Ấp Đồi Cháy
Anh Cương,
Tôi phải đi chỗ khác. Nhưng bọn họ vẫn ở Đồi Cháy, và Đồi Cháy của anh hiện giờ hình như không còn dấu vết gì Đồi Cháy dạo anh đi cả. Những gia đình cụ Điền, cụ Giáo, anh Can, anh Huyên đã lên hết đây. Tôi quên, lại còn thêm vợ chồng anh Bàng ở Chèm và bà cụ bác cu Chỉ ở bên kia sông Đuống nữa.
Sự sống lại nổi lên quyết liệt vô cùng, Cương ạ. Gà gáy, tất cả, mọi người thức giấc rồi dậy hẳn khi trời hé sáng.
Tiếng cụ Giáo ho sù sụ, tiếng những con bác cu Chỉ, bác cu Điền oe oe khóc, tiếng thổi lửa, tiếng vo gạo dần dần ran lên một vùng trên ngọn cái đồi trụi lù lù giữa những đám ruộng đất sương mờ mờ. Họ dậy, xuống suối rửa xong là vào ngay mâm cơm. Họ ăn ở dưới đất. Thoạt tiên, cơm nóng, rau muống luộc và tương còn ngài ngại, nhưng sau vài bận xới thì cả những đứa bé con thèm ngủ quấy khóc ới ới cũng ăn thun thút và chỉ sợ thiếu.
Sáu giờ thì đã sáng. Đằng Đông rúc những mây lửa. Xa xa những dãy núi Thượng Yên Thế và Lạng Sơn dằng dặc sù sì xanh rêu, hiện bật hẳn lên. Còn nắng nữa. Chung quanh rừng rú kín mít đều toát ra những làn hơi nhờ nhờ, và lấp lánh những giọt nắng đỏ. Mọi người đều choáng váng. Cạnh những bác cu Điền, bác cu Chỉ và Minh là những người trai trẻ sức lực cũng lại thấy ngây ngất muốn nằm lại. Nhưng không, họ đã đứng phắt dậy. Bác cu Điền và Minh rít một hơi điếu cày nữa, ông bõ nhà cụ Giáo uống thêm một bát chè tươi, bà cụ Chỉ vê thêm mồi thuốc ăn giầu... đoạn họ cầm xẻng cuốc, quang, gánh, dao, cưa, vồ, đục đi ra ngoài. Cái quả đồi mà chân họ giẫm lên ấy trông đã lại như kẻ thù vậy. Nó phủ một lần đất lạo xạo như sành vụn. Chẳng một thứ cây nào ngóc được lên ngoài những đám sim, mua, giành giành và chổi xể mọc chằng chịt làm dao cuốc luôn luôn bị vằng lên.
Mặc, hàng tuần lễ, hàng nửa tháng rồi, họ vẫn cứ cuốc, đào, cứ nhào cho đất tơi ra và san mặt đất cho thật phẳng. Họ phải có nền, có tường, có sân. Họ phải có nhà.
Mồ hôi họ ròng ròng. Những chuyến nước ở dưới suối gánh lên cũng rỏ giọt theo, liên tiếp đổ vào những khoảng đất trình tường dận thình thịch dưới chân họ. Nồi đồng, nồi đất, chậu, xanh, hũ, thùng đựng nước mắm... tất cả những thứ gì có thể đựng nước được đều đem ra hết. Bên những bọn người lớn đen nhễ nhại những đứa trẻ mới lớn son chạy cũng làm. Chân tay mặt mũi chúng nó cũng lấm láp và bùn đất còn bám cả vào dái cò chúng nó nữa.
Anh Cương, trước đây đã bao nhiêu trăm năm, bao nhiêu đời cha ông chúng ta đã phải lập những bãi lầy, giẫy cỏ những bờ sông hoang và đốt phá những rừng rậm rồi. Mồ hôi lúc ấy đổ ra phải còn gấp mấy mươi bây giờ. Những nóc nhà cũng đã cất lên. Những ruộng vườn cũng đã mở ra, rồi những lũy tre, những phần mồ. Bao nhiêu nước mắt và xương máu. Trên đây đã vượt lên nào Mê Linh, Hoa Lư, Thăng Long, Kinh Bắc; nào Đình Bảng, Tức Mặc, Lam Sơn, Trấn Võ, Thọ Xương... tiếp đến nào Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Đông, Hưng Yên với những Trường Thi, Ô Quan Chưởng, Hàng Gai, Cầu Nôm, bến gạch ngói Bát Tràng...
Quê hương...
Quê hương của tổ tiên chúng ta.
Quê hương của chúng ta.
Cương đương nghĩ gì thế?
Tất cả những thành quách, đình chùa, nhà cửa, giếng khơi, đường đá, trường học, chợ búa ấy đã kéo đổ sập hết, đốt cháy hết phá bỏ hết rồi. Cũng bởi chính tay những con cháu của đời đời thắt lưng buộc bụng, đầu tắt mặt tối kia đã vạch lên khắp cả những đống tan tành này dòng chữ bằng than, bằng gạch những nhời nguyền cha truyền con nối:
"Thề chết không làm nô lệ"
"Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm".
... Những ngày mưa nắng dầu dãi, người nhớn trẻ con đều ốm no bò dậy. Trên Đồi Cháy đã dựng những nóc nhà dưới đó họ đã có hẳn hoi mấy cái giường gỗ hãy còn mùi tươi để nằm ngồi. Nhà ta! Nhà ta! Những tiếng trẻ reo lên sao mà rộn ràng và thấm thía.
Mấy cái nhà ấy trông thẳng về hướng Nam, cửa sổ mở cả đằng trước đằng sau. Màu tường đất đỏ và mái rạ mới: lấp loáng ánh nắng nổi lên thật bàng hoàng, lạ lùng. Nó như của một thế giới nào khác, có những người sống nào ấy đối với những gian nhà ở dưới chân đồi. Những bức tường lè tè, mái ọp ẹp, bụi bậm, những gian buồng lúc nào cũng như là lửa vạc; những mảnh sân gà vịt sục lầm lên, những chuồng trâu chuồng lợn, chuồng gio, xông mùi hôi thối mù mịt vào khắp chỗ người ở.
Đó là những nhà cửa những người tá điền đến ở trước. Có kẻ đã sống hàng mười năm, mười lăm năm rồi bên rìa cái dinh cơ của tên chủ ấp mái ngói tường hoa, cây rau bể nước bao quát cả đằng trước mặt họ kia.
Chính trong những gian nhà ụp sụp nọ họ đã ở cả buồng cả gian giữa. Các chủ nhà lại còn để họ đun rơm rạ cùng mượn các đồ dùng. Nhưng họ không phải tản cư nữa. Họ đã có nhà rồi. Khói bếp, ánh đèn tỏa ngay ra chính dưới mái bếp mái nhà của họ. Cha con, vợ chồng, ông cháu, anh em đến những bữa cơm lại được quây quần ăn cả một lúc mấy chiếu liền nhau.
Một buổi chiều đầu tháng, cụ Giáo thân sinh anh Minh lom khom ra lễ ở giữa trời trước một mâm cơm canh. Sau đó cụ quay vào nhà khấn dưới một bài vị phủ nhiễu đỏ và một bát nhang bầy trên cái tráp sơn then, ở thành tường gian giữa lá cờ đỏ lại giở ra treo liền với tấm hình có cái vầng trán mênh mông và đôi mắt sáng nhưng lo âu.
- Hồ Chủ tịch! Hồ Chủ tịch! Từ đêm nay Người lại phảng phất cùng với những vị thần chú bất diệt của những dòng họ Lê, họ Trần, họ Đặng, họ Nguyễn lại một lần nữa ngậm ngùi cảnh non sông bị giầy xéo.
Tiếng gà cũng chiêm chiếp ngay sau hôm lợp xong nóc nhà. Trong bếp, ngoài sân, ngoài bãi, những con gà mới rời khỏi mẹ loăng quăng chạy, bới và ngó ngoáy rỉa lông không lúc nào chịu yên. Chính những người giai trẻ nọ đi mua lấy. Họ chọn toàn những gà sống lộc ngộc, thịt đỏ nâu, hai núm lông cánh vênh lên như hai bò liếm và những gà mái tuy chỉ mới bằng nắm tay đã chăm chỉ gọn gàng như những giống gà mẹ thắt đáy lưng ong, dắt dìu hàng mười mấy con mà không để sa sẩy.
Cái chái chuồng lợn cũng làm xong.
Giờ thì mặt mày những người giai trẻ đã cháy xạm. Lợn họ cũng đi chợ mua lấy. Không cần rọ, họ đã ôm chặt lấy lợn đưa về nhà. Buổi trưa ấy, họ lại bỏ ngủ sửa lại cái chậu cám bằng gỗ và họ xin thêm trấu, rơm lót chỗ cho lợn nằm để lấy phân. Những rổ bèo, những nồi cám, những chiều chiều cho lợn ăn. Nhìn họ ngắm nghía vừa vui sướng và lo lắng những con lợn chủn mủn, ủn ỉn thật khó mà tưởng tượng được...
Cũng vẫn dưới cái nhà ấy, những tiếng i tờ... bờ a ba và thờ ê thê cất lên lao xao, ngân nga văng vẳng trong những buổi trưa trời xanh lòa, mênh mông và những trẻ con nhem nhuốc hàng ấp và mấy ấp bên đều lên hết trên Đồi Cháy học. Không bàn, không ghế, không bảng, lớp học là những giường tre, những manh chiếu buồm và những mảnh giấy cắt xén ở những sổ sách cũ. Không đầy mười hôm cái nền nhà chật hẹp nó lại còn thêm cả những trẻ lớn đã theo được trâu cày và những người đứng tuổi mắt mũi kèm nhèm, ăn nói ngờ nghệch đến làm thuê cho những nhà cày cấy ở chân đồi. Những con giai, con gái, bác Cả, bác Cu của các lớp Bình dân ấy đã đem cả sách ra đồng mà lẩm nhẩm, đã hậm hụi đánh vần cả những lúc tối nhá nhem, mâm cơm dọn trước cửa dưới những đàn muỗi ri ri, đã viết giăng ra ở cả những mỏm đá bên bờ suối, ở cả những bắp cày, những cán cào, những dòng chữ mà cụ Giáo và Minh đã bắt tay cho họ rất nhọc nhằn.
Cương!
Quên sao được những người ở Đồi Cháy kia! Bác cu Chỉ có khi cả ngày không nói một tiếng, bà cụ Điền trẻ có thể nhịn cơm chứ không thể ngơi mồm những miếng trầu kèm mồi thuốc lào vê bằng đầu ngón tay, vợ chồng anh Bằng hai người khiêng một thùng nước. Nhất là Minh, người giai trẻ con cụ Giáo hàng Giấy. Cái thân hình vạm vỡ đen nháy của Minh, những tiếng nói ròn ròn cười cười của Minh và những cuộc sống mà Minh vừa ra khỏi để lại hàng mười năm, mười lăm năm dằng dặc những mê say, đau xót. Gì nhỉ?... Những tiệm nhảy, nhà săm, sòng bạc, nhà hát, tiệm hút, đẩy bao nhiêu lớp trẻ đã lịm xuống đến tận cùng sự tủi hờn và chán nản để dập tắt mọi chuyện cao quý, rộng lớn đã có lần nâng niu hồi mười bảy, mười tám, đôi mươi.
Họ chỉ còn nghĩ đến ruộng... Hơn năm mươi con người bị cướp bóc, bắn giết, đốt phá từ Hà Nội phá vòng vây hãm ra và từ các vùng chiếm đóng tàn hại bò lên ấy, giờ họ chỉ còn biết có ruộng. Những thửa ruộng rực nắng ở trước mặt họ, dưới chân Đồi Cháy kia...
Mười lăm mẫu, hơn năm mươi miệng ăn, sự sống rồi ra sao đây. Cày, bừa, thóc giống, mạ non... Cảnh làm ăn ở trên này đều khác lạ... Vậy cày bừa thế nào?... Phải gieo những thóc gì?... Chỗ nào cấy lúa nào? Nước nôi giữ gìn làm sao? Tìm kiếm phân gio vôi muối ở đâu mà bón... Lại còn bao nhiêu đồ ăn thức đựng thiếu thốn. Từ con dao phát bờ, cái gầu, cái chạc, cái thừng, cái sào, cái chum đựng nước, cái vại muối cà, cái hũ làm tương, nhất nhất đều không có cả. Đồng bào cho mượn mãi sao cho xuể? Mà tiền đâu sắm sửa đã?
Sang tháng thứ tư rồi. Ở dưới quê lúa chín gần hết còn gì. Nhưng bị mưa nhiều như dạo này lúa đến đổ hết mất. Gặt hái cách nào bây giờ! Nhưng làng họ lại sát ngay chỗ giặc chiếm đóng trông nom gì vớt vát được về nhà những hột thóc thiếu cả nước nôi, phân gio kia? Vậy mà trên đây ở chung quanh họ nhà nào nhà ấy đều đương chất ngất thóc lúa, rơm rạ đầy sân, đầy buồng. Tiếng xay giã, sàng sẩy cứ rào rào cho đến khuya với những tiếng cười hát.
Bà cụ Điền, bà cụ Chỉ, bà cụ Giáo... những người mẹ già đăm chiêu nọ lại càng đăm chiêu hơn.
"- Hay đành về làng thôi!"
Những tiếng thì thầm họ nghe mà ghê rợn.
Những mấy bà cụ lại chỉ nuốt đi cùng với nước mắt. Làng!... Những nóc nhà, những bức tường, những kèo cột, gạch ngói vỡ lở, đổ nát ngổn ngang. Đây một chiếc giường cháy dở, thang sụt bị cỏ mọc lấp gần hết! Kia một chiếc chiếu rách, một cái nôi mây còn trơ mấy cái khung và hình như còn giữ vài vết máu! Kia một cái độn tóc vương vãi với những mảnh yếm rách. Lại một bàn thờ lỏng chỏng, bát nhang, lại một mái nhà trống hoác. Rồi những lối đi cúi rúc giữa những ngõ ngách qua những tường, những hố, những gian nhà lạnh mờ mờ, không còn hiểu nhà ai.
Ơi làng!...
Chung quanh làng là lũy tre rấp kín gai góc. Ngoài làng là đường chỉ còn vết ngoằn ngoèo, mấp mé nước như bờ ruộng. Những ụ lù lù vượt lên bằng đất, đá, gạch, ngói đắp lại với những cột lim cả cây, những sắt đường tầu chèn ngang, chèn dọc, bù loong chi chít. Nắng, mưa, đây đã thấy cỏ mọc phơ phất và loáng thoáng những đám rau sam, rau má.
Không một vết khói lửa. Không một bóng người; mùi hôi tanh thối thoang thoảng ở cả mỗi chỗ nào mà giặc đã đến với súng máy và đàn chó săn đã nghiến cả mùi thịt chết.
Giở về đây, phải, nếu có giở về đây thời cha, con, ông cháu, vợ chồng chỉ còn với giặc thôi. Chỉ còn sống với tiếng cười sặc mùi rượu, những tiếng nghiến rít trong khi máu thịt bị đánh xé, những tiếng rên của người quằn quại, và những tiếng nức nở của đình chùa, mồ mả. Không! Còn phải sống cả với những tiếng xót xa của chính mình mỗi khi chợt thấy mình không còn được là người Việt Nam nữa, thờ ngọn cờ đỏ sao vàng nữa, vui mừng với dân chúng anh em đồng bào nữa. Đã có những vùng dân lặn ngòi ngoi nước làm ăn mãi tận đâu đâu đã phải bưng mặt khóc rưng rức khi được tin làng mình, nhà mình bỏ đi với giặc còn mình thì trở nên một giống hủi rồi... Họ càng nghĩ đến ruộng mươi lăm mẫu, ruộng của Ủy ban và đồng bào địa phương san sẻ cho. Nhà đã cất, bếp núc cũng ngày ngày ba lần đỏ lửa như chung quanh. Những võng con thơ đã có chỗ mắc nằm. Tiếng gà lợn đã nhộn nhịp ngoài sân. Canh khuya lại có cả những tiếng thở chèm chẹp của những con vện, con mực nằm dưới chân giường người ngủ mệt. Một nửa cuộc sống đã gây dựng lại rồi. Những dây máu đã lại bám lấy một khoảng đất khó mà dứt gỡ nổi.
Mười lăm mẫu ruộng thế nào cũng phải cấy, phải gặt hái, phải có thóc. Thóc để ăn mùa này và làm mùa sau. Thóc để lấy cái tấm, cái cám. Thóc để có vải mặc, thuốc thang khi ốm đau, cái nón, áo tơi đi chợ búa, đồng áng, tấm chăn, chiếu mùa rét tới, đồng quà tấm bánh cho mẹ, con cháu. Thóc để lo những ngày tết nhất cúng giỗ. Thóc để một năm, hai năm... năm mười năm... ba bốn mươi năm... để đời đời sau nối dõi hương khói.
Kháng chiến... Sự đau khổ không còn biết bao nhiêu năm nữa, vậy mà chỉ có hai bàn tay và ruộng đất. Mà lần này một khi cây mạ cắm xuống ở đây thì sự sống chết phải một mất một còn với giặc như những miền đã bị giặc chiếm đóng đương chịu tất cả sự kìm kẹp nung nấu để giữ vững lấy cái cày, cái bừa, con trâu và gốc lúa và để đêm đêm cùng bộ đội, cùng dân quân lăn vào với quân thù, giằng lấy súng đạn mà bắn giết, đánh phá tung hoành.
Rồi lại về xuôi. Lại về làng. Thế nào cũng lại về những nơi chôn rau cắt rốn.
Những thửa ruộng vàng, những mảnh đất vàng. Còn bao nhiêu ruộng đất, bờ bãi, sông đồi bát ngát đây kia để giồng giọt. Nhà cửa lại cất nhiều nữa, tre, chuối, cau, mít, ngô, đậu còn san sát nữa. Trâu, bò, gà con đầy đàn nữa. Khắp nước lại cờ đỏ sao vàng phấp phới. Dân chúng lại mít tinh, biểu tình tưng bừng. Các nhi đồng con cháu lại hát vang Tiến quân ca cùng những bước nhộn nhịp của bộ đội... Quê hương mới... Quê hương độc lập... Quê hương tự do... Quê hương ấm no... Quê hương Việt Nam lại vùng lên một lần nữa những ngày máu và nước mắt đọng xám khắp mặt đất dưới những hằn gót giầy và bánh chiến xa của giặc thù.
Cương!
Những ngày tháng năm, nắng rừng núi càng như đổ lửa. Ở những cánh ruộng chiêm vừa gặt đoạn, hơi nước bốc ngùn ngụt. Người ta thấy họ ra cả đấy. Bác cu Chỉ và Minh bì bõm theo trâu. Bà cụ Điền, bà cụ Giáo, bà cụ Chỉ đất lấm đến tận mặt se mày sém làm rau trên các thửa ruộng cao.
Xa xa... trên đồi trước một thềm nhà có tiếng ru trẻ khóc, một người cha già mắt đã lòa, cụ Giáo hàng Giấy, hì hục suốt cả buổi trưa với cái cuốc...
1947