← Quay lại trang sách

SỢI NHỢ (1883)

Trên khắp các con đường chung quanh Goderville, nhiều nông dân và các bà vợ kéo nhau đến thị trấn này, vì hôm ấy là ngày phiên chợ. Những người đàn ông đi lặng lẽ, toàn thân ngả về phía trước theo mỗi bước đi; chân họ dài và vẹo, bị biến dạng, vì họ làm lụng vất vả, vì họ phải đè lên cái cày, khiến cho vai trái bị xếch lên, đồng thời thân người bị lệch, vì họ phải xoạc hai đầu gối ra để đứng cho vững khi gặt lúa, vì tất cả những công việc chậm chạp và nặng nhọc của đồng áng. Chiếc áo thụng khoác ngoài của họ màu xanh, được hồ cứng, bóng láng như sơn, có hình thêu bằng chỉ trắng ở cổ áo và ở đầu tay áo; chiếc áo phủ lên thân hình gầy còm của họ, phồng lên như một quả bóng sắp bay, và để ló ra một cái đầu, hai cánh tay và hai bàn chân.

Nhiều gã lôi ở đầu sợi dây thừng một con bò cái hay con bê. Và các bà vợ đi sau, cầm một cành cây còn lá quất vào lưng con vật để thúc nó đi. Họ ôm ở tay những cái thúng to, chỗ này thò ra đầu mấy con gà, chỗ kia đầu mấy con vịt. Họ bước những bước ngắn và nhanh hơn chồng họ, thân hình khô đét, suông đuột, vai khoác một khăn choàng chật, được ghim trên bộ ngực lép, đầu phủ một mảnh vải trắng dính liền với mái tóc, trên chụp một cái mũ trùm.

Rồi một chiếc xe thổ mộ chạy qua, theo nước kiệu giằn giật của một con ngựa nhỏ; chiếc xe làm lắc lư một cách kỳ lạ hai người đàn ông ngồi cạnh nhau và một người đàn bà ngồi trong cùng; người này phải vịn vào thành xe để đỡ bớt những cú xóc mạnh.

Tại công trường Goderville, dân chúng họp thành một đám đông, một đám hỗn độn giữa người và thú vật. Những sừng bò, những cái mũ cao, tua tủa lông dài, của các nông dân giàu có, những cái nón chóp của các bà nhà quê nhô lên giữa đám đông ấy. Và những tiếng kêu điếc tai, chát chúa, ăng ẳng tạo nên một âm thanh ầm ĩ liên tục và man rợ, thỉnh thoảng bị át đi bởi tiếng cười ngất phát ra từ bộ ngực lực lưỡng của một nông dân đang hứng thú hay bởi tiếng rống dài của một con bò cái bị cột ở bức tường một ngôi nhà.

Tất cả những gì ở đó đều sặc mùi chuồng bò, mùi sữa, mùi phân, mùi cỏ khô, mùi mồ hôi, và đồng thời cũng xông lên một hơi chua ghê tởm của người và thú vật, một hơi chua đặc biệt của những kẻ sống nơi đồng ruộng.

Lão Hauchecorne, người ở Bréauté, vừa tới Goderville, và đang trên đường đi vào chợ, thì thấy một khúc nhợ ở dưới đất. Với tính cần kiệm của người Normandie chính tông, ông nghĩ rằng cái gì có thể dùng được thì nên nhặt lấy; và ông cúi xuống một cách khó nhọc, vì ông mắc phải bệnh phong thấp. Ông nhặt khúc nhợ nhỏ bé lên, toan cuộn lại cẩn thận, thì ông chợt thấy ông Malandain, làm nghề buôn yên cương ngựa, đứng ở thềm cửa nhà ông ta, đang nhìn ông. Hai người trước đây có chuyện xích mích với nhau vì một sợi dây vòng cổ gia súc, và vẫn còn giận nhau vì cả hai đều có tánh thù vặt. Ông Hauchecorne cảm thấy ngượng nghịu vì bị kẻ thù trông thấy đang nhặt một khúc nhợ trong bùn dơ. Ông giấu nhanh của nhặt được dưới chiếc áo thụng, rồi đút nó vào túi quần; đoạn ông giả vờ tìm thêm một vật gì dưới đất, nhưng không thấy, và ông đi về phía chợ, đầu ngả về đằng trước, lưng gập đôi vì chứng phong đau nhức.

Chẳng mấy chốc, ông mất hút trong đám người ồn ào, đang đi lại chậm chạp và không ngớt mặc cả một cách náo nhiệt. Mấy người nông dân sờ nắn các con bò cái, xong bỏ đi, rồi trở lại, do dự, luôn luôn lo sợ mắc lừa, không bao giờ dám quyết định, rình dò khóe mắt người bán, cố tìm cho ra mưu chước của hắn và khuyết điểm của con vật.

Mấy người đàn bà đặt những cái thúng to của họ dưới chân, lôi gà vịt bày la liệt dưới đất, con nào cũng bị trói chân, mắt sợ hãi, mồng đỏ chói.

Họ nghe những sự mặc cả, nhưng giữ y giá, nét mặt dửng dưng, lạnh lùng, hoặc bất thần, họ chịu bớt và gọi giật người khách hàng đang bỏ đi từ từ:

- Thôi được, bác Anthime. Bán cho bác đấy.

Rồi dần dần, công trường thưa người, và khi chuông nhà thờ đổ mười hai giờ trưa, những kẻ ở quá xa tản mác vào các quán trọ.

Tại quán lão Jourdain, căn phòng lớn đông nghẹt khách ăn, cũng như cái sân rộng trước quán đầy rẫy các loại xe, xe bò, xe ngựa, xe thổ mộ, xe song mã và nhiều thứ xe khác không biết gọi là xe gì; chiếc nào cũng dính đầy bùn đất, vàng lườm, chiếc này méo mó, chiếc kia chắp vá, càng xe thì chổng lên như đôi cánh tay đưa lên trời, hoặc đầu xe chúi xuống, còn đuôi xe thì dốc lên.

Sát bên cạnh các thực khách ngồi ở bàn ăn, một cái lò to lớn, lửa sáng rực, hắt hơi nóng vào lưng của hàng người ngồi ở bên phải. Ba cây cần nướng thịt đang xoay tròn, nặng trĩu những gà, bồ câu, đùi cừu. Từ trong lò, mùi thịt nướng, mùi nước thịt tươm ra trên da quay vàng óng, bay tỏa ra thơm phức, làm cho ai nấy thêm hứng thú và thèm chảy nước miếng.

Tất cả giới thượng lưu của hạng dân cày đều ăn ở đó, nơi quán của lão Jourdain, một chủ quán kiêm nghề lái ngựa, một tay quỷ quyệt có nhiều tiền.

Các dĩa thức ăn chuyển tiếp, qua một vòng là hết sạch, cũng như các bình rượu táo, màu vàng, cạn nhanh chóng. Ai nấy đều kể chuyện làm ăn, mua bán của mình. Người ta hỏi thăm nhau về mùa màng, và cho rằng thời tiết hợp với các đồng cỏ, nhưng hơi ẩm ướt đối với lúa mì.

Bỗng nhiên, một hồi trống vang lên ở ngoài sân, ngay trước quán ăn. Trừ một vài kẻ thờ ơ, còn ai nấy đều đứng dậy và chạy ra cửa lớn, chạy đến các cửa sổ, miệng còn đầy thức ăn, và tay cầm chiếc khăn ăn.

Hồi trống vừa dứt, người rao lệnh của thị trấn, với giọng dục dặc không đều và cách ngắt câu không đúng chỗ, hô lên rằng:

- Nay cáo tri cho dân chúng ở Goderville và nói chung cho tất cả mọi người có mặt tại chợ biết rằng sáng nay, có xảy ra vụ đánh mất trên đường - đi Beuzeville - khoảng từ chín đến mười giờ, một cái ví da đen, trong đựng năm trăm quan và nhiều giấy tờ về việc làm ăn. Ai tìm được, xin đem nạp lập tức tại tòa thị chính, hoặc tại nhà ông Fortune Houlbrèque ở Manerville. Sẽ được hai mươi quan tiền thưởng.

Rồi người rao lệnh quay đi. Ai nấy còn nghe một lần nữa, từ đằng xa, tiếng trống trầm và giọng rao yếu ớt của hắn.

Thế là người ta bắt đầu bàn tán về vụ này, và nêu ra những trường hợp may rủi mà ông Houlbrèque sẽ tìm lại được hoặc không tìm lại được cái ví của ông.

Và bữa ăn đã xong.

Ai nấy vừa uống cạn tách cà phê, thì viên trung sĩ hiến binh hiện ra trước thềm.

Hắn hỏi:

- Ông Hauchecorne, ở Bréauté, có mặt đây không?

Lão Hauchecorne, ngồi ở đầu kia bàn ăn, liền trả lời:

- Có tôi đây.

Viên trung sĩ nói tiếp:

- Ông Hauchecorne, xin ông vui lòng theo tôi đến tòa thị chính. Ông thị trưởng muốn nói chuyện với ông.

Lão nông dân, ngạc nhiên và lo ngại, dốc một hơi cạn ly rượu mạnh của ông, rồi đứng dậy, lưng càng khòm hơn buổi sáng, vì sau mỗi lần nghỉ ngơi, những bước đầu đều khó nhọc một cách đặc biệt; ông bước đi, miệng nhắc lại:

- Có tôi đây, có tôi đây.

Và ông đi theo viên trung sĩ.

Ông thị trưởng ngồi trong một cái ghế bành, đợi lão nông dân. Ông kiêm chức chưởng khế trong vùng; ông người to béo, nghiêm nghị, lời lẽ trịnh trọng.

Ông nói:

- Ông Hauchecorne, sáng nay, trên đường đi Beuzeville, người ta thấy ông nhặt cái ví da của ông Houlbrèque ở Manerville.

Lão nhà quê, sửng sốt, nhìn ông thị trưởng, và đâm ra lo sợ bởi sự nghi ngờ này, mà ông không hiểu vì lý do gì.

- Tôi, tôi, tôi đã nhặt cái ví da ấy?

- Phải, chính ông.

- Tôi xin lấy danh dự thề rằng tôi không hề hay biết gì về cái ví này.

- Người ta đã trông thấy ông.

- Người ta đã trông thấy tôi? Ai vậy, ai đã trông thấy tôi?

- Ông Malandain, người buôn yên cương.

Thế là lão già sực nhớ lại, hiểu ngay và giận đỏ mặt:

- À, nó đã thấy tôi, thằng khốn nạn ấy! Nó đã thấy tôi nhặt sợi nhợ này, đây, ông thị trưởng.

Và, lục trong đáy túi, ông lôi ra khúc nhợ nhỏ bé.

Nhưng ông thị trưởng không tin và lắc đầu:

- Ông Hauchecorne, ông không thể nào làm tôi tin một việc không thể có, là ông Malandain, một người đáng tin cậy, đã nhầm sợi nhợ này với một cái ví da.

Lão nông dân, giận dữ, đưa tay lên, nhổ nước bọt sang bên góc để chứng tỏ danh dự của mình và lập lại:

- Thưa ông thị trưởng, ấy thế mà đó là sự thật, sự thật thiêng liêng. Điều này, tôi xin thề trên linh hồn và trên sinh mạng của tôi, tôi xin lập lại như vậy.

Ông thị trưởng nói tiếp:

- Sau khi đã nhặt cái ví, ông lại còn tìm thêm một hồi lâu trong bùn, xem có đồng tiền nào văng ra ngoài không.

Lão già chất phác phẫn uất và sợ hãi đến nghẹt thở.

- Người ta dám nói được!… Người ta dám nói được những điều man trá ấy để hại một kẻ lương thiện à! Người ta dám nói được!…

Ông phản kháng, nhưng vô ích, vì không ai tin.

Ông được đối chất với ông Malandain; ông này lập lại và giữ vững sự đoan chắc của mình. Hai người chửi nhau trọn một tiếng đồng hồ. Theo lời yêu cầu của ông Hauchecorne, người ta khám người ông, nhưng không tìm thấy gì cả.

Sau cùng, ông thị trưởng rất lấy làm khó xử, bèn cho ông về, nhưng báo trước cho ông biết rằng ông ta sẽ trình biện lý cuộc và xin chỉ thị.

Tin trên truyền đi. Khi ông ra khỏi tòa thị chính, nhiều người vây quanh và hỏi han với tánh hiếu kỳ nghiêm chỉnh hoặc có vẻ đùa cợt, nhưng không ai phẫn nộ. Ông mới thuật lại chuyện sợi nhợ. Người ta không tin ông. Họ chỉ cười.

Dọc đường, ông bị tất cả mọi người chận lại, và chính ông cũng chận những người quen, kể đi kể lại không ngừng câu chuyện cùng những sự phản kháng của ông, và lộn ngược hai túi quần cho ai nấy xem để chứng minh rằng ông không có gì cả.

Người ta nói với ông:

- Thôi đi, cha nội!

Ông phát cáu, tức tối, mặt mày nóng bừng, khổ tâm vì chẳng ai tin, không biết phải làm sao, và cứ kể mãi câu chuyện của mình.

Trời đã sẩm tối. Ông phải đi về. Ông đi cùng với ba người láng giềng, chỉ cho họ chỗ nhặt được sợi nhợ, và suốt dọc đường, ông nói đến vụ biến cố của mình.

Tối đến, ông đi một vòng trong làng Bréauté, để thuật lại chuyện đó cho ai nấy nghe. Ông chỉ toàn gặp những kẻ không tin ông.

Do đó, ông trằn trọc suốt đêm.

Hôm sau, vào khoảng một giờ trưa, Marius Paumelle, người giữ trại của ông Breton, một nông gia ở Ymauville, đem trả cái ví và những thứ đựng trong ấy cho ông Houlbrèque ở Manerville.

Theo lời hắn nói, thì thật sự, hắn đã nhặt được món đồ ấy ngoài đường, nhưng vì không biết đọc, hắn đã đem về nhà và trao cho chủ hắn.

Tin này truyền tới các vùng lân cận và tới tai ông Hauchecorne. Ông liền làm một chuyến xuất hành, và bắt đầu kể lại câu chuyện, bổ túc thêm phần kết thúc của nó. Ông đã đắc thắng.

Ông nói:

- Điều làm cho tôi khổ tâm, không phải là chuyện xảy ra to tát gì, chắc các ông cũng hiểu, mà là cái trò gian trá. Không gì tai hại bằng bị chê cười vì một lời nói gian trá.

Suốt ngày, ông kể vụ biến cố, kể ở các ngả đường cho những người qua lại nghe, ở quán rượu cho những người đang uống, tại nhà thờ lúc tan lễ, vào ngày Chúa nhật kế tiếp. Ông chận những người không quen để kể với họ. Bây giờ ông đã yên tâm, tuy vậy vẫn có điều gì làm cho ông khó chịu, mà ông không hiểu đích xác là điều gì. Người ta có vẻ đùa cợt khi nghe ông nói. Họ tỏ ra không bị thuyết phục. Ông cảm thấy hình như người ta nói những lời gièm pha sau lưng ông.

Thứ Ba tuần sau đó, ông đi chợ Goderville với mục đích duy nhất là trình bày trường hợp của ông, sự trình bày mà ông thấy cần thiết.

Malandain, đứng ở cửa nhà hắn, cười lên khi nhìn thấy ông đi qua. Tại sao?

Ông đến tâm sự với một chủ trại ở Criquetot. Người này không để cho ông nói xong, mà lấy tay vỗ vào bụng ông và nói tạt vào mặt: “Thôi đi, tay tố!” Rồi hắn quay gót.

Lão Hauchecorne sửng sốt và càng lúc càng thêm lo ngại. Tại sao người ta gọi ông là “tay tố”?

Khi ngồi vào bàn ăn ở quán cơm Jourdain, ông lại đem câu chuyện ra giải thích.

Một tay lái ngựa ở Montivilliers la lớn:

- Thôi, thôi, tổ bịp ơi, cái trò của cha tôi biết quá!

Lão Hauchecorne ấp úng:

- Nhưng người ta đã tìm được cái ví rồi cơ mà!

Nhưng người kia nói tiếp:

- Im đi, cha ơi, có một người nhặt được, và có một người đem trả. Không ai thấy, chẳng ai hay, tao cho chúng bây mò.

Lão nông dân nghẹn họng. Bây giờ ông mới hiểu. Người ta đổ tội cho ông đã sai một tên đồng bọn, một tên đồng lõa đem trả cái ví da.

Ông muốn phản đối. Cả bàn cười ầm lên.

Ông bỏ dở bữa cơm, ra về, giữa những lời nhạo báng.

Về đến nhà, ông hổ thẹn và tức tối, uất hơi vì cơn giận, vì xấu hổ, và càng rụng rời hơn nữa khi ông nghĩ rằng, với tánh ranh vặt trong con người Normandie của ông, ông cũng có thể làm điều mà người ta đổ tội cho ông, để rồi lại còn tự hào đã chơi một trò tuyệt diệu. Ông cảm thấy một cách mù mờ là không thể nào chứng minh được sự ngay thật của mình, vì ai cũng biết tánh tinh ranh của ông. Và ông có cảm tưởng bị một đòn chí tử bởi sự nghi ngờ bất chính.

Thế rồi, ông lại bắt đầu kể lại việc không may của ông, mỗi ngày kéo dài câu chuyện ra, mỗi lần thêm những lý lẽ mới, những sự phản đối quyết liệt hơn, những lời thề long trọng hơn, mà ông đã nghĩ ra, đã soạn thảo trong những khi thanh vắng một mình; đầu óc ông chỉ bận rộn về chuyện sợi nhợ. Cách bào chữa của ông càng phức tạp và sự biện luận của ông càng tinh vi bao nhiêu, thì người ta lại càng ít tin ông bấy nhiêu.

Người ta nói sau lưng ông:

- Đó là lý lẽ của bọn nói dối.

Ông nhận thấy điều này, đâm ra ưu sầu và kiệt sức vì những cố gắng vô ích.

Ông gầy đi trông thấy.

Những người có tính hài hước nay lại bảo ông kể chuyện “sợi nhợ” để đùa cợt, cũng như người ta bảo anh lính kể lại trận đánh mà anh ta đã tham dự ở chiến trường. Tinh thần ông bị tổn thương tận gốc và suy nhược.

Vào khoảng cuối tháng Chạp, ông lâm bệnh, nằm liệt giường.

Ông chết trong những ngày đầu tháng Giêng, và trong cơn mê sảng khi hấp hối, ông chứng minh sự ngay thật của ông, và nhắc lại:

- Một sợi nhợ nhỏ xíu…, một sợi nhợ nhỏ xíu… đây, ông thị trưởng.