← Quay lại trang sách

HAI CHA CON ÔNG HAUTOT (1889) I

Ngôi nhà của ông Hautot, vừa làm nông trại vừa làm nhà ở, là một trong những dinh thự cổ xưa ở thôn quê; trong thời phong kiến, những dinh thự này từng làm nơi trú đóng của các lãnh chúa, còn bây giờ thì thuộc các tay đại điền chủ. Trước cửa, một đàn chó săn bị cột vào các cây táo, sủa vang khi trông thấy người giữ rừng và mấy đứa trẻ mang những cái giỏ để đựng con thịt. Trong phòng ăn rộng, cũng vừa làm nhà bếp, hai cha con ông Hautot, ông Bermont, thâu thuế viên và ông Mondaru, chưởng khế, đang ăn sáng và nâng ly trước khi đi săn, vì hôm ấy là ngày mở mùa săn bắn.

Ông Hautot rất hãnh diện về sự nghiệp của mình, và đề cao những con thú rừng mà những người khách sẽ gặp trong đồn điền của ông. Ông là một người Normandie to lớn, khỏe mạnh, nước da hồng hào, có thể vác trên vai nhiều xe táo. Bản chất nửa nông dân, nửa trí thức, ông là người giàu có, được kính nể, có thế lực và độc đoán. Ông cho người con trai của ông, anh César Hautot, theo học tới lớp đệ tam, để cho anh này được giáo hóa, nhưng ông ngừng lại đó, vì sợ người con trở thành một ông đạo mạo, hững hờ với ruộng nương.

César Hautot, cao cũng như cha, nhưng gầy hơn, là một đứa con ngoan, dễ bảo, không đòi hỏi, lúc nào cũng thán phục và tôn trọng ý kiến và quyết định của cha.

Ông Bermont, thâu thuế viên, người tầm thước, trên má lộ những mạch máu tím nhạt, cất tiếng hỏi:

- Còn thỏ rừng? Ở đây có thỏ rừng không?

Ông Hautot đáp:

- Ông muốn bao nhiêu cũng có, nhất là ở dưới mấy cái rãnh.

Ông chưởng khế, một người rất yêu đời, béo mập, nước da mét, nai nịt chặt chẽ trong bộ đồ săn bắn mới mua, hỏi tiếp:

- Chúng ta bắt đầu từ nơi nào?

- Từ những cái rãnh. Ta sẽ lùa những con chim trĩ ra ngoài đồng trống, rồi mặc sức bầu.

Nói xong, ông Hautot đứng dậy, và mấy người kia cũng đứng theo. Họ cầm súng dựng ở các góc phòng lên, xem lại đạn, và giậm chân xuống gạch để thử lại giày cho được chắc chắn, rồi họ bước ra ngoài. Mấy con chó, dây cột ở cổ, nhảy chồm lên, sủa vang, hai cẳng trước quơ quào.

Họ tiến xuống các trũng thấp. Đó là một ngọn đồi nhỏ, hay đúng hơn, một thẻ đất rộng, dợn sóng, mặt đất chai cứng, bỏ hoang, có nhiều đường rãnh cắt theo chiều dọc; những bụi cây rậm rạp phủ kín các đường rãnh này. Thật là một nơi rất tốt để cho thú rừng sinh sản.

Họ đi thành hàng ngang mở rộng, ông Hautot ở bên phải, con ông ở bên trái, hai người khách ở chính giữa; người giữ rừng và lũ trẻ mang giỏ đi sau. Đó là giây phút quan trọng để đợi nổ phát súng đầu tiên; ai nấy trong lòng hồi hộp, ngón tay không lúc nào rời cò súng.

Thình lình phát súng đầu tiên ấy nổ lên. Chính ông Hautot bắn. Mọi người dừng lại, và nhìn thấy một đàn chim trĩ đập cánh bay thật nhanh, và một con chim trĩ tách ra khỏi đàn, rơi xuống một cái rãnh đầy bụi rậm. Ông Hautot cuống quýt, chạy nhanh, nhảy qua các lỗ trũng, bứt những sợi dây leo quấn vào người ông, rồi chui khuất vào trong bụi rậm để tìm con thịt.

Ngay lúc ấy, người ta nghe nổ phát súng thứ nhì.

Ông Bermont nói to:

- À, lão già ác ôn này lại hạ thêm một con thỏ rừng dưới đó rồi.

Ông chưởng khế khum hai bàn tay thành cái loa, gọi lớn: “Ông có được gì không?” Ông Hautot không trả lời. Thế rồi, người con quay lại bảo người giữ rừng: “Joseph, anh xuống phụ với ba tôi. Nhớ đi hàng ngang. Chúng tôi ở đây đợi.”

Joseph, người giữ rừng, gầy đét, các khớp xương phù ra, đi chậm rãi xuống cái rãnh, và tìm lỗ trống ở các bụi cây để chui vào. Liền sau đó, hắn la lên:

- Trời ơi, mấy ông đến ngay! Mấy ông đến ngay! Có tai nạn!

Ai nấy đều chạy xuống, phóng vào các bụi rậm. Ông Hautot té nằm nghiêng một bên, bất tỉnh, hai tay ôm bụng, và từ bộ phận này máu chảy thành tia dài xuống cỏ, xuyên qua chiếc áo vest bằng vải bố, bị đạn chì làm loang lổ. Ông buông khẩu súng để nhặt con chim trĩ chết, nằm vừa tầm tay, nhưng ông trật tay đánh rơi khẩu súng, khiến cho viên đạn thứ nhì bị chạm tức, phát nổ trúng ngay bụng ông. Người ta khiêng ông ra khỏi cái rãnh, cởi áo ông ra và mọi người nhìn thấy một vết thương khủng khiếp, làm cho ruột lòi ra. Sau khi băng bó sơ sài, ai nấy vội khiêng ông về nhà, và cho đi mời bác sĩ với cả cha xứ.

Bác sĩ, xem vết thương xong, liền lắc đầu, rồi quay sang người con đang khóc thút thít trên chiếc ghế:

- Tội nghiệp cho anh, vụ này chắc không xong.

Nhưng sau khi được băng bó, người bị thương cử động mấy ngón tay, mở miệng, kế mở mắt, nhìn phía trước với đôi mắt hết thần, rồi có vẻ như cố nhớ lại sự việc, hiểu rõ, và nói khẽ:

- Trời ơi, thôi rồi!

Bác sĩ nắm lấy tay ông:

- Có gì đâu, có gì đâu; ông chỉ cần nằm nghỉ vài hôm rồi khỏi.

Ông Hautot nói tiếp:

- Thôi rồi, tôi bị bể bụng! Tôi biết mà.

Rồi đột ngột:

- Cho tôi nói với con tôi, nếu còn kịp thời giờ.

César Hautot khóc thút thít, và gọi luôn mồm như một đứa bé:

- Ba ơi ba, ba ơi ba!

Người cha với giọng cứng rắn:

- Thôi, con đừng khóc nữa, không phải lúc. Ba có đôi lời muốn nói nhanh, rồi ba mới yên lòng trước khi nhắm mắt. Còn quý vị, xin quý vị cho tôi một phút.

Ai nấy bước ra ngoài.

Khi trong phòng chỉ còn có hai cha con:

- Con ạ, con hãy nghe ba nói. Con nay được hai mươi bốn tuổi, ba có thể nói với con nhiều việc. Không có gì là bí mật cả. Con cũng biết má con mất đã bảy năm nay, và hiện giờ ba chưa quá bốn mươi lăm tuổi, vì khi cưới vợ, ba được mười chín tuổi. Phải vậy không?

Người con ấp úng:

- Thưa ba, phải.

- Tức là má con mất đã bảy năm nay, và ba là một người góa vợ. Mà một người như ba không thể ở một mình khi mới ba mươi bảy tuổi đầu. Phải vậy không?

- Thưa ba, phải.

Người cha thở hổn hển, mặt tái mét, nhăn nhó:

- Trời ơi, đau quá đi thôi. Được, con đã hiểu. Con người sinh ra không phải để sống độc thân. Nhưng ba không muốn có thêm một người kế tiếp má con, vì ba đã hứa điều đó với má con. Thế nên… Con hiểu chứ?

- Thưa ba, vâng, con hiểu.

- Thế nên ba có một cô nhân tình ở Rouen, đường Éperlan, số 18, lầu ba, cửa thứ nhì - ba nói rõ, con đừng quên - một cô nhân tình rất thương yêu ba, ở với ba hết lòng như một người vợ thật sự. Con hiểu chứ?

- Thưa ba, vâng, con hiểu.

- Thành ra, nếu ba mất đi, ba sẽ thiếu nàng một món nợ quan trọng, mà với món nợ đó, nàng có thể vượt qua những nỗi khó khăn. Con hiểu chứ?

- Thưa ba, vâng, con hiểu.

- Ba nói để con biết đó là một cô gái đảm đang, và nếu không có con, không có kỷ niệm của má con, không có mái nhà mà cả ba chúng ta đã sống chung với nhau, thì chắc chắn ba đã đưa nàng về đây và cưới nàng… Con nghe đây. Lúc trước, ba có thể làm một chúc ngôn, nhưng ba không làm. Ba không muốn thế… vì những chuyện ấy không nên viết lên giấy… nó có hại cho những người thừa kế hợp pháp… nó gây rắc rối, xáo trộn… và nó làm cho hao tài tốn của. Bởi vậy, con nhớ đừng bao giờ dùng giấy chứng chỉ. Sở dĩ ba giàu, là nhờ trong đời ba, không bao giờ ba dùng thứ giấy ấy. Con hiểu chứ, hả con?

- Thưa ba, vâng, con hiểu.

- Còn nữa… Con ráng nghe… Tóm lại, ba không làm một chúc ngôn… Ba không muốn thế… Và hơn nữa, ba biết rõ tánh con. Con là một người rất tốt, hay thương người, không keo kiệt. Ba nghĩ thầm, trong giờ phút cuối cùng của ba, có lẽ ba đã kể những câu chuyện lạ lùng, nhưng ba chỉ yêu cầu con đừng quên nàng: cô Caroline Donet, đường Éperlan, số 18, lầu ba, cửa thứ nhì. Và con hãy nghe nữa đây. Con hãy đi liền đến đó sau khi ba mất, và con hãy thu xếp thế nào để cho nàng không hờn trách ba. Con có phương tiện và khả năng làm việc đó. Ba để lại cho con đầy đủ… Con nghe đây… Nàng làm ở nhà bà Moreau, đường Beauvoisine, suốt tuần lễ, chỉ nghỉ ngày thứ Năm. Nếu đến nhà nàng mấy ngày khác thì sẽ không gặp nàng. Vậy con hãy đến ngày thứ Năm. Ngày ấy, nàng đợi ba. Đó là ngày của ba từ sáu năm nay. Tội nghiệp cho nàng quá! Thế nào nàng cũng khóc!… Ba nói với con tất cả chuyện ấy, vì ba biết tánh con. Những chuyện ấy không thể đem ra nói với thiên hạ, với chưởng khế hay với cha xứ. Sự việc thì ai cũng biết, nhưng không nên nói ra, trừ khi bị bắt buộc. Như thế, người ngoài không biết, chỉ trong gia đình biết mà thôi, mà gia đình gồm nhiều người, nhưng chung quy chỉ có một. Con hiểu chứ?

- Thưa ba, vâng, con hiểu.

- Con hứa đi.

- Thưa ba, con xin hứa.

- Con thề đi.

- Thưa ba, con xin thề.

- Ba yêu cầu con, năn nỉ con là con đừng quên. Đó là nguyện vọng cuối cùng của ba.

- Thưa ba, con không quên.

- Con phải đích thân đi. Ba muốn con thấy rõ hư thực để được chắc chắn.

- Thưa ba, con sẽ đi.

- Rồi con sẽ hiểu… con sẽ hiểu những điều nàng giải thích với con. Tới đây, ba không thể nói thêm nữa. Con thề chắc chứ?

- Thưa ba, con thề chắc.

- Tốt lắm, con ạ. Hôn ba đi. Thôi, vĩnh biệt. Ba chịu hết nổi rồi, ba biết rõ sức ba. Con nói mấy người kia vào đi.

Người con ôm cha hôn, vô cùng xót xa, rồi, lúc nào cũng ngoan, dễ bảo, anh quay ra mở cửa, và vị cha xứ bước vào, mặc đồ lễ trắng, tay bưng bình dầu thánh.

Nhưng kẻ sắp chết nhắm nghiền đôi mắt, không chịu mở ra, không chịu trả lời, không chịu tỏ ra, dù chỉ bằng một cái gật đầu, rằng ông có hiểu.

Ông đã nói khá nhiều, nên không thể nói gì nữa. Vả lại, ông thấy trong lòng yên ổn và muốn được chết êm thấm. Ông không muốn xưng tội, vì ông vừa thổ lộ hết tâm sự với con ông.

Ông chịu đủ các phép bí tích giữa những người bạn thân và người giúp việc nhà; những người nầy đều quỳ gối. Gương mặt ông không có một nét gì cho thấy ông còn sống.

Ông chết vào khoảng nửa đêm, sau bốn giờ người ông bị co giật, chứng tỏ ông trải qua những cơn đau kinh khủng.

II

Người ta chôn cất ông vào ngày thứ Ba, mà mùa săn bắn thì mới mở hôm Chúa nhật. Sau khi đưa linh cữu của cha đến nghĩa trang, César Hautot trở về nhà, khóc suốt ngày. Đêm đó anh ngủ rất ít, và khi thức dậy, anh buồn rầu đến độ anh tự hỏi làm sao có đủ nghị lực để sống.

Tuy nhiên, từ sáng tới chiều, anh nghĩ rằng, để tuân theo ý muốn cuối cùng của cha, anh phải đến Rouen ngày mai, để gặp cô Caroline Donet, ở đường Éperlan, số 18, lầu ba, cửa thứ nhì. Anh nói lầm thầm như người ta đọc kinh, lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần tên họ và địa chỉ của cô gái kia, để không quên. Môi anh cứ lép nhép và anh không thể ngưng nói hay nghĩ đến việc gì khác.

Thế là ngày hôm sau, lúc tám giờ sáng, anh bảo bắt kế con ngựa Graindorge vào xe, và anh phóng nhanh trên con đường cái từ Ainville đi Rouen. Anh mặc áo rơ đanh gốt đen, đội một cái nón lớn bằng tơ, mặc một cái quần cụt dài tới bắp chuối; vì hoàn cảnh hiện tại, anh không muốn choàng lên bộ đồ đẹp của anh chiếc áo blouse xanh lơ, chiếc áo blouse mà khi gặp gió sẽ phồng lên; nó cản bụi và cản những vết dơ thấm vô áo dạ ở trong, và người ta sẽ cởi ra ngay khi xuống xe.

Anh đến Rouen lúc mười giờ. Cũng như mọi khi, anh ghé nhà hàng Bons-Enfants để được ông chủ, bà chủ và năm người con ôm hôn, vì họ có hay tin buồn. Anh phải thuật lại tai nạn đầy đủ chi tiết; điều này làm cho anh mủi lòng rơi lệ. Họ rất vồn vã với anh, vì họ biết anh giàu có, nhưng anh khước từ những sự vồn vã, giúp đỡ ấy, cũng như anh từ chối ăn cơm trưa ở nhà họ, khiến cho họ không được vui.

Sau khi giũ bụi trên chiếc nón, chải lại áo rơ đanh gốt và đánh bóng lại đôi giày bốt, anh đi tìm đường Éperlan; anh không dám hỏi ai, vì sợ người ta nhận ra và sợ bị nghi ngờ.

Anh tìm mãi nhưng không thấy. Sau cùng anh trông thấy một vị linh mục; anh tin ở sự kín đáo của người tu hành, nên liền đến hỏi.

Anh chỉ phải đi thêm một trăm bước nữa, và đúng là con đường thứ nhì, bên tay mặt.

Bỗng anh đâm ra do dự. Tới giờ phút này, anh chỉ biết nhắm mắt nghe theo ý muốn của người quá cố. Nhưng bây giờ, anh thấy trong lòng có cái gì đó nổi dậy; đầu óc anh bị dao động, rối loạn; anh cảm thấy danh dự bị chạm khi phải đứng trước người đàn bà kia, mà trước đây là nhân tình của ba anh. Tất cả luân lý lắng đọng nơi đáy lòng của chúng ta, truyền từ đời này sang đời nọ, tất cả những gì mà César Hautot đã học qua, ngay từ cuốn giáo lý đại cương, về những người đàn bà có một đời sống xấu xa, bản tính khinh miệt của bất cứ người đàn ông nào đối với hạng đàn bà ấy, ngay nếu một trong bọn họ là vợ mình, tất cả tánh thật thà thiển cận trong con người nông dân của anh, tất cả ngần ấy thứ quay cuồng trong đầu của César Hautot. Anh như bị một cái gì ngăn lại, rồi anh cảm thấy xấu hổ, mặt ửng đỏ.

Nhưng anh nghĩ thầm: “Mình đã hứa với ba, vậy không nên thất hứa.” Thế rồi, anh xô cánh cửa đang hé mở ở căn nhà số 18, và bước lên một cầu thang thiếu ánh sáng; tới lầu ba, anh bỏ một cái cửa, đến cái cửa thứ nhì, và nhìn thấy một sợi dây chuông; anh nắm dây giật.

Tiếng chuông reo ở phòng bên trong làm anh hồi hộp. Một người đàn bà bước ra mở cửa. Nàng còn trẻ, ăn mặc rất lịch sự, tóc nâu, màu nhuộm; nàng nhìn anh với vẻ ngạc nhiên.

Anh không biết phải nói gì, còn nàng, thì không nghi ngờ gì cả, vì nàng đang đợi người kia, nên không mời anh vào. Hai người nhìn nhau như thế lối nửa phút.

Sau cùng, nàng hỏi:

- Ông có việc chi?

Anh nói khẽ:

- Tôi là con ông Hautot.

Nàng giật mình, thất sắc, rồi nói ấp úng như đã biết anh từ lâu:

- À, nói vậy anh đây là César?

- Thưa phải.

- Thế có việc gì đấy, anh César?

- Tôi muốn nói với cô về ba tôi.

Nàng nói: “Thế à!” rồi lùi lại để cho anh vào. Anh khép cửa lại, rồi bước theo nàng.

Trong phòng, trước bếp lửa, một thằng bé độ bốn, năm tuổi đang ngồi dưới đất đùa giỡn với một con mèo; trên bếp, những thức ăn được giữ nóng, bốc hơi.

Nàng kéo ghế mời anh ngồi; khi anh ngồi xong, nàng hỏi:

- Việc gì đấy, anh César?

Anh không dám trả lời. Anh nhìn chăm chú cái bàn kê giữa phòng; trên bàn bày ra ba bộ dĩa với dao nĩa, trong đó có một bộ cho trẻ nhỏ. Anh nhìn cái ghế quay lưng vô bếp, rồi quay nhìn cái khăn bàn, những cái ly, chai rượu vang uống dở dang và chai rượu vang trắng còn nguyên. Đó là chỗ ngồi của ba anh, lưng quay vô bếp để sưởi ấm! Tức là nàng đang đợi ba anh. Anh nhìn ổ bánh mì để bên cạnh cái nĩa, mà lớp vỏ cứng đã bị gỡ ra. Anh biết là ổ bánh mì dành cho ba anh, vì răng ông không được tốt. Rồi đưa mắt lên vách, anh thấy bức ảnh lớn của ba anh, chụp ở Ba Lê năm mở hội chợ quốc tế; một bức ảnh tương tự cũng được treo nơi đầu giường trong phòng ngủ ở nhà ông.

Nàng hỏi lại:

- Việc gì đấy, anh César?

Anh nhìn nàng. Nỗi lo sợ làm cho nàng tái đi, hai tay run run; nàng chờ câu trả lời.

Bây giờ anh mới dám nói:

- Thưa cô, ba tôi đã chết trong lúc ông mở mùa săn bắn.

Nàng cảm xúc đến nỗi không cử động được. Sau một hồi im lặng, nàng mới nói khẽ, nghe không mấy rõ:

- Trời ơi, có lý nào!

Rồi lệ trào ra ở khóe mắt, nàng lấy hai tay ôm mặt khóc nức nở.

Thằng bé quay lại thấy mẹ khóc, liền hét lên. Nó cho rằng nỗi đau khổ của mẹ nó là do người lạ mặt kia gây ra, nên chạy lại, một tay nắm quần César Hautot, một tay ra sức đập mạnh vào đùi anh. César đâm ra bối rối và xúc động, giữa người đàn bà kia khóc cha anh và thằng bé binh vực mẹ. Anh cũng thấy mủi lòng, rơm rớm nước mắt. Để lấy lại thái độ, anh nói:

- Thảm kịch xảy ra hôm Chúa nhật, vào khoảng tám giờ sáng…

Rồi tưởng nàng chăm chú nghe, anh kể hết đầu đuôi, không thiếu sót một chi tiết, kể cả những chuyện lặt vặt, với tánh tỉ mỉ của người nông dân. Thằng bé vẫn tiếp tục đập, và bây giờ lại bắt đầu đá dưới mắt cá chân anh.

Khi anh kể tới lúc ông Hautot nói đến nàng, nàng nghe tên mình, liền bỏ hai tay xuống, và nói:

- Xin lỗi, từ nãy giờ tôi không có nghe. Tôi muốn biết rõ câu chuyện… Xin phiền anh vui lòng kể lại.

Anh lặp lại những câu vừa rồi: “Thảm kịch xảy ra hôm Chúa nhật vào khoảng tám giờ sáng…”

Anh nói hết, nói dài dòng, thỉnh thoảng dừng lại để chêm vô những cảm nghĩ riêng. Nàng chăm chú nghe, trong lòng hồi hộp và khiếp đảm, đôi khi kêu lên: “Ôi, trời ơi!” Thằng bé thấy mẹ hết khóc, liền thôi đánh César, và nắm lấy tay nàng, cũng ra vẻ như nghe câu chuyện.

Khi kể xong, César nói tiếp:

- Bây giờ, chúng ta hãy thu xếp với nhau theo như ý muốn của ba tôi. Cô biết tôi dư dả, vì có tài sản của ba tôi để lại. Tôi không muốn để cô phải than phiền.

Nhưng nàng vội cắt ngang:

- Anh César ạ, hôm nay không được. Lòng tôi hiện tan nát, tôi không thể bàn việc đó hôm nay. Anh hãy để khi khác, nếu tôi có nhận, không phải để cho tôi, tôi xin thề với anh, mà để cho thằng nhỏ. Vả lại, nếu có gì cũng sẽ để tên nó.

César kinh hãi, đoán thầm, rồi hỏi ấp úng:

- Có phải thằng bé này là con của ba tôi?

- Phải, nó chính là con của ông ấy.

César nhìn em mình, trong lòng cảm động, nhưng đồng thời cũng thấy bối rối, ngột ngạt.

Nàng lại khóc một hồi lâu. César ngồi im lặng; anh đâm ra lúng túng, khó xử. Anh mới hỏi:

- Thôi được, cô Donet ạ, xin phép cô tôi về. Cô muốn chừng nào chúng ta bàn lại việc đó?

Nàng kêu lên:

- Không, không, anh đừng đi! Anh đừng để tôi trơ trọi một mình với Émile. Tôi sẽ rầu mà chết. Tôi không còn ai cả, ngoài con tôi. Trời ơi, tôi khổ quá, anh César. Anh hãy ngồi xuống đây để nói chuyện nữa với tôi. Anh hãy kể những gì ông ấy đã làm ở nhà trong tuần qua.

César lại ngồi xuống, vì tánh quen tuân lời, dễ bảo.

Nàng kéo ghế lại ngồi gần bên anh, trước bếp lửa; trên bếp, các thức ăn vẫn sôi, bốc hơi. Để thằng bé Émile ngồi trên đùi, nàng hỏi César không biết bao nhiêu chuyện về cha anh, những chuyện tâm tình, khiến cho anh cảm thấy, khỏi phải lý luận dài dòng, rằng nàng yêu ông Hautot với tất cả tấm lòng của người đàn bà.

Và do sự tiếp nối tự nhiên của những ý nghĩ trong đầu anh - mà những ý nghĩ này không mấy gì nhiều -, César chẳng mấy chốc trở lại vụ tai nạn, và anh kể hết đầu đuôi, với cũng ngần ấy chi tiết.

Khi anh nói: “Bụng ông bị thủng một lỗ có thể để hai nắm tay vô lọt”, nàng kêu rú lên, và nước mắt lại trào ra. César bị cảm động lây, khóc theo. Tiếng khóc làm cho anh mủi lòng, và anh cúi xuống hôn ở trán thằng bé.

Người mẹ trở lại tỉnh táo, nói khẽ:

- Tội nghiệp thằng nhỏ, chưa chi đã mồ côi cha.

César nói theo:

- Tôi cũng thế.

Rồi hai người im lặng, không nói gì thêm.

Nhưng bản tính tự nhiên của người nội trợ quen lo nghĩ bỗng nhiên thức dậy trong lòng người thiếu phụ trẻ tuổi:

- À, anh César, từ sáng đến giờ chắc anh chưa ăn gì?

- Vâng, tôi chưa ăn gì.

- Thế thì anh đói lắm. Để tôi dọn cơm anh ăn nhé?

- Cám ơn cô, tôi không đói. Tôi rầu quá, không thiết gì đến ăn uống.

Nàng đáp:

- Dù cho khổ sở, cũng phải sống. Anh đừng từ chối, tôi buồn. Và xin anh nán lại một tí nữa. Chừng anh đi rồi, tôi không biết tôi sẽ ra sao.

Anh cố từ chối, nhưng rốt cuộc đành nghe theo lời nàng. Anh ngồi quay lưng vô bếp, đối diện với nàng, và ăn một dĩa lòng nấu ra gu, đang sôi lụp bụp trên bếp; anh uống một ly rượu vang đỏ, và nhất quyết không cho nàng khui chai rượu vang trắng.

Nhiều lần, anh lấy khăn lau miệng thằng bé, vì nó bôi nước xốt đầy ở cằm.

Khi đứng dậy ra về, anh hỏi:

- Cô Donet, cô muốn ngày nào tôi trở lại đây để bàn lại việc đó?

- Nếu anh không thấy trở ngại, xin anh đến thứ Năm tới, anh César nhé. Như thế tôi không bị mất thời giờ, vì luôn luôn tôi được nghỉ ngày thứ Năm.

- Vâng được, thứ Năm tới.

- Và anh sẽ dùng cơm trưa nhé?

- À, cái đó thì tôi không dám hứa.

- Có gì đâu anh. Thảo luận trong khi đang ăn rất là hay, và lại có thêm thời giờ nữa.

- Thôi cũng được. Tức là buổi trưa.

Rồi anh ra về, sau khi hôn thằng bé Émile và bắt tay cô Donet.

III

Tuần lễ này đối với César Hautot thật là dài. Trước kia, không bao giờ anh sống lẻ loi, không bao giờ anh chịu nổi cảnh cô đơn. Lúc nào anh cũng ở bên cạnh cha anh như bóng với hình, theo ông ra đồng, kiểm soát việc thi hành những lịnh của ông; nếu có xa ông một đôi lúc, thì anh cũng gặp lại ông ở buổi cơm chiều. Buổi tối, hai cha con ngồi đối diện hút ống điếu, bàn chuyện đồng áng, gia súc; sáng dậy, cái bắt tay giữa hai người biểu lộ tình thương cha con đậm đà, thắm thiết.

Giờ đây, César chỉ còn một mình. Anh đi lang thang giữa những thửa đất cày bừa vào dịp thu, và luôn luôn mong thấy nổi lên trên cánh đồng hình bóng to lớn của cha anh, đang vung tay quát tháo. Để giết thời giờ, anh đến những nhà láng giềng, kể lại tai nạn cho những ai chưa nghe, và đôi khi anh kể tới hai lần cho một số người khác. Rồi hết việc làm và hết biết nghĩ gì thêm, anh đến ngồi bên lề đường, trong lòng tự hỏi nếp sống đó còn kéo dài tới bao lâu.

Nhiều lần, anh nghĩ tới cô Donet. Nàng đã tỏ ra vừa ý anh. Anh thấy nàng là một người đàn bà đứng đắn, dịu dàng và đảm đang, như cha anh đã nói. Phải, nếu nói đến người đàn bà đảm đang, thì đúng nàng là một người đàn bà đảm đang. Anh nhất định sẽ làm nhiều việc xứng đáng, và sẽ cho nàng một lợi tức hằng năm là hai ngàn quan để làm vốn cho con nàng. Anh thấy thích thú khi nghĩ tới thứ Năm này anh sẽ gặp lại nàng để thu xếp việc đó. Rồi anh nghĩ tới đứa em của anh, thằng bé năm tuổi kia, là con của cha anh; ý nghĩ này làm anh hơi khó chịu, nhưng đồng thời cũng làm động mối từ tâm của anh. Thằng nhãi con ấy, kết quả của một mối tình lén lút, dù sao, cũng là một phần của gia đình anh. Nó sẽ không bao giờ được mang họ Hautot; anh muốn đùm bọc hay bỏ bê, tùy ở anh, nhưng chắc chắn nó gợi nhắc cho anh đến cha anh.

Thế nên, sáng thứ Năm, khi con ngựa Graindorge phi nước kiệu kéo xe đưa anh đi Rouen, tiếng chân ngựa chạm dưới đường kêu vang, anh thấy lòng thơ thới, nhẹ nhàng, mà từ hôm xảy ra tai nạn tới nay, anh chưa cảm thấy.

Lúc bước chân vào phòng cô Donet, anh để ý bàn ăn được bày ra như hôm thứ Năm vừa rồi, chỉ khác một điều là vỏ bánh mì để nguyên, không gỡ ra.

Anh bắt tay người thiếu phụ trẻ tuổi, hôn lên má thằng bé Émile, và ngồi hơi có vẻ tự nhiên, như khi ở nhà anh; tuy nhiên, lòng anh cũng thấy buồn man mác. Anh nhìn cô Donet. Nàng có phần sút đi, nước da hơi mét. Chắc nàng đã khóc nhiều. Hôm nay, trước mặt anh, nàng có vẻ ngượng nghịu; nàng nhớ hôm tuần rồi nàng không cảm thấy như thế, vì tin dữ đã đến quá đột ngột. Nay, với vết thương lòng đau đớn, nàng tỏ ra khiêm tốn, và tận tụy săn sóc anh, như để đáp lại lòng tốt mà anh đã tỏ ra với nàng. Hai người ăn cơm rất lâu, vừa ăn vừa bàn vụ giúp đỡ. Nàng thấy số tiền mà anh cho đó quá nhiều, thật quá nhiều. Nàng không muốn nhiều như thế. Nàng làm cũng đủ sống và chỉ mong cho thằng bé Émile có một số vốn nho nhỏ khi trưởng thành. César không thay đổi ý kiến, mà lại còn tặng nàng một ngàn quan, nhân cái tang của nàng.

Sau tuần cà phê, nàng hỏi:

- Anh có hút thuốc không?

- Có… Tôi có ống điếu.

Anh đút tay vô túi tìm ống điếu, nhưng khổ nỗi, anh lại quên đem theo. Anh sắp bực tức với mình, thì nàng mở tủ đưa anh ống điếu của người cha. Anh cầm lấy ống điếu, nhận ra ngay, ngửi thấy mùi thuốc của cha anh, rồi với giọng cảm động, anh ca tụng chất lượng của nó, đoạn anh nhét thuốc vô và châm lửa hút. Rồi anh bế thằng bé Émile để lên đùi anh, cho nó chơi trò cưỡi ngựa, trong khi nàng dẹp bàn và để ở ngăn dưới cái tủ những chén đĩa dơ mà nàng sẽ mang đi rửa sau khi anh ra về.

Lúc ba giờ chiều, anh đứng dậy, tuy trong lòng còn lưu luyến, chưa muốn đi ngay.

- Thôi, cô Donet ạ, xin phép cô tôi về. Tôi rất khích lệ đã được cô tiếp rước như hôm nay.

Nàng đứng trước mặt anh, mặt ửng đỏ, cảm động; nàng nhìn anh mà nghĩ tới người đã khuất.

Nàng hỏi:

- Chúng ta còn gặp lại nhau không?

Anh đáp một cách tự nhiên:

- Còn chứ, nếu sự gặp gỡ làm cho cô vui thích.

- Chắc chắn nó làm cho tôi vui thích. Thế thì thứ Năm tới có được không, hả anh?

- Được, cô ạ.

- Anh dùng cơm trưa nhé?

- Nhưng…, nếu cô muốn thì tôi không từ chối.

- Đồng ý nhé, anh César, thứ Năm tới, buổi trưa, như hôm nay.

- Vâng, thứ Năm tới, cô Donet.