← Quay lại trang sách

Lúa Mới Chúng ta hãy nhìn lại những cảnh tượng ấy:

Hai dòng sông Hồng Hà và Thái Bình cùng sáu con sông nhánh Cà Lồ, Đáy, Bờ, Kinh Thầy, Lô, Đuống họp thành tám luồng nước đỏ ngầu, cuồn cuộn, cao ngất, băng mình dưới một vòm trời mây đen dồn dập, gió ầm ầm, tiếng kêu khóc ran ran, ri ri. Tất cả những đê hai bên sông đều lỏng lẻo. Nó chỉ chực bung ra như những cánh tay đã mỏi rã, trên đó hàng mấy mươi vạn gia đình đương cố bíu lấy, với lấy những của cải cuối cùng của cả một đời giường tre, cánh phản, hòm quần áo, rổ bát, ổ lợn sề, mái gà, trâu bò, vài gánh thóc, và những con cái lóc nhóc tả tơi, xanh xám.

... Những vệt đất mấp mé, xa tắp nó đã bật đi thật. Một biển máu tức khắc tràn lên mọi ruộng nương nhà cửa. Tám tỉnh Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Ninh, Hải Dương, tám cái vựa thóc mồ hôi nước mắt của miền Bắc Việt Nam hoàn toàn bị ngập. Sấm chớp đã reo mừng cùng mưa gió. Mưa gió đã lồng lộng ca hát cùng sông nước. Trời cao tím bầm thêm. Mây đen đã thấp nữa xuống trên đầu bẩy triệu sinh linh đã cướp đi hai triệu anh em, cha mẹ, vợ con, máu mủ, thân thuộc bởi nạn đói và rét.

- Thế này thì còn sống sao được nữa hở giời?

- Thế này thì lại chết đói đầy đường đầy chợ, cướp bóc, loạn lạc tan hoang, ăn thịt lẫn nhau, chết hết mất thôi!...

- Hết giồng đay thu thóc lại đến lụt lội sạch sành sanh thế này thì làm thế nào mà sống nổi với giời, hở giời?

DƯỚI CHÂN HÀ NỘI

Những tiếng trên đây, lại vang lên trong những đám dân hốc hác, da bọc xương, hấp hối ở khắp hang cùng ngõ hẻm... Người ta lại choáng váng tưởng đến một cửa địa ngục tối thẳm nửa mở ra, một địa ngục trên đó cả một lũ thực dân, quan lại và đầu cơ đã đục khoét, bóc xương, hút tủy dân chúng để phè phỡn say sưa và dâm dật.

Những cảnh tượng và những tiếng nói trên đây đã nổi lên trong trí tưởng tôi khi tôi rời Hà Nội để đi viết những trang "lúa mới" này. Tôi bắt đầu bằng một vùng ngay cạnh Thủ đô, không, ngay dưới chân Thủ đô, mà số người chết qua mấy trận tàn phá nọ đã nhiều nhất và thê thảm nhất: dưới Bãi.

Tôi đã không thể hồi hộp.

Trước những đám nhà lá ụp sụp, long lở bên những bức tường nhà gạch, vết bùn vàng xạm chấm đầu hồi, một sắc xanh kỳ lạ ùa vào mắt tôi. Những vũng nước mọi khi bừa bãi rác rưởi, cứt đái, bèo tây giờ bỗng biến hết thành ruộng. Lúa non mơn mởn, nước lấp lánh nắng, những tiếng rào rào thấp thoáng, một vùng quê được mùa nào ở bên Bắc chứ không phải là một vùng ngoại ô Hà Nội với những người chồng đi làm xe, phu khuân vác, thợ nhà in, thợ máy đèn, thợ cạo, thợ giầy và những người vợ đi bán xôi cháo, bún bung, bún chả, chè đường, thạch, xáo gạo, bán rau... và những đứa con đi bán báo, bán nước, đánh giầy mũ hay phất phơ ở các đường, các chợ.

Càng quá mé dưới, những khoảng trồng trọt càng nhiều, càng xanh tốt. Ngô khoai cứ san sát ở ngay thềm nhà, ngay trước cửa bếp, ngay rìa lối đi và ra cả ngoài đường. Không còn một ngọn cỏ nào với đất hoang. Không còn một rẻo đi nào thừa, ngoài những rãnh để lọt một bàn chân. Và chẳng hiểu nhà ai trồng, nhà ai không trồng, của nhà này, của nhà nọ, vì dải phù sa xa tắp và rộng thênh thang chỉ toàn những luống nhớn, luống nhỏ, luống dài, luống ngắn, chẳng bờ, chẳng rào, chẳng lều, chẳng túp nào cả.

Những luống ngô, những luống khoai, những luống rau cạnh dòng sông phơi sáng lòng cát nâu lỗ chỗ những hằn bàn chân và dằng dặc những bè nứa, những lán nứa, những thuyền, những cột buồm, thật là cả một cánh đồng mầu mà bao đời bao kiếp đã cày sâu cuốc bẫm.

Cuối tháng Giêng, nắng chang chang như mùa hạ. Hơi đất bốc lên trắng lởn vởn. Những dãy nhà lờ mờ. Tiếng trẻ con rời rạc ở trước cửa và ngoài đường. Văng vẳng xóm đây xóm kia những tiếng kèn đám ma rền rĩ. Cơn chết chóc vừa qua mà mỗi ngày hàng trăm người vừa chết dịch vẫn mờ mờ lờ đờ như cánh diều nâu trên không khí... Tôi đã thở không đều.

Những tiếng động của sự làm việc làm ngực tôi và tâm trí tôi thêm nặng: Người xay bột tráng bánh, đổ bún, chẻ đóm, rửa ốc, xẻ gỗ, đổ "nhôm" và lại còn những tiếng lâm râm "i tờ" và "thề phanh thây uống máu quân thù" ở cả trong những căn nhà nắng và bóng tối ngùn ngụt bốc lên. Ngoài kia trong khi ấy thì trên những luống đất loang loáng nắng những khổ mặt bừng bừng, môi mím lại hì hục cuốc, xới.

Những bàn tay nào đã cày đã bừa đây? Những bàn tay nào đã cấy lúa và đương gieo ngô, rấp khoai đây? Những bàn tay nào đã khiến đất xanh tươi đây kia dưới cái vùng bãi bao năm nay, về dạo này, đàn bà, con gái, trẻ con đương chen vai thích cánh nhau quanh những đám sóc đĩa thò lò, chắn, đố mười mà các du côn, ăn cắp, mật thám, nặc nô, cho vay góp chào tiền khách... đã hét ra lửa, hoành hành giữa cả ban ngày, trộm cắp như rươi.

Tôi đã có cảm tưởng bàng hoàng như đương ở trong một giấc mơ không thể ngờ được...

QUA CẦU SÔNG CÁI

Lúa đã được cấy ngay ở dưới chân Hà Nội. Không chỉ có lúa thôi mà còn ngô, còn khoai, còn rau đậu nữa. Những bắp ngô non, bột sánh như sữa, thành phố đã nấu một thứ chè thơm ngon vô cùng để ăn giải lao những buổi trưa ngấy cơm. Hay đã sợ của ngọt quá, thành phố không nấu chè thì đem luộc nguyên cả bắp lấy nước uống, thứ nước vàng trong trông như nước sâm vậy. Và lại còn khoai, những miếng tráng miệng sau bữa cơm, hỏi một ai kia đã có thể làm đất phải bật những thức đó như một phù phép tuyệt diệu:

"Tăng gia sản xuất"

"Tấc đất, tấc vàng"

"Tay ta bới đất, ta cứu lấy ta".

Một buổi sáng tôi sang hẳn bên kia con sông Hồng Hà để xem trên những mặt đất tàn phá lúa còn mọc lên thế nào với mồ hôi của dân quê.

Sương vẫn còn chập chờn. Hơi đêm vẫn còn lành lạnh. Nhưng, trước những làn gió ù ù, tôi thấy không chỉ tôi mà mọi người đều không có chút gì co ro rét mướt cả. Những vang động không ồn ào từ đằng xa hửng nắng đi đến cứ một phút một dồn dập. Những gánh hàng kĩu kịt và những bước chân thình thịch chuyển hẳn cầu. Lại còn những xe bò inh inh, những vó ngựa cồm cộp và những tiếng người kéo xe hự hự. Toàn những ngô, khoai, bắp cải, rau, cà chua, cá tôm, ốc đưa sang từng lớp, từng lớp không ngớt với những đoàn xe bò nhởn nhơ đầy ụ những gạo.

Quang cảnh này khiến tôi sực nhớ đến cái quang cảnh năm ngoái, ngày cái chính phủ bù nhìn của Nhật trịnh trọng tuyên bố cái nghị định tóm tắt như sau trên khắp mặt báo:

"Việc chuyên chở mua bán thóc gạo được hoàn toàn tự do trong khắp xứ Bắc Kỳ. Dân chúng và những hàng xáo được phép mỗi người sáu mươi cân và bằng gánh".

Từ Bắc Giang về Hà Nội, từ Hưng Yên, Nam Định lên, từ Việt Trì, Phú Thọ xuống, đeo sáu mươi cân trên vai, hỏi con người nên đi bao nhiêu ngày? Nên ăn bao nhiêu cơm? Bởi vậy, đã có những cảnh quái lạ diễn ra: những đoàn xe đạp đèo gạo.

Hầu hết những xe này đều ì à ì ạch, bánh như sắp rơi ra, khung như sắp ọp xuống, xích kêu cùng cục chỉ định tuột, định đứt phựt, và lốp cái mỏng dính như ruột gà, cái nát bét như dải khoai phải chằng chịt dây gai, dây thép. Người trên xe, áo cụt tay, quần đùi vải vàng, vải xanh vá đít thật dầy, đội mũ cói vành to, đi dép cao su, mặt mày đen xạm, mồ hôi ròng ròng, càng càng chân mà đạp vừa hổn hển thở. Một bị gạo vắt qua khung xe, một bị gạo chằng trước tay lái, một bị chằng đằng sau yên... những tội nhân khổ sai này đã lê những quả tạ nọ qua những đò những dốc, những đường ổ gà, những cầu vèo vèo ôtô nhà binh, để về Hà Nội, bán lấy những tờ giấy bạc in vung ra. Chiều nay bán hết sớm mai lại đi, ngày kia lại về... Ngày đêm những trai trẻ thất nghiệp, những ký, những cai ngắc ngoải nối tiếp nhau dằng dặc trên những con đường bỏng rẫy chân, nắng chang chang mà họ nhiều khi mếu dở, khóc dở vì xe hỏng, ngược gió và giời mưa... Bên cạnh họ có cả những người con gái gọi là "tiểu thư tân thời" để con ở nhà cho chồng mà cũng đi gạo, cũng lê chân cướp lấy miếng ăn giữa xác chết phơi ngổn ngang.

BÊN CẠNH NHỮNG VŨNG MÁU VỪA KHÔ

Đến giữa cầu, trông xuống bãi sông, trông xa xa, mắt tôi càng bị hút đi bởi ruộng đất. Trên làn phù sa bát ngát, sắc xanh dâng lên mênh mông không hở một khoảng nào. Mặc dù không được lấy một giọt nước mưa, sắc xanh vẫn hơn hớn ánh nắng như những nụ cười trẻ thơ. Và không tiếng nói, không rõ mặt, những chấm người lác đác, lúi húi trong cái bể ngô và khoai bao la, luôn luôn khuất hẳn đi và như tan theo cùng sức xanh và ánh nắng.

Tôi qua khỏi cầu lúc nào không biết. Tôi không xuống hẳn đường cái mà quặt ra rẻo đường trước ga Gia Lâm. Tới đây, giồng màu thưa hẳn. Cánh đồng lại chỉ cấy có lúa và trong cái nạn khô cạn, những cảnh bát mồ hôi đổi lấy bát nước cho ruộng là độc nhất dưới vòm trời lòa nắng.

Nước...Nước... chỗ này gầu giai, chỗ này gầu sòng, chỗ kia đạp guồng, nhà nào có ai khỏe mạnh là ra cả ruộng tát nước. Họ lấy nước từ đầm ngoài đường vào tận trong làng xa hàng mấy cây số và cao hàng ba bốn thước. Tất cả cái đầm đầy bèo, nước đen thối như nước cống, chi chít bọ gậy và muỗi, giờ bị tát cạn chỉ còn sâm sấp và trong veo. Lúa đã cấy xuống kín hết lòng đầm, xanh um và mát lạnh.

Lặng lẽ. Vẫn chỉ có tiếng gió và tiếng nước dào dạt. Tiếng cười nói rộn ràng và tiếng hát véo von chỉ thấy trong những đợt lúa xao động khi nước tóe đến. Cái lặng lẽ dần trở nên đè nén tôi khi tôi đi lên, chân bước qua những gióng sắt vằn vèo và những đống than, gạch, ngói, đã đóng lại như xi măng. Tôi nhìn, mắt chói chói, những chiếc toa đổ sụp, gẫy nát, những bức tường nứt nẻ, vỡ lở, những tầng gác đen nham nhở và trống hơ trống hoác, những ngọn cây thui trụi, cụt ngủn, và những cái hố nước rêu nhờn... Tiếng tầu bay ì ì, tiếng bom inh inh, tiếng súng cối xay ran ran bỗng vang lên trong trí tưởng của tôi. Máu đỏ bầm lênh láng... xương và thịt bị xẻ ra, bê bết đất và than. Những cái đầu mất nửa... những mớ ruột tung toé... Chiến tranh. Chết và tan hoang lại hiện lên...

Tôi bỗng giật mình. Có tiếng thở hổn hển đằng sau tôi. Đó là bọn ba người thợ quần áo rách rưới đương loay hoay "kích" một chiết toa trật bánh. Cách đấy mấy bước tiếng nước dào dạt rất nhanh, và nước bắn vọt lên sáng loé. Một cặp vợ chồng, người đàn ông quần áo cộc xanh mình trần, người đàn bà quần nái áo đan, đương tát nước dưới đầm lên. Ở bờ bên, một người đàn bà mặc váy, bụng chửa và một ông già gầy rạc, mắt nheo nheo, cũng nhoài người đưa dài những gầu nước qua những tia nắng chói lòa...

LÚA VÀ NƯỚC

Mưa... dân quê thật hết trông mong! Cái cảnh mưa phùn, gió bấc, rét cắt ruột, rụng chân, bùn lầy lấm láp, người sẵn bát ăn ngồi trong nhà trùm chăn sưởi hỏa lò chỉ nghĩ đến cũng vội lắc đầu thì dân quê đã coi như không bao đời nay, vậy giờ nếu có rét nữa, dân quê cũng xin chịu, miễn là có mưa, có nước cho lúa thế mà cũng không được. Mưa... nước, dân quê thật đã quên hẳn giời và cũng chẳng buồn nhắc đến sự may mắn này ở giời thương giúp cho. Tất cả hơi sức và tâm trí họ chỉ còn biết có mình. Tự tay mình phải sao có nước cho lúa? Tự tay mình phải sao cho lúa bật đòng, phải có thóc?

Lúa phải sống! Mùa gặt phải có!

Đấy, chỉ có ngần ấy tiếng ngày đêm, thầm thì trong ruột gan dân quê.

Bao nhiêu của cải bòn vét của họ đã đem cả ra đồng rồi. Tôi muốn nhắc đến những cánh đồng vùng Bắc liền với con đường số một mà nước lũ đã tung cả đá cả sắt, cả gỗ của cầu cống đi, đã như phá bằng mìn nhiều quãng đường tầu, đường cái toang ra hàng mấy trăm thước, và đã đổ xuống ruộng những tảng đá, tảng sỏi, vùi lấp hàng mấy mẫu.

Lắm cánh đồng trở nên rất đỗi lạ lùng. Nó như là một bãi bể sau khi đổ cây nước, hay như là một vùng đất đồi hoang. Gồ ghề, đống nhớn, đống nhỏ, hố rộng, hố hẹp, cát đóng khô trắng, cây dại mọc lởm chởm, nhìn đây khó ai có thể tưởng tượng cái cảnh lúa, đã mơn mởn, ngô khoai đã rập rờn, và những váy nái thắt lưng hoa đào đã phất phơ những ngày mùa xuân mưa lớt phớt, trống chèo thùng thùng đây kia...

Những tiếng kêu ca oán trách gần như không thấy có. Vợ bảo chồng, cha bảo con, ông bảo cháu, chỉ vài nhời cộc lốc hoặc thở than với nhau, hoặc gắt gỏng với nhau, hoặc an ủi thúc giục nhau trong một bữa cơm chiều sau đó thì ở những thửa ruộng tàn phá nọ, đá sỏi bị cuốc lên đem trả lại cho trên đường tầu, đường ôtô, lần cát chua bị đạp vỡ ra cho đất thịt lại tự do thở hít khí trời, ánh nắng. Thế rồi những luống cày lại rạch đất, đất lại tơi ra, phân gio lại gánh ra vãi, nước lại gợn sóng, và lúa lại cấy xuống.

Một, Chạp, những tháng gạo bẩy tám trăm một tạ, khoai ngô không có, dân quê đã đói như cào ruột. Bưng bát cơm nóng trên tay nhai những miếng cơm cứ tuồn tuột xuống dạ dày, tất cả những con người này đều lịm cả tư tưởng đi vì nghĩ đến ruộng, đến lúa, đến cái tiết giời lạ lùng ra tai ra khổ không còn biết kéo dài tận thế này đây?

- Nào hơn mẫu mầu, hơn mẫu lúa, vụ này nhỡ sao thì thật chết hết mất!

Ngay từ mùng hai Tết, trong lúc những tiếng pháo nhẫn tâm vẫn nổ ran ở nhiều chỗ, và bao tiếng cười nói phè phỡn say sưa ngang nhiên trước mắt mọi người, thì trên những cánh đồng nắng chói chang, đất nứt nẻ, lúa vàng úa, dân quê đã ra tát nước rồi. Nước trong ao tát ra, nước ngoài đầm tát vào, nước các vũng, nước các ngòi, gạn lên nếu có thể thì người ta sẽ quyết xúm lại hàng tổng, hàng huyện, hàng tỉnh mà khiêng sông về đổ các đồng xa nhưng khốn thay sông cũng bị cạn nốt.

Nhịn ăn mua mạ cấy, chịu rét để tiền thuê người làm cỏ, tát nước giờ, dân quê lại còn bớt cả tắm giặt, bớt cả nước uống. Những cái ao sạch sẽ nhất trong làng đã bị tát nốt và những cái thùng sâu như cái giếng đã đào lên để lấy nước cho lúa. Lúa càng khát. Nắng càng chang chang. Nhiều giọt nước mắt đã phải ứa ra.

Bên Bắc Ninh hầu hết những vùng gần phủ, huyện, nhà ga, chợ, những đàn bà con gái phải đi ra chợ từ mờ sáng mua nhặt những nồi nước đái về tưới. Những tiếng rao lanh lảnh "Ai bán nước giải không?" lúc hé ánh mặt trời và những tiếng xe bò ình ịch chở gạo ra tỉnh đã tưởng như một thế giới nào. Cái thế giới không còn mang cái nhục khốn nạn là có những kẻ thừa mứa chỉ có việc ăn không ngồi rồi và khuyên người ta phải giữ liêm sỉ.

Cái thế giới ấy tôi có nên nói rằng đã có với một vùng quê đây kia không. Buổi chiều hôm ấy tôi đi đã mỏi toan cố bước đến hàng nước nghỉ thì anh D. bỗng nắm cánh tay tôi chỉ:

- Anh trông kìa.

Anh và tôi cùng đứng lại nhìn. Một con bé áo và quần mướp ra, đặt cái gánh một bên là cái nồi đồng cờn miệng, một bên là cái chậu mẻ, xuống ruộng. Nó múc nước ở chậu ra với cái gáo nhỉnh hơn cái chén, đổ từ từ xuống những gốc hành vừa lấy tay vẩy từng giọt. Chúng tôi càng thấy tâm trí bị đè nặng hơn khi quay ra đi thấy lác đác mấy giọt nước sánh ra qua bao bờ ruộng ngoằn ngoèo đến một cái vũng nước vàng như gạch cua và chỉ còn sâm sấp.

Lúc đó nhiều đám mây đen đã sầm lại, gió mát rào rào, một cơn mưa may ra thì đến. Nhưng tất cả ở quãng đồng ấy, đàn bà, người già, người trẻ, vẫn cứ gánh nồi, gánh chậu, tưới nước như thế. Và chính chiều hôm nay dân Hà Nội đương rầm rập tản cư, những lũ lượt xe cộ chồng chất đồ đạc và người đương đổ về các vùng quê. Ở khắp các ngả, vào tận những ngõ hẻm trong làng, những tiếng "đánh phá", "tan hoang" cứ ran ran. Cùng với những giọt mồ hôi nhễ nhại của những con ngựa người rạp mình lôi những xe tay, xe bò ở ngoài đường, những giọt nước cũng nhờn nhụa ở các vũng, bị gạn lên tưới cho những luống cày khát nước như những trẻ thơ khát sữa vậy.

RUỘNG VÀNG

Có lẽ từ thuở có người và người bắt đầu cày cấy, những ngày xuân của miền Bắc Việt Nam như thế là một. Trên cao giời cứ xanh ngút, chói lòa, dưới đất, dường như tấm tôn nung, ao hồ khô nứt như lòng chảo cháy. Nhiều làng đưa ma bố, mẹ, chồng, vợ, con chết hôm trước vì sốt định kỳ, vì đau màng óc thì tinh sương mai, người ta đã lại phải ra đồng tát nước. Rồi gạo chính tay mình làm ra, cá to tôm tươi chính tay mình đánh được, dân quê lại phải ăn cơm độn ngô với cà nén chạt muối và nước cáy.

Những ngày ê chề cùng cực với nạn khô nỏ với nạn cướp nước bên ngoài và bán nước bên trong! Nhưng qua những ngày ấy, dưới những chữ "Việt Nam dân chủ cộng hòa năm thứ hai" giữ được một phần lớn bằng máu của những quân đội khí giới ít, chịu khổ và hy sinh nhiều ở các mặt trận kinh khủng, trước xe tăng, đại bác, tàu bay bom của quân thù cực kỳ văn minh, hỏi dân quê đã đi tới một đoạn đường thế nào?

Hôm nay đây chính những dòng chữ kêu gọi đại khái như sau đây nổi lên trên khắp mặt báo:

"Cần gặt!

Nhiều tỉnh mùa màng rất tốt nhưng thiếu người gặt. Bộ thanh niên và các đoàn thể công nhân, nông dân phải tổ chức gấp những đoàn gặt hái để giúp các vùng đó..."

Dù không được đọc những dòng này, bất kỳ một ai, ra khỏi thành phố Hà Nội ngược lên phía Bắc hay đi quá xuống vùng Nam cũng phải bừng bừng tâm trí, nắng và khô cạn đến như vậy mà sao lúa vẫn chín rực thế kia? Cạnh đường cái, nhiều ruộng tốt đến nỗi làm nhiều người ngồi trên ôtô chỉ được nhìn vút qua muốn đỗ lại để xuống hẳn ruộng mà xem mà ngắt vài chẽ thóc, mà cắn chắt, mà nhấm nháp!

Những bông lúa! Phải nói đó là những đứa trẻ lên mười, mập mạp, rắn rỏi, sáng sủa, tươi cười. Từ gốc lên ngọn, thân lúa cao vút rồi trĩu xuống, những bông thóc cứ mọng lên và vàng áy. Luôn luôn những bông thóc xô vào nhau rào rào, lảo đảo, lấp loáng.

Tháng tư: tháng gặt và tháng dỡ khoai, bẻ ngô. Thế mà giờ, nhiều ruộng vừa trơ gốc rạ được mấy hôm đất đã lại lộn lên, nước mới dẫn về để cấy lúa ba giăng. San sát những ruộng khoai, ngô, cà, dưa vẫn còn thấy ở mọi cánh đồng.

"Vô tận" hai chữ này bắt tôi một lần nữa nhớ sâu thêm vùng cấy chiêm nọ.

Muốn có nước cho lúa, dân quê tuy không thể khiêng được sông, vần được sông về đồng mình, nhưng họ chiếm hết cả mạn sông và lòng sông mà cấy lúa. Tôi đã ngạc nhiên trước câu hỏi của anh T. đi với tôi hôm ấy:

- Anh này! Có phải năm kia chúng mình đi qua vùng này lên Nhã Nam phải không?

- Chính thế chứ còn phải hỏi gì nữa!

- Ơ kìa! Thế cái con sông anh và tôi xuống rửa ráy đâu?

Cả hai tôi đều nhíu mày nhìn; một lúc sau anh T. reo lên và trỏ:

- Thành ruộng rồi! Thành ruộng cả rồi! Mà anh trông kìa, cái dải lúa bát ngát vắt lượn như võng từ mé đồi nọ sang mé đồi kia vẫn còn trơ trỏng mấy khung gỗ cầu mà dân quân trong kỳ tiền khởi nghĩa đã phá...

Chúng tôi qua đây mấy cây số lên vùng trên thì cạnh những con sông lúa mỏi mắt nhìn như thế lại còn những tầng lúa không chỉ một ánh vàng mà hàng bao nhiêu ánh vàng. Ruộng này vàng nhẹ như tơ, bờ kia vàng ấm như lụa, ruộng khác vàng mỡ và nuột như nõn chuối, có bờ vàng lóng lánh như thủy tinh, có bờ vàng ngời như lửa, và có ruộng như làn phấn da cam tỏa ra ở một thịt da lành mạnh.

Lúa chín, lúa sắp chín, lúa hè đòng, lúa mới cấy cạnh những con đường đất đồi son thắm và những con sông máng nước trong xanh, lúa bồng lên lồng lộng như những mảng ngực nở căng với những mạch máu tươi tốt.

QUÂN THÙ

Tháng tư: mới bắt tay gặt mà gạo đã từ tám trăm rút xuống quá nửa, rồi tới khi có lúa ba giăng và tháng chín, tháng mười được mùa gạo còn phải hạ nhiều nữa. Những cái bụng đói, thèm của những kẻ nghèo làm lụng đã ngót tháng nay, vợ chồng con cái được đều hai bữa cơm nóng và những buổi trưa, còn thêm bắp ngô, củ khoai.

Nhưng, tháng tư, những cơn mưa bão táp đã bắt đầu trút nước xuống. Hàng vạn ngọn suối của miền ngược lại cuồn cuộn dồn vào các lòng sông. Hai dòng sông Hồng Hà và Thái Bình lại đương lầm lì cuốn nước với các sông ngánh chật hẹp trên cái miền đồng bằng miền Bắc Việt Nam phẳng lỳ này.

Có thể những cánh đồng bao la vàng rực và xanh tươi bát ngát kia lại chịu cảnh tàn phá xác xơ, người chết, nhà tan không?

Có thể những con người vừa thoát chết đói vừa bẻ được cùm xích, vừa giằng được hàm thiếc, lại chịu cảnh chân xiềng, tay khóa, cổ bị bóp, xương bị nạo, tủy bị hút trên một dải đất lại nằm dưới gót đô hộ không?

- Nền đô hộ lần này bất kỳ với bọn thực dân nào nếu xéo lên ngực dân tộc Việt Nam thì không còn tim phổi nào không tan nát?

Tháng 4 và tháng 5 - 1945