NGƯỜI CHA (1887)
Thỉnh thoảng, tôi đến thăm người bạn thân là Jean de Valnoix. Hắn ở trong một ngôi nhà cổ bên cạnh con sông, trong một cánh rừng thưa. Hắn trở về đó sau mười lăm năm sống một cuộc đời điên rồ tại Ba Lê. Tại đây, bỗng nhiên hắn đâm chán những cảnh vui chơi, những bữa dạ tiệc, chán cả đàn ông, đàn bà, các cuộc đổ bác, chán tất cả, và hắn trở về lãnh địa này là nơi hắn đã sinh trưởng.
Tôi cùng một vài người bạn thỉnh thoảng đến ở với hắn vài ba tuần lễ. Thật tình, hắn rất vui mừng gặp lại chúng tôi, và hắn cũng thích thú được sống trở lại trong cảnh cô đơn khi chúng tôi ra đi.
Tuần trước, tôi đến thăm hắn và được tiếp đón niềm nở. Có những lúc chúng tôi ở cạnh nhau hàng giờ, có những lúc ở riêng rẽ. Thường thường, ban ngày hắn đọc sách, còn tôi thì làm việc; buổi tối, chúng tôi trò chuyện với nhau tới nửa đêm.
Hôm ấy là ngày thứ Ba. Sau một ngày nóng bức, ngột ngạt, vào khoảng chín giờ tối, cả hai chúng tôi ngồi nhìn dòng sông chảy dưới chân chúng tôi và bàn vu vơ về những ngôi sao đang soi mình dưới dòng nước và hình như đang bơi lội trước mặt chúng tôi. Chúng tôi trao đổi những ý nghĩ rất vu vơ, rất mơ hồ, rất ngắn ngủi, bởi lẽ trí óc chúng tôi rất thiển cận, rất non nớt, rất yếu kém. Tôi thì mủi lòng về số phận càng ngày càng mai một của ngôi sao sáng nhất trong chòm Đại Hùng tinh. Sao ấy quá mờ nên chỉ trông thấy được vào những đêm trong trẻo. Khi trời có sương mù, người ta không trông thấy nó nữa; nó như một ngôi sao sắp chết. Chúng tôi nghĩ đến những sinh vật ở trên những thế giới ấy, đến những hình thù quái dị, những khả năng bất ngờ, những cơ thể không sao biết được của chúng, đến những loài thú vật, những loài thảo mộc, mọi giống, mọi giới, mọi tinh thể, mọi vật thể, mà cái mộng của con người không làm gì được, dù chỉ phớt qua.
Thình lình có tiếng gọi đằng xa:
- Thưa ông, thưa ông!
Jean đáp:
- Tôi đây, Baptiste.
Khi người gia nhân tìm ra chúng tôi, anh ta báo tin:
- Lại chính bà lãng tử của ông chủ.
Bạn tôi bật cười, cười ngất mà ít khi thấy hắn cười như thế, rồi hắn hỏi:
- Vậy hôm nay là ngày 19 tháng Bảy?
- Thưa phải.
- Được rồi. Anh bảo bà ta đợi tôi. Mời bà ấy dùng cơm tối. Tôi sẽ trở về trong mười phút.
Khi người gia nhân đã quay đi, bạn tôi nắm cánh tay tôi và nói:
- Chúng ta hãy đi thong thả, tôi sẽ kể cho anh nghe câu chuyện này.
Cách nay bảy năm, cũng là năm đầu tiên tôi đến đây, một đêm nọ, tôi đi dạo quanh cánh rừng. Đêm ấy cũng tốt trời như đêm nay. Tôi lần bước dưới những cây to, ngắm các ngôi sao qua lá cây, hít đầy cái không khí mát mẻ trong sự yên tĩnh của cánh rừng và đêm hôm.
Tôi vừa rời Ba Lê mãi mãi. Tôi đã mệt, thấm mệt, và đau đớn không thể tả bởi những sự điên rồ, những sự tồi bại, những sự ô uế mà tôi đã chứng kiến và chính tôi cũng đã nhúng tay vào suốt mười lăm năm trời.
Tôi đi sâu, rất sâu vào khu rừng thẳm này, theo một con đường lõm dẫn đến làng Crouzille, cách đó mười lăm cây số.
Con chó Bock của tôi, một loại bẹc giê to lớn, chạy trước tôi; nó không bao giờ rời tôi ra. Thình lình, nó dừng hẳn lại, sủa ầm. Tôi tưởng nó đánh hơi được một con chồn, một con chó sói hay một con heo rừng. Tôi từ từ tiến lên, bước nhẹ trên đầu ngón chân để không gây tiếng động; nhưng bất ngờ, tôi nghe tiếng người kêu lạ, rên rỉ như bị hụt hơi và thê thảm.
Chắc chắn đã xảy ra một vụ ám hại trong lùm cây nào đây, và tôi liền chạy tới, tay siết chặt một cây gậy bằng gỗ sồi, nặng như quả chùy.
Tôi vừa đến nơi thì tiếng rên la nghe càng rõ, nhưng trầm nhỏ. Có thể nói những tiếng rên la ấy xuất phát từ một ngôi nhà hay một cái chòi của thợ đốt than. Con chó Bock chạy trước tôi ba bước, khi thì chạy, khi thì dừng lại, rất xông xáo, mồm luôn luôn sủa. Thình lình một con chó khác, màu đen, to lớn, với đôi mắt sáng như lửa, cản đường tôi lại. Răng nanh nó lóe sáng trong mồm.
Tôi chạy thẳng đến nó, đưa cây gậy lên cao, nhưng con chó Bock đã nhảy chồm lên nó, rồi cả hai cùng lăn lộn dưới đất và cắn cổ lẫn nhau. Tôi cứ thẳng tiến và suýt đụng phải một con ngựa đang nằm trên đường. Quá ngạc nhiên, tôi dừng lại để xem xét con ngựa, thì chợt thấy đằng trước tôi một chiếc xe, hay đúng hơn là một cái nhà lưu động có gắn bánh xe, giống như loại nhà lưu động của bọn múa xiếc hay của những người buôn hàng rong, thường đi lại ở thôn quê, từ phiên chợ này qua phiên chợ khác.
Tiếng rên la xuất phát từ nơi đó, ghê rợn và liên tiếp. Vì cánh cửa nằm về phía bên kia, nên tôi phải đi vòng quanh chiếc xe, rồi bước nhanh lên ba bậc thang gỗ, sẵn sàng tấn công bất ngờ tên bất lương.
Những điều tôi trông thấy có vẻ kỳ lạ đến nỗi lúc đầu, tôi không hiểu gì cả. Một người đàn ông đang quỳ, hình như là cầu nguyện, trong khi trên một chiếc giường đặt trên xe, một vật khó nhận ra, một hình dáng người phân nửa khỏa thân mà tôi không thấy rõ mặt, đang co quắp, lăn lộn, cựa quậy và la hét.
Thì ra đó là một người đàn bà đang đau đẻ.
Khi tôi đã hiểu rõ loại tai nạn gây ra tiếng rên la này, tôi liền cho biết sự hiện diện của mình. Người đàn ông đang cuống quýt kia - một anh chàng quê ở Marseille - liền năn nỉ tôi cứu giúp hắn lẫn người đàn bà, và không tiếc lời hứa hẹn một sự đền ơn quá sức tưởng tượng. Tôi chưa bao giờ thấy một vụ sinh đẻ, chưa bao giờ cứu giúp một sinh vật thuộc nữ phái, dù là đàn bà, chó cái hay mèo cái trong trường hợp này. Tôi thú thật ngây ngô như vậy, trong khi mắt nhìn một cách sững sờ người đàn bà đang rên la inh ỏi trên giường.
Sau khi lấy lại được bình tĩnh, tôi hỏi người đàn ông khốn đốn kia tại sao hắn không đi đến ngôi làng ở trước mặt. Hắn nói là vì con ngựa bị sụp ổ gà, gãy chân, không thể đứng dậy được nữa.
Tôi bảo:
- Thế này thì ông bạn hãy cùng tôi kéo chiếc xe đưa bà vợ ông về nhà tôi vậy.
Nhưng tiếng hai con chó cắn lộn dữ dội bắt buộc chúng tôi phải chạy ra lấy cây đập chúng, thiếu điều đập chết, chúng mới chịu rời ra. Rồi tôi có sáng kiến là cột chúng vào xe, con bên phải, con bên trái, dưới chân chúng tôi, để phụ chúng tôi kéo chiếc xe. Sau mười phút, đâu đó xong xuôi, và xe từ từ chuyển bánh; trên những mỏm đất gồ ghề, chiếc xe dằn xóc người sản phụ đang đau đớn.
Đường xấu làm sao, anh ạ! Chúng tôi thấm mệt, thở hổn hển và ướt đầm mồ hôi trên con đường trơn trượt, đôi khi vấp ngã, còn hai con chó thở rống như hai ống thổi hơi của thợ rèn, thổi vào chân chúng tôi.
Phải mất ba tiếng đồng hồ, chúng tôi mới về đến nhà. Khi tới cửa, thì tiếng rên la trên xe đã tắt từ hồi nào. Cả mẹ lẫn con đều khỏe mạnh.
Đứa trẻ sơ sinh là một đứa con gái.
Hai mẹ con được đặt trong một cái giường tử tế. Rồi tôi bảo thắng ngựa để đi tìm một y sĩ, trong khi anh chàng người Marseille, được yên tâm, được an ủi và đắc thắng, nên ăn ngấu nghiến quên thôi và uống rượu đến say như chết để mừng sự sinh đẻ may mắn này.
Tôi cho họ tá túc tám ngày tại nhà tôi. Người mẹ, tức cô Elmire, là một người mộng du, biết rõ chuyện quá khứ vị lai. Nàng tiên đoán rằng tôi sẽ có một đời sống trường tồn bất tận và vô số diễm phúc.
Năm sau, cũng vào ngày ấy, lúc trời sẩm tối, người gia nhân Baptiste gọi tôi khi nãy, vào tìm tôi tại phòng riêng, sau bữa cơm tối, và nói: “Bà lãng tử năm rồi nay lại đến tạ ơn ông chủ.”
Tôi bảo mời bà ta vào, và tôi sửng sốt khi thấy cạnh nàng một gã đàn ông to lớn, tóc vàng hoe, người miền Bắc. Chào tôi xong, hắn lên tiếng trước, với tư cách là người chỉ huy nhóm cộng đồng ấy. Hắn được biết lòng hào hiệp của tôi đối với cô Elmire và hắn không muốn để ngày sinh nhật ấy trôi qua mà không đến ngỏ lời cảm tạ và tỏ lòng tri ân của họ đối với tôi.
Tôi đãi họ ăn tối ở nhà bếp và cho họ tá túc một đêm. Sáng hôm sau họ ra đi.
Thế là người đàn bà kia trở lại mỗi năm, đúng vào ngày hôm ấy, với đứa con gái xinh xắn và một… chủ soái mới, ở mỗi kỳ. Riêng một anh chàng nọ, quê miền Auvergne, đã “chúc mừng” tôi hai năm liên tiếp. Đứa con gái gọi tất cả những gã đàn ông ấy là “ba” cũng như ở đây chúng ta gọi là “ông” vậy.
Khi vào tới nhà, chúng tôi thoáng thấy ba bóng người đang đứng chờ chúng tôi trước bậc thềm.
Bóng người cao lớn nhất tiến tới bốn bước và vái chào một cách trịnh trọng:
- Thưa bá tước, hôm nay, ngài biết chăng, chúng tôi đến đây để tỏ lòng tri ân của chúng tôi…
Đó là một người Bỉ!
Tiếp theo hắn, cái bóng nhỏ nhất lên tiếng, với một giọng đã luyện trước và mất tự nhiên của những đứa con nít đã học thuộc lòng và đọc lại một lời chúc tụng.
Tôi giả vờ không biết gì cả và nói chuyện riêng với cô Elmire. Sau vài câu trao đổi, tôi hỏi:
- Có phải đó là cha của con nhỏ?
- Thưa ông, không phải!
- Thế cha nó đâu, qua đời rồi chăng?
- Đâu có! Đôi khi chúng tôi vẫn còn tới lui với nhau. Anh ta là một hiến binh.
- Thế à! Tức là không phải anh chàng người Marseille, người thứ nhất, lúc xảy ra vụ sinh đẻ?
- Không phải đâu! Tên đó là một tên bất lương, hắn đã vơ vét hết tiền bạc của tôi.
- Thế còn người hiến binh, tức là người cha thật, hắn có biết con của hắn không?
- Thưa ông, có, và anh ta cũng thương con nhỏ lắm; nhưng anh ta không thể chăm lo được, vì anh ta còn có nhiều đứa con khác, do vợ chồng anh ta sanh ra.