và tiếng cười, tiếng hát.

Tiếp vườn hoa này là con sông cụt. Hai bên rệ sông quanh năm ngập rác. Nhà trên sông là những chiếc thuyền gỗ nát, kê trên những cọc gỗ, sắt tà vẹt, xà gồ cũ, hay là những mái lợp bằng mảnh thùng hắc ín, bao tải, chiếu, giấy dầu. Phu phen, thuyền thợ, buôn thúng bán bưng chui rúc ở dưới những cái mái nọ. Còn có cả tiệm hút, sòng bạc và nhà chứa nữa!... Bờ sông cũng đầy những ăn mày, đàn ông đàn bà thất nghiệp nằm ngồi ngổn ngang trước các lán củi, lán gạch, lán than, hàng cơm, hàng quà. Lúc mặt trời mọc, dòng sông hửng sáng, thuyền đò xào xạc, khói bếp nhen lên, là lúc cửa nhà đề lao ở bên sông mở cổng. Từng dây nhà pha lếch thếch ra đi làm cỏ vê. Tiếng gáo dừa, ống bơ loảng xoảng,... tiếng ho,... tiếng rên. Những chân bước như kéo xiềng. Những mặt mày bủng beo ngờ ngạc.

Cùng lúc mặt trời hừng lên trên dòng sông ấy là lúc than khói ở những nhà máy phía bên kia sông tỏa ra. Những lò, những ống khói, những tầng máy chập chùng vây đè lấy người ta. Chung quanh đây là những xóm thợ ngoi ngóp trong than, trong bụi, trên những bãi rác, xỉ than và ao đầm. Xa xa là những làng mạc, những bờ bãi đồng lầy chua mặn, dân sống bằng móc cua móc cáy, xờ xạc, xiêu tán, heo hút...

Trước tác phẩm "Viên thanh tra" của văn hào Gôgôn, thi hào Puskin đã phải cất tiếng kêu, một tiếng kêu từ đêm sâu lạnh thẳm của mặt đất xé lên:

- Giời ơi! Nước Nga của chúng ta sao mà buồn thảm?

Trên cái mặt đất cách đây hơn hai mươi năm tôi đã sống, trên những quãng đường hàng ngày tôi đã ra đi lang thang và giữa những cảnh vật tôi đã về ngồi viết những tập sách trứng nước của tôi, tôi cũng đã không thể không kêu lên:

- Giời ơi! Cuộc sống sao mà nhiều buồn thảm đau xót! Làm sao tôi đủ tâm hồn mà ôm lấy cuộc sống này? Mà viết nổi lên cuộc sống này!

Tarát Bunba cùng với Tội ác và trừng phạt với Rátkônnikốp đã thêm là một sự kích thích cho tôi, thêm là những ám ảnh da diết của tôi, thôi thúc tôi phải viết về những con người đã chịu bao nhiêu nỗi đau xót thảm khốc, những con người đã cố vượt lên trên mặt đất tàn ác này, những con người không chịu những sự hèn hạ lăng nhục, những con người bất khuất...

⚝ ✽ ⚝

1937

Cũng trên cái mặt đất và những cảnh vật ấy, phong trào Mặt trận dân chủ ở Đông Dương, với những cuộc đấu tranh sôi nổi rộng lớn của quảng đại quần chúng, đã dần dần mở ra một bầu trời lồng lộng tươi sáng. Dưới bầu trời đó, tôi đã tìm đến Lêông Tônxtôi và Mácxim Gorki. Cuốn sách đầu tiên tôi được cầm lâu dài trong tay, thức say sưa với nó là cuốn " Sống lại" (Résurrection) của Lêông Tônxtôi. Rồi tôi tìm được đến Gorki. Tôi đọc Những vagabông, Kỷ niệm thời thơ ấu và Người mẹ của Gorki.

Qua từng trang từng trang trong cuốn Sống lại của Tônxtôi mà tôi được đọc lần đầu tiên nọ, tôi thấy cứ dần dần một trái tim mênh mông ôm lấy tôi, đồng thời với cảm tưởng này, tâm hồn và trái tim tôi cũng thấy dần lớn lên ôm lấy con người. Sự suy nghĩ của tôi bị xoắn lại với cuộc đời của Mátlôva, người con gái nô tỳ trong truyện, bị tàn phá tan nát và cuối cùng đã vươn lên trong ánh sáng của cách mạng. Một luồng ánh sáng đặc biệt rải ra, soi lên như chưa bao giờ tôi từng thấy một chế độ tội ác với những cảnh sống giàu sang quyền quý mà một bọn người lười biếng thối tha đã gây nên bao nhiêu tội lỗi, phá hoại tàn bạo. Cũng những cảnh nhà tù và đi đày, nhưng với những chiến sĩ cách mạng và do ngòi bút Lêông Tônxtôi diễn tả, sao mà vẫn thấy vằng vặc một cái gì cao quý, một cái gì trong suốt vô cùng của những con người thật là con người. Qua bao nhiêu năm, cho đến bây giờ, nhắc đến Tônxtôi dù chỉ trong một truyện ngắn mấy trang in, tôi vẫn giữ nguyên cái cảm giác có một thác ánh sáng và gió mát từ đỉnh núi trắng xóa giội xuống người tôi, ùa vào tâm hồn tôi, cuốn gội đi những bụi gai vướng víu, và chắp cho cánh bay lên.

Đến với Gorki tôi đã ngạc nhiên và thật là thấm thía khi đọc Những vagabông và Kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi ngạc nhiên vì thấy cái xã hội và những con người trong tác phẩm đây sao mà gần gụi với tôi. Chừng như cái xã hội dưới thời Nga hoàng cũng có một phần cái xã hội dưới chế độ đế quốc Pháp tôi đương sống vậy. Tôi thấm thía vì thấy tất cả những con người cùng khổ, vất vưởng, bị bao nhiêu hủy hoạt về xác thịt cũng như về tinh thần ấy, thảy đều giữ được sâu xa trong tình cảm, trong tâm hồn họ một phần như là ánh sáng nó vẫn cứ cháy, cứ ngời lên giữa những gió bão than gio vùi dập của cuộc đời. Tất cả những con người bị coi là cặn bã ấy đều không ít trau chuốt cho sự sống những tình cảm sâu xa tươi thắm mà các bọn người trong giai cấp bóc lột không thể nào có được, không thể nào xử sự được. Và, từ những chốn nhầy nhụa đen tối, họ không ngừng vươn lên ánh sáng, họ không ngừng tìm mọi cách để giữ gìn lấy nhân phẩm và những khát vọng của mình, đó là bản chất, là lẽ sống của những con người lao động bị tàn phá trong cái xã hội bất công, độc ác nọ. Đọc xong những truyện của Gorki, và những sách, những bài nói về Gorki, tôi đã bâng khuâng tưởng như Gorki vẫn sống. Trên mặt đất này, vẫn đăm đắm và quăng quắc những nếp trán cay đắng và đôi mày của Gorki cau cau sống chết với chân lý, với sự tin yêu ở con người... Đôi mắt ấy, những nếp trán ấy, tôi thấy vẫn đăm đắm và cau cau nhìn tôi, một ngòi bút non dại chỉ được phép gửi vào cuộc đời những trang chữ tuy vụng về nhưng phải thật chân thành, những trang chữ không thể nào chấp nhận được dù chỉ mang một nét của sự nói dối của sự mưu đồ quái quỉ, của sự sáng tạo không phải do cần thiết, những trang chữ không phải vắt từ tâm hồn ra, không phải vì lòng yêu dấu tin tưởng ở cuộc sống, không phải vì sự thật, không phải vì quần chúng, vì con người...

... Với Người mẹ của Gorki thì tôi đã ứa nước mắt. Những giọt nước mắt của sự vui mừng! Con người không phải chỉ đau khổ. Con người đã vượt lên những đau khổ, tay mình nắm lấy vận mệnh của mình, đi lên với cách mạng để tự mình giải phóng cho mình. Lịch sử của con người đã chứng thực điều đó. Phong trào công nhân, phong trào quần chúng đương sôi nổi ở chung quanh tôi, đã chứng thực điều đó. Nhưng, hơn nữa, từ lịch sử, từ cuộc đời, con người đã nhập vào và hiện lên trên những trang giấy, bằng xương thịt sống hơn, kỳ diệu hơn, lạ lùng vô cùng, sâu xa vô cùng. Con người kết tinh đó, sáng tạo đó lại từ những trang giấy nhập vào cuộc sống, lay động xúc cảm và lay động ý thức của cuộc sống, xốc những con người của cuộc đời xông lên chiến đấu nữa, để thực hiện những khát vọng những lý tưởng của mình.

Và con người của Gorki sáng tạo đây là một người mẹ đã quá nửa đời đau khổ câm lặng! Người mẹ ấy ở một giai cấp mà từ mồ hôi trán họ đã kết dựng lên một xã hội được coi là mới nhất, văn minh nhất, tiện lợi, sung sướng nhất, nhưng lại thuộc quyền một giai cấp khác không phải đổ một giọt mồ hôi, mà trái lại hưởng nhiều nhất những sung sướng, hưởng đến nỗi ngập ngụa, thối nát, bốc uế khí tội lỗi, gây độc hại và gieo rắc tàn phá!... Tâm hồn người mẹ này đã sáng lên qua bao nhiêu lớp bóng đêm dày. Ý thức của bà đã dần dần chắp cánh rồi bay vút. Bà đi vào cách mạng. Bà đi vào cách mạng với đứa con trai độc nhất của bà. Bà đi vào cách mạng với các bạn của con trai bà. Người mẹ thành đồng chí của con, đồng chí của các đồng chí của con. Và người mẹ nhỏ yếu ấy trong cuộc chiến đấu, trước sức mạnh đàn áp của giai cấp thù, đã đi lên hàng đầu và là một mũi nhọn sáng quắc...

1939-1945. Qua những năm đại chiến lần thứ hai nghiệt ngã đen tối, sống dưới hai tầng bóc lột, áp bức của bọn Nhật, Pháp thống trị, một trong những giờ khắc an ủi tôi, nhóm đượm thêm lòng vui tin của tôi, là giờ khắc tôi nghĩ ngợi và sống với những nhân vật, những cuộc đời của những tác phẩm tôi được xem, được đọc đầu tiên của Gôgôn, Đốxtôiepxki, Lêông Tônxtôi và Gorki quý mến kia, tuy ở chung quanh tôi, cuộc sống bây giờ đã thấm vào tôi bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu tin tưởng với những con người hàng ngày chung vai sát cánh với tôi, với những sự việc đã gõ vào làm rung chuyển tất cả tâm trí tôi.

Những năm không thể nào quên được!

Cuộc sống của những thợ thuyền, dân cày vô cùng khổ sở, khó khăn, tối tăm. Mồ hôi phải vã ra gấp trăm lần hột cơm ăn. Như không còn được một chút gì để mà đọc, mà xem, mà nghe; không còn một chút gì là tươi mát cho tinh thần, trong khi cả một thứ văn hóa đạo đức, lễ giáo từ hồi phong kiến suy sụp trì trệ nhất được phục hồi lại, bao vây trùm quấn lấy họ, với các thứ kìm cặp, bòn rút của sự bóc lột. Và khủng bố, khủng bố, khủng bố!... Đàn áp... đàn áp... Những Bắc Sơn, Đô Lương, Nam Kỳ khởi nghĩa thật là bị dìm trong máu. Nhà tù và trại giam lại nhiều hơn cả những năm 1930-1931 mà lịch sử của đế quốc Pháp đã được ghi, được đánh dấu là những năm tội ác nhất! Hình như bọn cầm quyền Pháp rửa cái nhục đầu hàng và phản bội của chúng ở Pháp cũng như ở Đông Dương bằng máu và bằng sự đói khổ của cách mạng, của dân chúng, vừa rửa nhục và cũng vừa để được ăn no thêm, ngủ kỹ hơn dưới gót giày phát xít và quân phiệt...

Trong những năm ấy, có thời kỳ mà tất cả các đồng chí Trung ương và đảng viên không bị sa vào lưới quân thù còn lại hoạt động chỉ có hơn ba mươi đồng chí, và quĩ Đảng có không được bốn mươi đồng bạc. Nhưng mỗi lần quân thù họp các hội nghị cao cấp để nhận định về tình hình trị an của chúng, hay mỗi lúc chúng nhìn vào các tấm bản đồ ghi các nơi có phong trào cách mạng, hay những đêm tối chúng lật những tập hồ sơ chính trị ra để xem lại còn những lãnh tụ nào chưa bị lên máy chém, còn những đảng viên nào vẫn trốn thoát và hoạt động... những lần ấy chúng nó đều phải kêu rít lên và như nghe thấy có những tiếng nói vang âm chung quanh chúng nó:

- Cách mạng vẫn sống! Cách mạng vẫn như những mạch nước trầm trầm đi một dạo rồi lại hồng lên, rình rình phụt nổ. Cách mạng không thể nào tiêu diệt được!

Những năm ấy, lịch sử cách mạng, Đảng, các đồng chí đảng và quần chúng chiến đấu đã rọi ánh sáng cho tôi nhìn thấy, ngay trong lúc đen tối nhất, tương lai vẫn ngày một long lanh để rồi rực lên, tươi sáng mênh mông. Tương lai ấy là một hiện thực. Mầm sống và sức đi lên ấy là một chân lý. Mầm sống và sức đi lên ấy chỉ càng ngày càng nảy nở. Và tương lai ấy cũng ngày một mở ra trên tay quần chúng lao động, trên tay giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, trên tay nhân loại đã nối tiếp nhau đổ mồ hôi cho trái đất và qua hàng nghìn năm, hàng nghìn năm đau khổ viết nên những trang sử bất diệt của mình. Những điều đó còn được cắt nghĩa thêm, được chứng minh thêm với những tác phẩm nhân đạo và hiện thực xã hội chủ nghĩa mà với những tên Gorki, Lêông Tônxtôi, Đốxtôiepxki, Mácxim Gorki... bất cứ bao giờ, bất cứ lần nào hễ gợi lên trong tâm trí tôi lại rung lên, dào dạt một niềm tin yêu và kích động vô cùng...

⚝ ✽ ⚝

1957.

Cũng một mùa rét. Một mùa rét mà lần đầu tiên mưa tuyết táp vào mặt tôi, cái lạnh buốt trắng xóa đồng tuyết thấm vào da thịt tôi, một cái gì mênh mông chỉ riêng đất nước Nga mới có ôm choàng lấy tôi. Tôi đã đến một làng của đất nước mênh mông ấy. Đó là làng của Gorki. Làng đây Lênin đã về ở tĩnh dưỡng những ngày cuối cùng của Người. Bọn chúng tôi tình cờ vào thăm nhà của một nông trường viên cạnh đường cái. Bọn chúng tôi đã hồi hộp vì thấy nhà lặng lẽ một cách lạ và chỉ có một người ra tiếp chúng tôi, một thiếu phụ. Bà chủ nhân mời chúng tôi vào buồng khách, bước trên một tấm thảm hoa trải từ cửa vào. Tôi ngồi đối diện với một bức tranh sơn dầu phong cảnh. Chênh chếch phía trước mặt tôi, ở một góc nhà, hai cái giá bày một bức tượng cẩm thạch và một máy vô tuyến điện truyền hình. Chủ nhân đương dọn các thứ cam, lê, nho, táo mời chúng tôi thì có tiếng trẻ con gọi trong buồng gần đấy. Chủ nhân phải xin lỗi chúng tôi chạy vào. Luýnh quýnh giây phút, bà mới ra, dắt một em gái bé tóc kết hai dải buông lơi sau lưng, cài một con bướm xanh ở bên mái tóc, áo hồ thủy, váy hồng. Bà cười giới thiệu đây là con gái yêu duy nhất của bà, nó vừa mới ấm đầu, nhưng thấy có khách vào nhà cứ nhất định bắt mẹ cho ra chào khách. Bà mẹ vừa dứt lời thì em gái đã đến trước mặt tôi. Gương mặt em hồng hồng, vằng vặc, và nụ cười nở ra, sáng như hoa. Tôi còn đương bối rối vì sự hiển hiện nọ, thì em một tay cầm tấm ảnh con chó Laika ở trong vệ tinh nhân tạo to hó nhìn ra vũ trụ, một tay cầm một quả táo đỏ tươi chưa bao giờ tôi trông thấy, đến bẽn lẽn đặt vào tay tôi.

"- Tôi đương ở trong một làng đất nước Xô viết, hay ở trong một truyện thần tiên nào vậy, với một nhi đồng thiên thần, và với một người mẹ hiền dịu, dưới mái nhà ấm cúng mà ngoài trời kia hoa tuyết phơi phới mênh mông"?

Không! Không phải ở trong truyện thần tiên nào cả! Đó chỉ là một mái nhà của nông trường viên, và làng đó là làng của Gorki sau đúng bốn mươi năm Cách mạng tháng Mười, và cũng là sau đúng hai mươi năm tôi được đọc những tác phẩm của Người và của những tâm hồn vĩ đại của đất nước Người.

ĐỌC NHỮNG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO

Bây giờ, cái tựa đề cho những truyện ngắn của Nam Cao mới thật tin cậy. Cái tựa tự tay thời gian viết, giới thiệu, ký nhận. Cái tựa tự quần chúng mỗi người tìm thấy một bản, mỗi người hiểu một cách trong khi đọc hay sau khi đọc Nam Cao đặt sách xuống suy nghĩ. Nhưng tất cả những bản đó với những cách hiểu khác nhau đó đều đứng chung trên một điểm này: đó thật là những tác phẩm, những tác phẩm thật của con người.

Và bây giờ Nam Cao đã khuất của chúng ta lại mỉm cười. Tác giả của những nhân vật, những tâm trạng, sau đây mỉm cười:

..."Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt phèo, gợi những tình cảm rất nông, diễn ra một vài ý nghĩ quá thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có... Hắn nghĩ thế và buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình".

(Đời thừa)

Về một mơ ước, một cảnh sống khác:

..."Điền phải đi. Đi để giữ cho lòng mình được tươi lâu. Điền sẽ làm bất cứ cái gì để có ăn. Rồi Điền bình tĩnh viết. Có như vậy Điền mới viết ra hồn được. Lời phải đẹp; ý phải thanh cao. Ngọn bút của Điền phải khơi nguồn cho những tình cảm đầy thơ mộng. Nghệ thuật chính là cái ánh trăng huyền ảo làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa...

Điền lại thấy hiện ra cái bóng dáng yêu kiều của những đàn bà nhàn nhã, ngả mình trên những cái ghế xích đu nhún nhảy. Những người ấy sẽ đọc văn Điền. Lòng họ đẹp thêm lên. Họ sẽ yêu Điền. Họ sẽ gửi cho Điền những bức thư xinh xinh ướp nước hoa. Tưởng tượng của Điền tỏa rộng ra như một cảnh trăng. Điền nghĩ đến những cuộc tình duyên lãng mạn với những người đàn bà đẹp chỉ biết trang điểm và yêu đương.

Những tiếng gắt gỏng trong nhà lại đưa ra. Vụt cái trăng mất đẹp. Điền bẽn lẽn như bị bắt gặp làm việc xấu. Điền lắng tai. Tiếng vợ Điền gay gắt hỏi:

- Làm sao thế?

Đứa con gái vừa mếu máo vừa đáp lại:

- Con đau bụng.

- Giời ơi là giời!

Ấy là tiếng vợ Điền rên lên."

Sự thực trong sáng tác của Nam Cao thì như thế. Còn sự thực của cuộc đời bản thân tác giả thì ra sao? Tôi muốn nhắc lại tập Chí Phèo của nhà văn và một số câu chuyện chung quanh tập đó.

Chí Phèo là một truyện trong tập truyện đầu tay của Nam Cao viết khoảng 1940-1941, trước tiên lấy tên là Cái lò gạch cũ. Nam Cao lấy Cái lò gạch cũ làm tên cả tập. Nam Cao đưa cho một nhà xuất bản. Chủ xuất bản là một chủ nhà thuốc lậu. Tên này ra mở hiệu thuốc năm hắn hai mươi hai, hai mươi ba tuổi. Y trước đi ở bé con sai vặt và đóng thuốc lậu vào chai, làm việc cho cũng của một hiệu thuốc lậu mà chủ nó đã là tất cả mối suy nghĩ và mơ ước của y về sự giàu sang, về cứu nhân độ thế... về sự dốt nát, về xoay giở, bịp bợm, và phất.

Nam Cao phải đưa truyện đến nhà xuất bản nọ mà cũng không tin rằng truyện được xuất bản. Bản thảo Cái lò gạch cũ cứ vứt lay vứt lắt ở các chồng bản thảo khác đến nửa năm. Tình cờ Cái lò gạch cũ được chú ý. Người chú ý là một nhà văn nọ nổi tiếng một thời về cái "triết lý sức mạnh" cái tài viết nhiều của y, và cả vì cái đức độ có nhiều đàn em đi theo hút thuốc phiện, ăn phở, rồi về viết cho đàn anh ký tên đưa các nhà xuất bản lấy tiền để lại đi hút thuốc phiện, ăn phở. Nhà văn của "triết lý sức mạnh" để ý đến bản thảo của Nam Cao không phải vì tìm đọc mà vì ngạc nhiên. Tên truyện và tên tác giả gì mà lại nôm na đến ngớ ngẩn thế kia ở giữa cái thời mà tất cả những nhà văn có tên tuổi nhiều, tên tuổi ít, hay đương hăm hở, cay cú đi vào làng văn cho có tên tuổi đều phải tìm cho truyện của mình những cái tên gí vào người đọc như điện vậy?

Những: Sự động cỡn của đàn bà... Khi chiếc yếm rơi xuống... Ngựa đã thuần rồi mời ngài lên... Đời mưa gió... Trại Bồ tùng linh... Phấn hương... Đẹp, vân vân...

A ha! Cái lò gạch cũ! Cái lò gạch cũ và tên tác giả lại là Nam Cao!

Cái lò gạch cũ được nhắc ra khỏi đống bản thảo vứt bạ ở nhà xuất bản để rồi theo nhà văn đàn anh kia, lại nằm bạ ở một cái bàn cũng như thế. Lại một sự tình cờ khác, Cái lò gạch cũ lại được chú ý. Cũng vì cái tên truyện và tên tác giả. Nhưng lần này nó được đọc. Người đọc nó chỉ là một gã bạn lấy tên của nhà văn. Gã chưa đọc xong hết tập thì sửng sốt vô cùng và đi ngay các nơi thường nhóm họp làng văn mà tri hô lên những cái lạ, cái hay trong tác phẩm. Nhà văn đàn anh lừng lẫy kia bổ chửng ra, vội vàng đòi lại xem. Y ngốn xong bản thảo liền đề cho luôn ngay một cái tựa. Chưa đủ. Y còn đổi cho một cái tên khác: Đôi lứa xứng đôi.

Thế là Đôi lứa xứng đôi được xuất bản. Nam Cao của chúng ta đón lấy cuốn sách đầu tiên của mình mà bàng hoàng. Bàng hoàng vì truyện không những được in mà lại còn được cả tiền nữa. Tôi không nhớ chắc, tiền tác giả tập đó đâu như ba chục bạc thì phải.

Chao ôi! Không có những cái gọi là sáng suốt phát hiện tài năng, chân thực lẫn tài, nhiệt tình nâng đỡ cây bút mới của nhà văn đàn anh kia và của một nhà xuất bản cúc cung tận tụy với văn chương mặc dù không lãi bằng thuốc lậu, thì làm gì một người mới viết như Nam Cao lại có sách in... có tiền... nhất là có tên tuổi nữa...

Nhưng, dù đã được cả một bài tựa của một nhà văn đàn anh đề cho, dù được đặt cho một cái tên rất là một sự lôi cuốn, dù được tri hô lên ở giữa làng văn: "Thiên tài mới! Thiên tài mới"..., từ lúc ra đời cho đến lúc nằm mốc meo ở các hiệu sách, Đôi lứa xứng đôi không được một dòng chữ nào nhắc nhở đến trên mặt sách báo lúc bấy giờ. Chỉ vì đã được gọi là nhà văn, nhập vào làng văn mà Nam Cao không biết tùy khúc. Nghĩa là Nam Cao cứ lệt bệt ở cái xó làng Vũ Đại với những Thị Nở, Chí Phèo, Lão Hạc, với những Điền, Hộ, Thị Từ v.v... của anh. Nam Cao không chịu vác món tiền ra Hà Nội, "rưới" cho tác phẩm đầu tay của mình theo như tục lệ làng văn, bằng những chả cá, thuốc phiện, và rượu hát cho các bạn làng văn. Nhất là tiêu cho các nhà phê bình trấn ở các báo hàng ngày, hàng tuần lúc đó, nóng lòng chờ đợi các thiên tài đến gõ cửa, và sẵn sàng giáng cho những búa to, dùi nhỏ lên đầu những ai không biết hiểu thiên tài, và cả lên đầu nhau để tìm cho ra và giữ cho được cái "chân lý" của mình. A ha! Tác phẩm ra đời nhưng không có những ngòi bút "phê bình", khám phá ra những điều hay ho, rồi giới thiệu cho, thì làm sao thiên tài lại xuất hiện và được hiểu biết được? Nhất là làm sao sách lại bán chạy, lại được nhiều người đọc?

Chao ôi! Với những ba chục bạc và mười lăm cuốn sách bản quyền tác giả mà Nam Cao của chúng ta lại không biết dùng cho tên tuổi và sự nghiệp của mình!

Mặc dù, Đôi lứa xứng đôi vẫn cứ được đến tay những người đàn bà nhàn nhã ngả mình trên những chiếc ghế xích đu nhún nhảy đọc.

Và tôi lại xin phép kể thêm một chuyện về Đôi lứa xứng đôi.

Lại một sự tình cờ, trong một buổi chuyện gẫu bên bếp lửa lùi sắn trên nhà sàn ở Việt Bắc, Nam Cao và mấy chúng tôi đều rất hăng hái, mê ly bàn luận về các thứ văn chương thiên hạ sự. Không hiểu sao chúng tôi lại nhắc đến Chí Phèo, đến độc giả của Chí Phèo. Một nhà văn bạn trong chúng tôi gật gù bảo Nam Cao:

- Bác Nam ơi! Bác cứ hay phẫn! Chính nhờ cái độc giả nhàn nhã ngả mình trên ghế xích đu nhún nhảy mà Điền của bác mơ ước ấy mà tôi được phát hiện về bác đấy.

Nam Cao đương ngồi chành bạnh, cái đầu gối rung rung, thì đỏ ửng ngay mặt, khịt khịt mũi trong mùi soa, không cười nói nữa. Anh bạn chúng tôi vẫn cười nói tiếp:

- Cái kiểu người chính là kiểu người vợ tôi. Dạo ấy tôi còn làm phán nhà Đoan lương hơn trăm, vợ là con gái út một ông phủ cơ mà! Vợ tôi đọc bác. Đọc bác và phát hiện ra bác. Số là tôi rất có thành kiến với bất cứ tác phẩm đương thời nào, đó là một tật; tật thứ hai là tôi chỉ đọc những tác phẩm nào mà vợ tôi chê dở, chê tồi. Thì một hôm, tôi đi làm về thấy có một cuốn sách mới mua mà chỉ rọc có mươi trang, bỏ lay lứt ở dưới chân giường vợ tôi. Tôi thờ ơ cầm lên hỏi: "Cuốn này thế nào?". "Hôm nay em nhức đầu hay sao mà sách mới lại đọc bỏ dở như thế?". Tôi sờ trán, sờ đầu vợ tôi thấy chẳng sao cả, vợ tôi nguẩy người một cái, quều lấy cuốn nọ:

- "Truyện với trò! Thế này mà cũng in! Cũng bán! Vớ vớ vẩn vẩn, chẳng ra cái chuyện gì cả.

"Rồi vợ tôi và tôi ra ngoài hiên, ngồi chờ dọn cơm. Theo như cái tật của tôi, tôi liền đọc cái cuốn sách mà vợ tôi phê là truyện "vớ vớ vẩn vẩn" ấy...

Anh bạn chúng tôi liền ngừng nụ cười, hạ thấp giọng:

- "Bác Nam ơi! Em hoảng đấy! Bác làm em hoảng đấy! Bác viết lạ quá! Hay quá! Lần đầu tiên em hoảng đấy!... Chí Phèo của bác lạ quá! Hay quá! Thật là hoảng vì truyện ngắn của bác, vì bác đấy. Thế mà bác cứ hay phẫn!

Gương mặt bóng và gồ gồ của Nam Cao càng đỏ ửng lên. Nam Cao cười. Bác Nam tôi cười trước cả chúng tôi...

⚝ ✽ ⚝

18 năm. Phải, đúng 18 năm, Chí Phèo của Nam Cao bằng xương bằng thịt khật khưỡng đi vào cuộc đời văn học, đi vào trí nhớ của mọi người. Và nhiều nhân vật khác nữa của Nam Cao, mà hồn với xác của nó cùng bao nhiêu hồn xác khác của những con người tưởng tượng và sáng tạo của văn thơ, đã làm cho sự sống thật của mặt đất thêm phong phú những suy nghĩ, yêu thương. Một khoảng thời gian không dài lắm. Nhưng cũng đủ cho tất cả những cái gì là ăn sống nuốt tươi, gian dối, lừa bịp, đĩ thõa, buôn bán, tệ hại... tất cả những cái gì mà chữ đúng nhất để gọi tên nó, chỉ có thế là hai chữ "bất lương" dù nó được khoác được đội cho các thứ khăn áo gọi là văn chương, tác phẩm, phê bình, nghệ thuật, cao quý, tuyệt vời v.v... Tất cả các văn học làm bằng những thứ ngòi bút đầu cơ bán mình và vô sỉ ấy đã trơ ra hết sự thực của nó.

Qua thời gian, những giá trị thực của một nền văn học chân chính, hay nói một cách khác, chân lý của tư tưởng, của con người chiến đấu và trưởng thành trong nghệ thuật, chỉ càng ngày chói ngời, vời vợi. Qua thời gian, quần chúng lấy tâm hồn của mình chuốt cho những tác phẩm. Những tác phẩm của Nam Cao đã được sự trau chuốt này. Vàng ngọc của sự sáng tạo của Nam Cao đóng góp xây đắp cho lâu đài văn học đã óng ánh thêm trong những bàn tay lao động và sáng tạo của quần chúng. Cái con người mảnh khảnh, gầy yếu ấy đã đứng thẳng không một phút chùn bước, không chịu lút mình trong bão lốc vùi dập của một chế độ vô cùng thối nát, đen tối. Anh đã vắt từ những quằn quại, xót xa của mình ra những dòng ánh sáng thương yêu và tin tưởng để chứng minh sự sống nỗ lực của con người.

Bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào, những con người nghèo khổ, chịu thương chịu khó, vã mồ hôi ra làm nên thức ăn, áo mặc và lâu đài, đều vươn lên ánh sáng. Họ càng xơ xác, cùng kiệt bao nhiêu thì những tình cảm tươi tốt của họ càng rỏ thấm nhiều thêm mặt đất bấy nhiêu. Họ càng lấy thế làm sung sướng. Hai bàn tay của họ mở ra, không có một mảy may tiền của, trừ có mồ hôi, chai tay và bùn đất, trên đó một thứ quả chín ngọt nhất, một thứ hoa tươi ngát nhất, nở ra... Hoa và quả của tâm hồn họ... Cái chín ngọt và tươi ngát của bản chất họ.

Giữa những con người ấy, có những ngòi bút cùng chịu với họ những sự giày đạp, tàn phá. Những ngòi bút ấy cất vẽ lên những gương mặt, những tâm hồn của họ. Với những ngòi bút ấy, trái tim xấu xa của họ được soi chiếu thật là sáng rõ. Nhờ những ngòi bút ấy, cuộc đời được thấy thật thêm hình ảnh của họ. Cũng nhờ những ngòi bút ấy, họ nhìn trở vào thấy trái tim mình rõ hơn, thấy hết, thấy đúng, mà cả họ và cuộc đời đều bàng hoàng, sửng sốt, không ngờ được.

Nam Cao là một trong những ngòi bút kể trên. Những con người của Nam Cao sáng tạo là những con người trong đám người kể trên. Những Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc và bà cụ già chỉ có cái tên chung là bà cái đĩ trong truyện Một bữa no kia mà Nam Cao để lại cho cuộc sống, chính là hình ảnh sinh động của một số nông dân ngoi ngóp trong cảnh nghèo đói. Họ đã bị áp bức và bóc lột đến cùng kiệt, và cũng bị phá hoại đến cùng kiệt, thể chất cũng như tinh thần, dưới cái chế độ thống trị của bọn cường hào phong kiến.

Sự xuất hiện của những truyện ngắn của Nam Cao thật là đột ngột.

Dòng tiểu thuyết của văn học Việt Nam đã non yếu lại phải vượt lên qua bao nhiêu sự khó khăn, phá hoại của chính sách ngu dân và chế độ kiểm duyệt lúc bấy giờ. Mặc kệ, những tác phẩm của Nam Cao cứ như một luồng ánh sáng xuyên qua tất cả những sự bưng bít, chèn ép mà đi sâu vào quần chúng. Nghệ thuật vững chãi và sâu sắc của Nam Cao gây thêm lòng tin ở những khả năng tiềm tàng thật là tươi tốt và ở sức phát triển của dòng văn học hiện thực, đi vào đây, chiến đấu trong đây, có bao nhiêu ngòi bút chật vật, gian khổ.

Chật vật, gian khổ và cố gắng không ngừng, ngòi bút Nam Cao đã đem lại một nét thật là đặc sắc. Có lẽ trong văn học Việt Nam, với ngòi bút của Nam Cao ta bắt đầu được thấy thật có sự sống, thật có con người trong truyện ngắn, cùng với một số tác phẩm chân thực của một số ngòi bút dũng cảm khác. Tuy ta đã được đọc không ít những truyện viết về sự đói khổ, bóc lột, áp bức về những cảnh thương tâm, đen tối của một xã hội đầy rẫy những bất công, nhưng qua Nam Cao ta được nghe thấy cất lên thật là những tiếng nói, ta được thấy lung linh thấm thía thật là những tâm hồn, ta được chứng kiến thật là những cuộc đời, - những tiếng nói, những tâm hồn, những cuộc đời mờ mịt, ngoi ngóp, xơ xác ở nông thôn mà từ trước đến giờ ta rõ ràng đã trông, đã nghĩ mà gần như không hiểu, không thấy gì hết!

Mà sao heo hút, sao ngột ngạt đời những con người nông dân nghèo túng, trơ trọi kia? Đọc Nam Cao, cười với Nam Cao xong, ta thấy tâm trí nghẹn lại, ngực ta tức tối, ý thức ta có một cái gì nhấp nháy như ánh sáng chỉ chờ bắt cháy được thêm một sức mạnh gì đấy có thể nổ bừng lên.

A! Cái cười làm thêm cay đắng, xót xa, không có Nam Cao làm sao ta được cười một cái cười đặc biệt như thế? Không có Nam Cao làm sao ta có được những hình ảnh như Thị Nở, lão Hạc... cùng với bao nhiêu hình ảnh sáng tạo khác để cho ta thương yêu thêm và hiểu sâu sắc thêm cuộc sống của con người trên mặt đất này? Và cái thế giới của những Bá Kiến, Đội Tảo, của cái làng Vũ Đại hẻo lánh dưới một quyền hành cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết kia, càng làm ta thêm suy nghĩ và thấy phải có một trách nhiệm gì trước với những con người bị đè nén, bóc lột ở trong đó.

Bên cạnh cuộc sống của những người nông dân cùng cực mà Nam Cao tạo nên kia, còn có thêm những con người cũng túng thiếu, cũng bị giày vò, quằn quại nhưng mà thuộc về từng lớp khác: đó là từng lớp tiểu tư sản. Đọc xong những Trăng sáng, Đời thừa, Nước mắt, Mua nhà v.v..., ta cũng bị ngạc nhiên. Đó là những cảnh đời. Ở ngay bên cạnh ta, những cảnh đời của chính là từng lớp của nhiều chúng ta, mà đến nay nhờ đọc Nam Cao chúng ta cũng mới thấy thật hơn, sâu sắc hơn. Chúng ta càng bàng hoàng đau xót vì thấy bao nhiêu ước vọng, mê say, thương yêu, tha thiết nhất của những con người họ, của chính chúng ta đã bị trĩu cánh xuống, giập nát. Cũng vì nghèo khổ! Cũng vẫn chỉ vì nghèo khổ!

Sự nghèo khổ cũng chưa được cắt nghĩa và chưa được một luồng ánh sáng của ý thức mới chiếu vào, nhưng cũng cạo vào đến xương trắng của chúng ta. Mang những đau xót nhức nhối ấy, chúng ta cũng lại bị thôi thúc vì nhiều ý nghĩ, nhiều câu hỏi. Tuy chúng ta không được Nam Cao trả lời một cách đến nơi đến chốn, nhưng trước một thái độ thật là trung hậu, chân thực như thái độ của Nam Cao, chúng ta càng đi với anh, càng quý mến tin tưởng. Trong cái giai đoạn đen tối đè trĩu lấy con người lúc đó, chúng ta càng thấy phải nhìn thẳng vào sự thực, và chỉ được nhìn thẳng vào sự thực, đem hết lương tâm ra chịu trách nhiệm trước cuộc sống, tìm một con đường giải phóng.

"Bao nhiêu người nữa, cùng một cảnh, khổ như Điền. Cái khổ làm héo một phần lớn những tính tình tươi đẹp của người ta. Tiếng đau khổ vang dậy lên mạnh mẽ. Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than, vang dội trong lòng Điền: Điền chẳng đi đâu cả, Điền chẳng cần trốn tránh, Điền cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời.

Sáng hôm sau, Điền ngồi viết.

(Trăng sáng)

Qua những truyện ngắn, con mắt nhìn Nam Cao đặt cho chúng ta, những ý nghĩ Nam Cao gợi dậy trong tâm trí chúng ta, và tinh thần trách nhiệm Nam Cao đề ra với chúng ta, càng ngày ta càng thấy rõ hơn. Tới Cách mạng và kháng chiến, chúng ta càng gắn với Nam Cao, trân trọng Nam Cao hơn. Chúng ta gắn bó, trân trọng quý mến Nam Cao vì Nam Cao nâng hẳn chúng ta lên một mức. Đó là mức ý thức tích cực của một con người trước quần chúng, trước dân tộc, trước lịch sử. Với những trang nhật ký Ở rừng và Vài nét ghi qua vùng vừa giải phóng, chúng ta được sống thêm với Nam Cao, vẫn trong một tinh thần phải vận dụng hết mình ra để suy nghĩ, tìm hiểu, vượt lên tất cả những đau đớn riêng tây, lao vào cuộc sống chiến đấu mà gánh lấy nhiệm vụ.

Tôi xin được dừng lại ở đây. Tôi xin chỉ được viết về những truyện ngắn của Nam Cao. Những truyện ngắn cách đây mười sáu, mười bảy năm đã da diết tâm trí tôi, lay động ý thức tôi. Những truyện ngắn sao mà quý báu! Càng đọc thêm càng thấy tin cậy, quý báu, càng tiếc. Nam Cao mất năm 1951. Giặc Pháp đón bắt, bắn chết Nam Cao ở bờ sông trên con đường Nam Cao trở về quê nhà công tác. Năm ấy Nam Cao mới ngoài ba mươi tuổi.

7 -1960

HẢI PHÒNG VỚI TÁC PHẨM "CỬA BIỂN" CỦA TÔI

Tôi lớn lên rồi vào cuộc đời ở Hải Phòng, một thành phố kỹ nghệ, một hải cảng, một cửa biển lịch sử. Cuộc sống nơi đây, cái xã hội lao động, lầm than với những phong trào cách mạng của nó, cái mặt đất biển khơi với những dòng sử xanh bất tử của nó, đối với tôi cho đến bây giờ, vẫn là những hình ảnh, những điều gợi nhớ suy nghĩ, những niềm thương yêu và tin tưởng vô cùng.

Đất nước thần thánh và lịch sử hát ru. Đất nước và lịch sử Hải Phòng yêu dấu của tôi. Ngay từ bước đầu vào đời văn, tôi đã thấy đối với Hải Phòng, tôi mắc một món nợ, tôi đã yêu một tình yêu, không có thể nào trang trải, thay thế được, nếu tôi không có những tác phẩm mang tận cùng sự cố gắng và say mê của tôi khi viết về nó. Bao nhiêu năm tháng tôi đã trải qua là bấy nhiêu năm tháng của con người, của cuộc sống và của lịch sử của Hải Phòng đã quấn quýt da diết tôi.

Những năm dưới gông xiềng Nhật - Pháp, những năm mà tâm hồn và tư tưởng của con người không thể nào chịu những sự gian dối hơn được nữa, không thể nào thở và sống thêm được nữa với một chế độ bạo ngược cứ một ngày một thắt lấy đời mình, càng ngày càng đen tối ngột ngạt ấy... tôi lại càng cồn cào vì viết, viết về Hải Phòng.

Hải Phòng với những con người cần lao đau khổ. Những con người đã đem mồ hôi nước mắt của mình tưới cho mặt đất, khát vọng của họ cũng như cuộc đời của họ đã đẫm mồ hôi nước mắt luôn luôn phải cố cất lên nhưng cứ bị những sự bất công tàn bạo dập xuống, thậm chí họ cũng không còn được nhìn nhận là có quyền có cuộc đời của mình, có quyền khát vọng, có quyền mơ ước. Tôi phải viết về những con người và cuộc sống ấy của Hải Phòng. Những con người và cuộc sống ấy đã quằn lên, đã bị đạp xuống, lại quằn lên, và đã chịu bao nhiêu tan nát, chịu bao nhiêu cái chết. Những con người và cuộc sống ấy đã có những tiếng thét chưa dứt mà cổ đã bị bóp lại, đã có những lúc tâm hồn và ý chí bốc lên thành lửa, bùng lên thành ánh sáng, và đã từ bùn lầy than bụi đứng lên giằng gỡ những xiềng xích. Những con người và cuộc sống ấy đã nhận ra những nguyên nhân của mọi nỗi thống khổ của đời mình, và thấy không thể làm việc gì khác, là tự bàn tay mình phá tan những ngục tù giam hãm mình để từ cái mặt đất đau thương của mình đã chết đi sống lại kia, lại tự tay mình xây một cuộc đời khác, mở ra một bầu trời khác.

Những con người và cuộc sống ấy ở Hải Phòng là những con người và cuộc sống của quần chúng làm cách mạng. Trong cách mạng, họ đã đi đến mỗi người với một sự đau xót, với một niềm khát khao không thể nào xóa nhòa được. Nhưng cũng trong cách mạng, mỗi người đã phải, vẫn với máu thịt của mình, chiến đấu để đánh đổi lấy sự tự do, niềm tin tưởng hy vọng và tương lai cho mình, đã phải chiến đấu một sống một chết với cái giai cấp thống trị đã đàn áp họ bằng tất cả những sức mạnh tàn bạo nhất và bằng những sự dã man nhất dưới cả súc vật.

Cách mạng: một lò lửa. Trong lò lửa ấy những xiềng xích đã chảy ra. Cũng trong lò lửa ấy những cái gì là thối nát, phản động đã bị chiếu rọi tan tành. Cũng trong lò lửa ấy những cái gì là quý báu nhất, tốt tươi nhất của tinh thần, tình cảm, ý chí con người đã chói ánh lên, rực rỡ, cất cánh.

Hải Phòng với những quần chúng cách mạng của nó, Hải Phòng với những con người và cuộc sống lầm than, đau khổ của nó, Hải Phòng với những năm từ 1935 đến 1945, qua bao nhiêu cuộc biến chuyển với bao nhiêu sự phân hóa trong các tầng lớp xã hội, Hải Phòng thương yêu, đau xót, tin tưởng và chiến đấu của tôi ấy, là đề tài của bộ Cửa biển của tôi, mà tôi đã hoàn thành xong phần một là tập Sóng gầm.

1939, Đại chiến lần thứ hai bùng nổ. Thống trị Pháp ở Đông Dương chuẩn bị cả một cuộc đầu hàng bọn quân phiệt Nhật. Trong sự chuẩn bị ấy, chúng trở lại đặc biệt khủng bố phong trào cách mạng, bóp nghẹt và cướp lại những quyền lợi mà quần chúng công nông đã giành giật được. Sau những bài báo: Những giọt sữa, Người đàn bà Tầu đăng trên tờ Mới của Đoàn thanh niên dân chủ xuất bản ở Sài Gòn, tôi bị đế quốc Pháp xử tù ở Hải Phòng. Tôi đã được gặp đồng chí Tô Hiệu trong nhà tù. Cũng trong nhà tù, tôi được sống với những đồng chí công nhân. Có cả công nhân Hoa kiều. Đó là hai cha con ông thợ máy già ngoài mỏ Hòn Gai, và một người cháu của ông cũng là thợ máy. Một lớp huấn luyện theo đề cương Cách mạng tư sản dân quyền do đồng chí Tô Hiệu hướng dẫn, đã mở liền một tháng ròng cho chúng tôi. Lớp huấn luyện với những bạn học đầu tiên trong đời tôi là những công nhân, những người chiến đấu, những thanh niên dường như hoàn toàn sống bằng lý tưởng, vui tin và hy vọng. Lớp huấn luyện còn thu hút cả những chị em công nhân và những nữ thanh niên dân chủ giam ở xà lim riêng, bên kia trại chúng tôi. Trong số chị em bị giam đó có cả một đứa bé còn phải ẵm. Đó là con anh chị Đổng, công nhân Nhà máy xi măng. Anh Đổng cùng giam với tôi. Tôi suýt quên: chị Đổng lại đang có mang. Trong nhà tù, đứa hài nhi này đã được ra đời, nhưng lại chết sau khi lọt lòng mẹ. Chị Đổng bị sẩy thai trong xà lim. Tin đó chúng tôi nhận được một buổi sáng mùa rét, cửa các trại giam mở ra quét dọn. Chúng tôi chỉ được lờ mờ nhìn nhau và ra hiệu cho nhau. Những ngày mùa rét năm ấy, sao mà ghi nhớ! Đồng chí Tô Hiệu ho lao nặng. Chúng tôi phải chia cho nhau từng cái đầu tôm mặn trong những bữa ăn. Đồng chí Tô Hiệu cả một bữa ăn cũng chỉ có hai cái đầu tôm, và, đêm lạnh, anh em nhường chăn cho đồng chí cũng không nhận. Cả ngày đồng chí hướng dẫn anh em thảo luận. Trưa tối và khuya đồng chí ngồi còm cõi gò ngực trên miếng biển gỗ đề số tù để viết tài liệu sáng mai truyền sang cho xà lim phụ nữ.

Những chị em nọ án nhẹ hơn được thả ra trước. Tất cả rồi lại lao vào chiến đấu trong phong trào.

Ở tù ra, tôi trở lại xóm Cấm rồi xóm Chùa Đông Khê, những xóm lao động nghèo thảm của tôi. Tôi viết tập Xóm Cháy. Tôi đã viết được bốn chương. Tháng 6 -1940 đế quốc Pháp trước cuộc tấn công của phát xít, tuyên bố Ba-lê bỏ ngỏ. Chính phủ đầu hàng, phản bội và phản động Pê-tanh lên. Tôi lại bị bắt, tôi bị đưa đi giam ở trại tập trung Bắc Mê, Hà Giang. Bốn chương Xóm Cháy, tôi lại để lại cho mẹ tôi và em gái tôi. Thế là những chương tiểu thuyết viết về Hải Phòng ấy bị đứt đoạn! Lên trại giam được mấy tháng, tôi lại tiếp tục viết. Tôi viết lại từ đầu, viết hẳn những chương mới. Buổi trưa đi làm cỏ vê, tôi viết ở một góc cây mé sau trại. Tối khuya, tôi viết trên cái mặt hòm gỗ bưu kiện với ngọn đèn dầu lạc. Dầu lạc mẹ tôi gửi từ Hải Phòng lên, cùng với cá khô, tôm kho mặn và mắm ruốc. Năm ấy dầu tây khan hiếm, vả lại gửi dầu tây rất dễ đổ vỡ, dây dính vào thức ăn, vì từ Hà Giang vào Bắc Mê phải thồ bằng ngựa lội qua hàng chục con suối. Có những ngày tôi sốt rét và ho ra máu, tôi nằm đọc cho một đồng chí viết. Dạo sau này tôi viết bằng bút chì. Tất cả được gần 300 trang giấy pơluya mỏng. Tập Xóm Cháy viết xong, tôi ghép lại thật chặt, bọc bằng tờ giấy dầu, giấu trên nóc mái lá đầu sàn chỗ tôi nằm... Hoàn thành xong bản thảo này và cất giấu đi, tôi cũng không mong được xuất bản hay gửi ai đưa về nhà cả. Trừ phi chiến tranh kết liễu, cách mạng thành công, hay tôi được tha. Thì một tối... tôi giở xem tập Xóm Cháy, không thấy đâu nữa. Thời kỳ này "căng" đương bị khủng bố. Những "chó" lớn, "chó" bé ở "căng" cùng với bọn "a - b" cài vào cứ sin sít.

Tôi ngơ ngẩn không biết là bao nhiêu lâu. Nhưng rồi tôi lại viết. Tôi không viết tiểu thuyết nữa. Tôi viết những mẩu ngăn ngắn giả làm nhật ký và thư. Lúc được tha về, tôi lấy một số mẩu đó viết thành tập Cuộc sống.

1942, tôi về quản thúc ở Hải Phòng. Bốn chương đầu của bản thảo đầu tiên trong Xóm Cháy, mẹ tôi giữ cho tôi vẫn còn. Cầm trong tay, đọc lại những chương truyện mà bao nhiêu người quen biết, thân thuộc trước đây, kẻ xiêu tán đi hết, kẻ vẫn tiếp tục chiến đấu, kẻ tù đày, chết, đứa quay ra phản bội, đứa giàu có mãi lên, giữa cái thành phố từng giờ, từng ngày rền rú còi báo động bom Mỹ, hết nhà máy này đến xưởng thợ khác đóng cửa, cứ hàng nghìn hàng nghìn thợ đuổi ra, bơ vơ không còn biết đi đâu, đêm đêm phố xá lạnh vắng với ánh đèn xanh, gọi là đèn phòng thủ, tinh mơ dậy đã thấy tiếng vó ngựa lộp cộp, tiếng ngựa hí, tiếng gót giày đinh xào xạo ngoài đường, tiếng những thanh gươm xàn xạt bên đùi của những sĩ quan Nhật lạnh lùng, tàn bạo,... đọc lại Xóm Cháy và sống giữa những ngày ấy, tôi lại thấy cồn cào cả tâm trí, và lại thấy phải viết tiếp. Nhưng tôi thấy không thể sao viết tiếp, viết lại được. Những đau xót, những u buồn cứ đè trĩu xuống ngòi bút tôi. Càng cố đưa ngòi bút đi chỉ mong được lấy mấy dòng đầu thôi, thì ngòi bút lại càng quằn lên, nặng nhọc vô cùng, và không làm sao ra chữ. Không những tôi không viết tiếp được mà cuối cùng tôi đã xé cả bốn chương kia đi. Khi xé xong và đốt thành đống tàn ở trước mặt, tôi đã giấu cả vợ tôi. Tôi xé và đốt đi như thế để một ngày tới đây, tôi sẽ viết hẳn lại, viết khác hẳn, thêm nữa những nhân vật, những con người, thêm nữa những cuộc đời và những cuộc chiến đấu, thêm nữa những chuyển biến và sự thật - những nhân vật, những con người, những cuộc đời, những cuộc chiến đấu, những chuyển biến và sự thật mà cách mạng và thời gian đã cho tôi thêm ánh sáng để soi chiếu và suy nghĩ, mà cách mạng và thời gian đã mở ra cho tôi thấy được những chiều sâu, đã làm cho tôi thấm thêm được những sức nặng, vừa đòi hỏi ở tôi, vừa cho phép tôi tin tưởng hơn nữa, ở sự cố gắng lớn mạnh của mình.

Cách mạng tháng Tám thành công... Kháng chiến bùng nổ... Nhân cái đà sau khi viết được xong tập "Địa ngục" và "Lò lửa" tôi trở lại với những dự định cũ. Hải Phòng bây giờ đương nằm trong vùng tạm chiếm. Những Nhà máy xi măng, Bến Sáu Kho, khu Gia Lạc viên, Phốt Phát, Hạ Lý, Máy Tơ, Máy Chỉ... những con sông Tam Bạc, sông Dế, sông Cửa Cấm... những cầu Ca Rông, chợ Vườn hoa đưa người, chợ Cột đèn và cái xóm Cấm, xóm Chùa Đông Khê xa xôi của tôi kia, cứ mỗi lúc hiển hiện lên trong trí tưởng tượng của tôi lại càng làm tôi xa xót. Những lúc tôi ba lô trên vai, đi một mình trên những nẻo rừng ngút ngàn Việt Bắc,... những lúc nhìn những làn khói bom giội xuống đen ngòm, của những trận máy bay giặc oanh tạc điên cuồng ở chung quanh tôi;... những canh khuya tôi thức giấc ở cơ quan càng ngày càng lùi mãi vào những thẳm rừng,... những bữa ăn làn khói cơm bốc nóng chung quanh tôi đông đủ có mẹ tôi, vợ tôi và các con trai tôi... thì Hải Phòng xa xôi, đau thương và vẫn chiến đấu của tôi kia biểu hiện lên sao mà rõ và nung nấu?

Những năm đó tôi đã chỉ nghĩ làm sao tôi lại được trông lại Hải Phòng, chân tôi lại được đi trên những con đường Hải Phòng, và Hải Phòng mà tôi trở lại đó sẽ là Hải Phòng giải phóng để tôi ôm rồi hát lên cùng với nó. Phải! Tôi đã chỉ tưởng nghĩ như thế, còn viết về nó tôi vẫn thấy ngại ngùng và không sao cất nổi những dòng chữ bắt đầu...

⚝ ✽ ⚝

Nhưng những dòng chữ bắt đầu không những đã bắt đầu được mà đã thành trang, thành tập. Tôi đã trở về Hải Phòng giải phóng. Tôi đã trở về với Hải Phòng những ngày đầu tiên tiếp quản. Tôi đã trở về với Hải Phòng tàn phá tan hoang dần dần khôi phục. Tôi đã trở về với Hải Phòng không những đã lên da lên thịt, khí huyết dạt dào, mà còn tươi sáng lên, rực rỡ, nguy nga. Hải Phòng đương nhả khói, đương vang động các tiếng còi tàu. Hải Phòng đương từng giờ từng giờ đổi khác với những cơ sở công nghiệp, với những khu công nhân, với những trường học, những vườn hoa, những nhà thương, những phòng đọc sách, những nhà ăn công cộng, với những con người từ đây vĩnh viễn làm chủ đời mình, những con người lao động mà cha ông đã đổ mồ hôi xây dựng, đã rỏ máu chiến đấu cách mạng và kháng chiến, và con cháu mình đương lớn lên dần dần vào các nhà máy, xưởng thợ và chia nhau đi các công trường, nông trường toàn đất nước. Tôi đã trở về Hải Phòng với một tuổi bốn mươi và một tâm hồn thấy trẻ, thấy khỏe, rạt rào chưa từng thấy.

Tất cả những nhân vật, những cuộc đời, những chuyển biến và những cuộc chiến đấu mà tôi nghiền ngẫm kia, đã nhuần nhuyễn đến độ mỗi lúc tôi tưởng tượng ra thì lại hiện lên roi rói thành xương thành thịt hoạt động lên ở trước mắt tôi, nâng đỡ ngòi bút tôi, thì thầm kể lể, và thôi thúc ngòi bút tôi phải viết. Tôi đã viết xong Sóng gầm, một giai đoạn chuyển biến của những nhân vật, những công nhân, những dân nghèo thành thị và những tiểu trí thức sống trong những phong trào Mặt trận bình dân từ năm 1935 đến 1939.

1958 tôi đi thực tế ở Nhà máy xi măng, thời gian ấy tôi đã hoàn toàn dành cho công việc xây dựng Sóng gầm. Tôi rất ít ghi chép tài liệu về những đời sống và những sự việc. Tôi chỉ hỏi và nghe. Tôi chỉ nhìn ngắm và suy nghĩ. Tôi chỉ hồi hiện và phác tả. Tôi chỉ tưởng tượng và tưởng tượng. Ngay trong khi tôi xếp gạch cờ-lanh-ke ở lò nung, hay đẩy goòng, hay lái xe cày, ngay trong khi tôi làm việc, hội họp, chuyện vui, ăn uống, đi chơi với những bà con anh chị em công nhân ở đây, tôi đều không thấy mình là nhà văn và là nhà văn đi lấy tài liệu, tìm tài liệu gì cả. Tôi chỉ là một con cháu của đất Hải Phòng, sống với những bà con thân thuộc của mình; dĩ vãng của họ, lịch sử của họ gắn với dĩ vãng và quá trình trưởng thành của tôi như chính là dĩ vãng và lịch sử của cha ông tôi, của con cháu tôi. Từng mảy may ý tình của những anh chị em công nhân chung quanh tôi, của gia đình công nhân nơi tôi ăn ngủ và đi lại, mà tôi được nghe họ thổ lộ, tôi đều không thấy xa lạ một chút nào và chỉ làm tôi càng thấm thía, làm tôi càng thấy rạt rào, càng thấy thêm bao nhiêu sự sâu xa, yêu mến của con người. Tôi sống một sự sống rất hàng ngày với tất cả những diễn biến bình thường của nó. Nhưng khi xây dựng cốt truyện, khi xây dựng lại những nhân vật, khi đề lên những vấn đề của những nhân vật, thì lại là những phút cao độ nhất, quyết liệt nhất, mê man nhất của tôi trong một sự hủy diệt và tái tạo phức tạp nhất. Tôi thật làm nhà văn. Tôi phải sáng tạo. Tôi phải chịu những trách nhiệm đặc biệt. Sự sống của văn học đòi hỏi tôi phải vui trước, đau trước, hy vọng trước, thấy tương lai trước; tôi phải dựng lên cho mặt đất những con người, những cuộc sống có phần nhuần nhụy, tươi rói, sinh động còn hơn cả những cuộc sống, những con người đã có mặt trên mặt đất với tôi. Nếu không được thế, thì cái nợ, cái ơn tì