HỐI TIẾC (1883)
Ông Saval, mà ở vùng Mantes người ta gọi là “ông già Saval”, vừa thức dậy. Trời đang mưa. Đó là một ngày ảm đạm giữa mùa thu. Lá rụng. Những chiếc lá rơi từ từ giữa những hạt mưa, giống như một cơn mưa khác, dày đặc và chậm chạp. Ông Saval không được vui. Ông đi tới đi lui giữa lò sưởi và cửa sổ. Cuộc đời có những ngày đen tối. Từ nay, cuộc đời sẽ đem lại cho ông toàn những ngày đen tối, vì ông đã sáu mươi hai tuổi rồi! Ông sống một mình, suốt đời độc thân, không có ai bên cạnh. Thật là buồn nếu phải chết như vậy, chết giữa sự cô đơn, không có được một sự tiếc thương.
Ông nghĩ tới cuộc đời trống rỗng của mình. Ông nhớ tới dĩ vãng đã qua, dĩ vãng của thời niên thiếu: đầu tiên là ngôi nhà, sống giữa cha mẹ, rồi tới trường trung học, những lúc đi ra ngoài, thời gian ông học luật ở Ba Lê. Kế đó là cơn bịnh của cha ông và cái chết của ông cụ.
Ông quay về ở chung với bà mẹ. Hai mẹ con sống cuộc đời bình thản, không ao ước gì hơn. Rồi bà cụ qua đời. Ôi, đời thật là buồn!
Còn lại trơ trọi mình ông. Rồi đây, tới phiên ông, ông cũng sẽ chết. Ông sẽ ra đi vĩnh viễn và thế là hết. Sẽ không còn ông Paul Saval trên quả đất này nữa. Nghĩ tới đây, ông thấy rùng mình. Những người khác vẫn sống, vẫn yêu, vẫn cười đùa. Mà thật vậy, thiên hạ sẽ hưởng những lạc thú, còn ông thì không còn nữa. Thật lạ lùng khi người ta có thể cười đùa, vui sướng, hưởng những lạc thú, trong khi biết chắc sẽ phải chết! Nếu cái chết chỉ là sự ước đoán, thì người ta còn có thể hy vọng; nhưng không, cái chết là điều không thể tránh được, cũng như đêm tiếp theo ngày.
Hơn nữa, phải chi ông đã sống một cuộc đời đầy đủ! Phải chi ông đã làm một điều gì, đã có những cuộc mạo hiểm, hưởng những lạc thú vô ngần, những sự thành công, những sự thỏa mãn mọi bề. Nhưng không, không có gì cả. Ông không hề làm gì cả, ngoài việc thức dậy, ăn, rồi ngủ đúng giờ. Và cứ thế, ông sống cho tới sáu mươi hai tuổi. Ngay đến việc cưới vợ như những người khác, ông cũng không nghĩ đến. Tại sao? Vâng, tại sao ông không cưới vợ? Ông thừa sức để cưới vợ, vì ông cũng có chút ít của cải. Phải chăng vì ông không gặp cơ hội? Có thể. Nhưng cơ hội, người ta phải tạo ra! Đúng ra là ông thờ ơ. Sự thờ ơ là một chứng bịnh nan y, một nhược điểm, một tật xấu của ông. Biết bao nhiêu người đã thất bại trên đường đời bởi tính thờ ơ. Có một số người cảm thấy rất khó nhọc nếu phải đứng lên, xoay xở, chạy chọt, mở lời hay nghiên cứu một vấn đề gì.
Ông cũng không được yêu bao giờ. Không có một người đàn bà nào nằm ngủ trên cánh tay của ông, trong niềm ân ái trọn vẹn. Ông chưa bao giờ nếm cảnh hồi hộp lý thú của sự chờ đợi, sự rung chuyển thần tiên của cơ thể khi bàn tay bị siết chặt, nỗi vui sướng cực độ của sự đắc thắng của đam mê.
Ôi, hạnh phúc phi thường sẽ tràn ngập tim bạn, khi những cái môi lần đầu tiên gặp nhau, khi những vòng tay siết chặt, biến hai người say đắm lẫn nhau còn thành có một.
Ông Saval ngồi xuống, để đôi bàn chân gần lò sưởi; ông đang mặc đồ ngủ.
Thật vậy, cuộc đời của ông đã hỏng, hoàn toàn hỏng. Tuy nhiên, ông cũng đã yêu. Ông yêu âm thầm, yêu đau khổ và thờ ơ, như ông vẫn thờ ơ với mọi việc. Vâng, ông đã yêu người bạn lâu đời của ông, bà Sandres, vợ người bạn già của ông là ông Sandres. Ôi, nếu ông biết được bà khi bà còn là con gái! Nhưng ông biết quá muộn, và bà đã có chồng. Nếu không, chắc chắn ông sẽ cưới bà. Ấy thế mà ông đã yêu bà say đắm, không lúc nào ngơi, ngay từ buổi gặp đầu tiên.
Ông nhớ tới nỗi hồi hộp khi gặp lại bà, nỗi buồn rầu khi từ giã bà, những đêm thao thức không ngủ với hình ảnh của bà lảng vảng trong đầu.
Sáng dậy luôn luôn ông nhớ đến bà ít hơn buổi chiều. Tại sao vậy?
Ôi, thuở ấy, bà đẹp làm sao! Bà hay nũng nịu, lúc nào cũng vui cười, với mái tóc vàng ươm uốn quăn. Sandres không phải là người chồng xứng với bà. Bây giờ, bà đã năm mươi tám tuổi. Bà có vẻ sống trong hạnh phúc. Phải chi xưa kia bà yêu ông! Vâng, nếu bà yêu ông… Mà tại sao bà không thể yêu ông, trong khi ông yêu bà tha thiết?
Hay ít ra, bà cũng đoán được điều gì… Có phải bà không đoán được điều gì, không nhìn thấy gì, không hiểu tí gì? Thế thì bà cảm nghĩ như thế nào? Nếu ông nói ra, bà trả lời ra làm sao?
Rồi Saval tự đặt ra nhiều câu hỏi khác. Ông sống lại thời gian qua của đời ông, cố tìm những chi tiết.
Ông nhớ tất cả những đêm dài đánh bài ở nhà ông Sandres, lúc người vợ còn trẻ và duyên dáng.
Ông nhớ những điều bà nói với ông, giọng nói của bà lúc bấy giờ, những cái mỉm cười của bà, những cái mỉm cười chứa đựng biết bao cảm nghĩ.
Ông nhớ những cuộc đi dạo của ba người, dọc theo sông Seine, nhớ những buổi ăn trưa của họ trên cỏ ngày Chúa nhật, vì ông Sandres làm việc ở tòa hành chánh quận. Rồi thình lình hiện rõ kỷ niệm của một buổi trưa ông ở bên cạnh bà dưới một chòm cây dọc theo bờ sông.
Họ ra đi buổi sáng, mang theo các thức ăn đựng trong giỏ xách. Hôm ấy là một ngày sáng sủa vào mùa xuân; một trong những ngày làm cho lòng người thấy say sưa, yêu đời. Cảnh vật, cây cối tỏa hương thơm, có vẻ vui tươi, sung sướng. Chim hát líu lo và bay lượn nhanh nhẹn. Họ dùng bữa trên cỏ, dưới mấy cây liễu, sát bên dòng nước chảy lờ đờ dưới ánh mặt trời. Không khí âm ẩm, lẫn lộn mùi nhựa cây. Ai nấy thở mạnh, trong lòng vô cùng cảm khoái. Thật là một ngày tốt trời.
Sau bữa ăn trưa, ông Sandres ngả lưng trên cỏ, ngủ khò; ông đã ngủ “một giấc ngon lành nhất trong đời ông”, như lời ông nói khi thức dậy.
Bà Sandres vịn vào cánh tay của Saval và hai người đi dọc theo bờ sông.
Bà tựa vào ông, vừa cười vừa nói:
- Tôi say rồi, anh ạ, tôi say thật.
Ông nhìn bà, trống ngực đập mạnh; mặt ông tái nhợt; ông sợ cái nhìn của ông quá táo bạo; ông sợ bàn tay run run của ông có thể làm cho bà biết được nỗi bí ẩn trong lòng ông.
Bà lấy cỏ sậy và dây bìm bìm vấn thành một vương mão đội lên đầu, rồi hỏi ông:
- Anh có thích tôi như thế này không?
Ông không trả lời, - vì ông không tìm được tiếng gì để trả lời, và nếu phải quỳ xuống, có thể ông sẽ làm được. Thế rồi, bà phát cười lên, nhưng một cái cười biểu lộ sự bực tức và nói thẳng vào mặt ông:
- Rõ ngớ ngẩn! Ít nhất anh phải nói điều gì chứ!
Ông suýt khóc lên, mà vẫn không tìm được tiếng gì để nói.
Giờ đây, cảnh này hiện rõ, y như ngày đầu. Tại sao bà nói với ông: “Rõ ngớ ngẩn! Ít nhất anh phải nói điều gì chứ!”
Ông nhớ bà tựa vào ông một cách dịu dàng, âu yếm. Lúc chui dưới một thân cây ngả nghiêng, ông cảm thấy vành tai của bà chạm vào má ông, và ông vụt lùi lại, sợ bà nghi rằng sự đụng chạm kia là cố ý.
Khi ông nói: “Nên về chưa?”, bà nhìn ông, ngạc nhiên. Thật vậy, bà nhìn ông một cách kỳ lạ. Thế mà lúc ấy ông không nghĩ đến, và bây giờ ông mới nhớ ra!
- Tùy anh. Nếu anh thấy mệt, thì chúng ta quay về.
Ông đáp:
- Không phải vì tôi mệt hay không; nhưng bây giờ, có lẽ Sandres đã thức dậy.
Bà nhún vai:
- Nếu anh sợ chồng tôi thức dậy, thì lại là một chuyện khác; thôi về.
Bận về, bà lặng lẽ đi, không thốt một lời và không còn vịn vào cánh tay ông. Tại sao?
Hai chữ “tại sao”, tới nay ông chưa hề đặt ra. Giờ đây, ông thoáng thấy một điều gì mà ông chưa hiểu bao giờ.
Hay là?…
Ông Saval cảm thấy máu nóng dồn lên mặt; ông đứng dậy, lòng xao xuyến, như được trẻ lại ba mươi năm để nghe bà Sandres nói: “Em yêu anh!”
Có thể được chăng? Sự ngờ vực này, vừa nảy sanh trong đầu ông, làm ông đứng ngồi không yên. Phải chăng hồi đó ông không nhìn thấy, không đoán ra?
Ồ, nếu đó là sự thật, hoặc giả ông đã đi kề hạnh phúc, nhưng không chụp lấy!
Ông tự bảo: “Phải tìm cho ra lẽ, chớ không thể sống trong sự ngờ vực này.”
Ông mặc vội vàng áo quần. Ông nghĩ thầm: “Mình đã sáu mươi hai tuổi, bà ta năm mươi tám; mình có thể hỏi bà điều đó.”
Rồi ông đi ra.
Nhà của ông Sandres nằm ở bên kia đường, gần như đối diện với nhà ông. Ông đi sang bên đó. Nghe tiếng gõ cửa, đứa gái nhỏ giúp việc bước ra mở cửa.
Con bé ngạc nhiên thấy ông đến quá sớm:
- Thưa ông Saval ạ. Có chuyện chi mà ông đến sớm thế?
- Không có chuyện chi cả, nhưng cháu vào thưa với bà rằng bác muốn gặp bà.
- Bà cháu đang làm mứt dâu để trữ vào mùa đông; bà hiện ở dưới bếp và không có trang điểm.
- Thì cháu cứ vào nói có một vụ hết sức quan trọng.
Đứa tớ gái quay vào, và Saval đi tới đi lui trong phòng, bước những bước dài, thần kinh căng thẳng. Tuy nhiên, ông không thấy bối rối. Ồ, ông sẽ hỏi bà điều đó, giống như hỏi cách thức làm một món ăn. Ông đã sáu mươi hai tuổi rồi mà!
Cánh cửa mở, bà bước ra. Bây giờ, bà là một người to lớn, béo tròn, gò má căng lên, tiếng cười rổn rang. Bà bước đi, hai tay đưa ra ngoài, tay áo xắn lên, cánh tay dính đầy mật dâu. Bà hỏi với vẻ áy náy:
- Chuyện gì đấy, hả anh? Anh có bị ốm không?
- Không, nhưng tôi muốn hỏi chị một điều mà đối với tôi rất quan trọng và làm cho tôi bứt rứt trong lòng. Chị bằng lòng hứa sẽ trả lời thành thật không?
Bà mỉm cười:
- Lúc nào tôi cũng thành thật. Có gì anh cứ nói.
- Đây này, tôi đã yêu chị ngay từ ngày biết chị. Hồi đó, chị có nghi ngờ không?
Bà vừa cười vừa đáp với giọng thuở nào:
- Rõ ngớ ngẩn! Tôi đã biết ngay từ buổi đầu!
Saval run lên… Ông ấp úng:
- Chị biết à? Thế thì…
Rồi ông nghẹn lời.
Bà hỏi:
- Thế thì?… Nghĩa là sao?
Ông nói tiếp:
- Thế thì… lúc ấy chị nghĩ thế nào? Chị… chị… trả lời ra làm sao?
Bà cười to lên. Những giọt xi rô chảy đọng xuống đầu các ngón tay bà, và nhểu xuống nền nhà bằng ván.
- Tôi à? Nhưng hồi đó anh có hỏi gì tôi đâu. Tôi không có nhiệm vụ tỏ tình với anh!
Thế rồi, ông bước một bước lại gần bà:
- Chị hãy cho tôi biết… hãy cho tôi biết… Chị còn nhớ ngày mà Sandres ngủ trên bãi cỏ sau bữa ăn trưa…, ngày mà chị và tôi đi chung, tới khúc quẹo, ở chỗ ấy…
Ông chờ đợi câu trả lời. Bà hết cười và nhìn thẳng vào ông:
- Dĩ nhiên, tôi nhớ.
Ông tiếp, người run lên:
- Được rồi. Hôm ấy, nếu tôi… nếu tôi… táo bạo… chị sẽ làm gì?
Bà lại mỉm cười, cái mỉm cười của một người đàn bà không hối hận điều gì, và bà thành thật đáp, bằng một giọng rõ ràng ẩn một ít mỉa mai:
- Có lẽ tôi không kháng cự, anh ạ.
Rồi bà quay gót, bỏ chạy xuống với các lọ mứt của bà.
Saval trở ra ngoài đường, rũ rượi như sau một cơn tai biến. Ông đi nhanh, bước những bước dài dưới cơn mưa, thẳng trước mặt, theo cái dốc chạy xuống sông, không nghĩ mình đi đâu. Khi tới con sông, ông quẹo sang phải và đi dọc theo bờ sông. Ông đi rất lâu, như bị thúc đẩy bởi bản năng. Quần áo ông nhểu nước thành giọt, còn cái nón ông thấm nước trở nên méo mó, mềm nhũn, khiến cho nước mưa chảy xối xả, như nước trên mái nhà. Ông vẫn đi, vẫn bước thẳng trước mặt. Và ông tới nơi mà ông cùng mấy người kia ăn trưa vào ngày xa xăm nọ, mà kỷ niệm ngày nay giày vò quả tim ông.
Thế rồi, ông ngồi dưới đám cây đã rụng lá và khóc tức tưởi.