BÀ THỢ MAY (1886)
Những kỷ niệm cổ xưa phải chăng thật kỳ lạ? Chúng cứ theo ám ảnh ta và không có cách gì xóa bỏ được.
Kỷ niệm sau đây rất lâu đời, rất xa xăm trong dĩ vãng, và tôi không hiểu vì sao nó vẫn còn rõ rệt và tồn tại trong óc tôi. Tôi đã từng thấy nhiều chuyện tang thương, cảm động hoặc ghê gớm, nhưng tôi ngạc nhiên nhận thấy không ngày nào hình ảnh của bà Clochette không hiện ra trước mắt tôi, y như thuở tôi biết bà, cách nay thật lâu, lúc tôi được mười hay mười hai tuổi.
Thuở ấy, bà là một bà thợ may già, mỗi tuần đến một ngày, vào thứ Ba, để khâu vá áo quần cho cha mẹ tôi. Cha mẹ tôi ở trong một ngôi nhà ở thôn quê, thuộc loại nhà gọi là lâu đài, mà thật sự các lâu đài này chỉ là những ngôi nhà cổ xưa, nóc nhọn, với bốn hay năm nông trại cất chung quanh.
Ngôi làng, một làng to lớn, được tập trung trong một thị trấn, cách đó vài trăm thước. Nhà cửa chen chúc chung quanh một nhà thờ bằng gạch đỏ, mà lâu nay đã trở nên đen.
Thế là, mỗi ngày thứ Ba, bà Clochette đến vào giữa sáu giờ rưỡi và bảy giờ sáng, rồi bà lên ngay trên phòng để áo quần và bắt đầu làm việc.
Đó là một người đàn bà cao, gầy, có lông mặt thật nhiều, mọc khắp cả mặt; lông mày của bà thật rậm và thật dài, màu xám tro, tua tủa, trông như một cặp râu mép đặt không đúng chỗ.
Bà đi cà nhắc, không giống như những người què quặt thường, mà giống như một chiếc tàu bỏ neo, đang tròng trành trên mặt nước. Khi bà đặt thân mình bị lệch và to lớn, nhưng chỉ có xương và da, lên trên cái chân còn tốt, thì bà có vẻ như lấy đà để phóng lên cao, giống như chiếc tàu định chồm lên một ngọn sóng khổng lồ, rồi, thình lình, bà nhào chúi xuống phía trước, như nhào xuống một vực thẳm. Cách đi của bà gợi lên ý nghĩ một cơn bão trên mặt biển, vì người bà cứ lắc lư; và trên đầu bà lúc nào cũng có một cái mũ trùm trắng, với những dây băng phất phới sau lưng; những cử động của bà làm người ta tưởng tới một chiếc tàu chạy tới, chạy lui ở chân trời.
Tôi rất mến bà Clochette. Vừa thức dậy, tôi liền lên phòng để áo quần, và thấy bà đã ngồi ở đó may đồ, với một cái lò sưởi ấm ở dưới chân. Bà bắt tôi ngồi trên cái lò sưởi ấm để không bị cảm, vì căn phòng để áo quần rất rộng và lạnh, ở ngay dưới nóc nhà.
Bà nói: “Cháu ngồi như vậy cho máu chạy đều.”
Bà kể chuyện cho tôi nghe, trong khi vẫn mạng, vá với những ngón tay cong như những cái móc và nhanh lẹ; cặp mắt của bà có vẻ rất to, và khuyết sâu một cách kỳ lạ, sau cặp kính lão phóng đại; tuổi tác đã làm yếu thị giác của bà.
Qua những chuyện mà bà đã kể cho tôi nghe và bây giờ tôi còn nhớ, những chuyện đã làm cho quả tim ngây thơ của tôi hồi hộp, thì bà có một tâm hồn cao quý của người đàn bà thật thà. Bà nhìn sự việc một cách tổng quát, đơn giản. Bà kể cho tôi nghe những chuyện vặt ở thị trấn, chuyện một con bò cái sẩy chuồng mà người ta đã tìm lại được một buổi sáng, khi nó đứng nhìn những cánh quạt bằng gỗ của máy xay gió đang quay của một nông dân, hoặc chuyện cái trứng gà tìm thấy trên lầu chuông nhà thờ, mà người ta không biết con gà nào đã lên đẻ trên đó, hoặc chuyện một con chó đã lấy lại được cái quần cụt của chủ nó, cách làng mười dặm, cái quần cụt mà một người đi đường đã đánh cắp và đem phơi trước nhà, sau khi chạy dưới cơn mưa. Bà kể cho tôi nghe những chuyện phiêu lưu ngây ngô này, với cái lối làm cho chúng có, trong óc tôi, những tầm mức của những tấn kịch không thể quên, của những bài thơ hùng tráng và ly kỳ. Những chuyện tích khéo léo do các nhà văn đặt ra, mà mẹ tôi kể cho tôi nghe buổi tối, những chuyện ấy không có cái hương vị, không lý thú, hùng hồn bằng những chuyện của bà nông dân kia.
Thế rồi, một ngày thứ Ba nọ, trọn buổi sáng tôi nghe bà Clochette kể chuyện; buổi chiều, sau khi đi với người giúp việc nhà lượm hạt dẻ ở một khu vườn, tôi trở lên với bà. Tôi nhớ rõ chuyện ấy như nhớ những chuyện xảy ra hôm qua.
Nguyên, khi mở của phòng để áo quần, tôi trông thấy bà thợ may nằm dài dưới gạch, bên cạnh cái ghế của bà, mặt úp xuống đất, hai tay giăng ra, còn cầm tay này cây kim, tay kia cái áo sơ mi của tôi. Một trong hai chân của bà, có lẽ cái chân lớn, đeo chiếc vớ dài xanh lơ, duỗi thẳng dưới cái ghế; và cặp kiếng văng ra xa, chiếu lóng lánh dưới chân tường.
Tôi bỏ chạy, kêu rú lên. Ai nấy chạy đến; và sau đó mấy phút, tôi được biết là bà Clochette đã chết.
Tôi không thể tả hết sự cảm động sâu xa, đau đớn, kinh khủng đã giày vò quả tim trẻ con của tôi lúc bấy giờ. Tôi đi từ từ xuống phòng khách, đến ẩn mình trong một góc tối, tận cuối cái ghế bành to lớn và cổ xưa, rồi tôi quỳ xuống và tôi khóc. Có lẽ tôi ở đó rất lâu, vì trời đã sụp tối.
Bỗng có vài người đi vào phòng, với một cây đèn, nhưng không ai trông thấy tôi, rồi tôi nghe ba má tôi nói chuyện với vị y sĩ, mà tôi nhận diện qua giọng nói.
Người ta đã cấp tốc đi tìm ông, và ông giải thích lý do gây ra tai nạn. Tôi không hiểu gì cả về vấn đề này. Rồi ông ngồi xuống ghế, uống một ly rượu mạnh và ăn một cái bánh bít quy do ba tôi mời.
Ông vẫn nói; và những điều ông nói lúc ấy vẫn còn và sẽ còn in sâu vào óc tôi cho tới khi tôi chết! Tôi tin tôi có thể lập lại gần như hoàn toàn đúng những lời ông đã nói.
Ông nói:
“À! Tội nghiệp cho bà! Bà là thân chủ đầu tiên của tôi ở đây. Bà đã gãy chân khi tôi đến xứ này, và ngày ấy, khi bước xuống chiếc xe song mã, tôi chưa kịp rửa mặt, thì có người đến gọi tôi đi cấp tốc, vì có một vụ nguy kịch, rất nguy kịch.
“Lúc ấy, bà được mười bảy tuổi, và đó là một thiếu nữ thật đẹp, đẹp vô cùng. Người ta có thể tin không? Còn về câu chuyện của bà, tôi chưa bao giờ nói ra; và không có ai biết chuyện đó, trừ tôi và một người đàn ông nữa, hiện không còn ở đây. Bây giờ bà đã chết, tôi có thể bớt kín đáo.
“Vào thời ấy, có một chàng phụ giáo viên trẻ tuổi vừa đến cư ngụ tại thị trấn; hắn đẹp trai và có tầm vóc của người hạ sĩ quan. Tất cả các cô gái chạy theo hắn, và hắn ra vẻ khinh khỉnh, làm cao, mà hắn lại quá sợ ông hiệu trưởng trường tiểu học, là thượng cấp của hắn, tức lão Grabu; ông này tánh tình khi vầy khi khác, không phải lúc nào cũng tốt cả.
“Lão Grabu có mướn trước đó một cô thợ may trẻ đẹp, cô Hortense, là người vừa chết ở nhà ông bà, và lúc bấy giờ bị người ta gán cho cái tên Clochette sau tai nạn của cô. Chàng phụ giáo viên để ý đến cô bé xinh đẹp, và cô này chắc cũng hãnh diện được chàng chọn; rồi nàng yêu chàng và thuận gặp chàng, lần đầu tiên, tại lầu trên cùng của nhà trường, sau khi nàng may vá xong, lúc trời tối.
“Thế là nàng giả vờ đi về nhà, nhưng thay vì đi xuống cầu thang để ra cửa nhà lão Grabu, nàng lại đi lên lầu trên, và núp sau các bó rơm, để đợi người yêu. Một lúc sau, chàng đến, và chàng đang tán tỉnh nàng, thì bỗng cánh cửa trên lầu vụt mở, và lão hiệu trưởng nhô đầu ra, hỏi:
“- Anh làm gì trên đó, anh Sigisbert?
“Sợ bị bắt gặp, chàng giáo viên trẻ tuổi cuống quýt, trả lời một cách ngu xuẩn:
“- Thưa ông Grabu, tôi lên tựa lưng trên mấy bó rơm, để nghỉ cho khỏe một chút ạ.
“Từng lầu này rất to lớn, thật rộng và tối om; Sigisbert xô người thiếu nữ đang kinh hãi vào trong góc và lập đi lập lại: ‘Cô đi lại đằng kia, núp đi. Không khéo tôi mất chỗ làm. Cô trốn đi, núp đi!’
“Lão hiệu trưởng nghe nói thì thầm, liền hỏi tiếp:
“- Anh ở trên đó có một mình à?
“- Dạ vâng, chỉ có một mình tôi.
“- Thật không? Sao tôi nghe tiếng anh nói?
“- Dạ thật, thưa ông Grabu, tôi xin thề với ông.
“- Để tôi lên xem thì biết thật hay không.
“Rồi lão khóa cánh cửa cẩn thận, trở xuống tìm cây nến.
“Thế là chàng thanh niên, một kẻ khiếp nhược như ta thường gặp, mất hết trí khôn, thình lình trở nên giận dữ và hối thúc người thiếu nữ: ‘Thì cô núp đi, đừng để ông ta bắt gặp. Cô sắp làm cho tôi chết đói suốt đời. Cô sắp làm tan nát sự nghiệp của tôi… Cô núp đi!’
“Có tiếng chìa khóa xoay lạch cạch một lần nữa.
“Hortense chạy lại cái cửa sổ tò vò trên mái nhà, trổ ra ngoài đường; nàng mở nhanh cánh cửa, và nói khẽ, giọng cương quyết:
“- Anh hãy đến nhặt em khi ông ta đi rồi.
“Và nàng nhảy ra ngoài.
“Lão Grabu không thấy ai khác, liền quay xuống, vô cùng ngạc nhiên.
“Mười lăm phút sau, chàng Sigisbert đến nhà tôi, kể hết sự việc. Cô gái nằm tại chân tường, không đứng dậy được, vì nàng rơi từ hai từng lầu. Tôi đi với hắn đến tìm nàng. Trời mưa như thác đổ và tôi mang cô gái bất hạnh ấy về nhà mình; chân mặt của nàng bị gãy ở ba chỗ và xương đâm thủng da. Nàng không than phiền gì cả, và chỉ nói, với một sự chịu đựng đáng thán phục: ‘Tôi đã bị phạt, bị phạt đích đáng.’
“Tôi gọi các y tá để cùng lo cứu cấp nàng, và cho người đi báo cho cha mẹ nàng hay. Tôi bịa với họ là có một cái xe mà con ngựa trở chứng hung hăng đã đụng nàng và làm cho nàng què quặt trước nhà tôi.
“Người ta tin ở tôi, và hiến binh đã tìm kiếm trong một tháng, nhưng không có kết quả, kẻ đã gây ra tai nạn này.
“Đấy! Câu chuyện là như thế. Và tôi nói rằng người đàn bà này là một liệt nữ, thuộc dòng giống của những người đàn bà có những hành vi anh hùng đẹp nhất.
“Đó là mối tình duy nhất của nàng. Nàng đã chết trinh bạch. Nàng là một người tuẫn tiết, một linh hồn quảng đại, một người đã hy sinh cao cả. Nếu tôi không hoàn toàn thán phục nàng, có lẽ tôi đã không kể cho ông bà nghe câu chuyện của nàng, câu chuyện mà tôi không bao giờ muốn nói với ai cả trong lúc nàng còn sống, chắc ông bà cũng hiểu vì sao.”
Vị y sĩ dứt lời. Mẹ tôi khóc. Cha tôi nói mấy tiếng mà tôi nghe không rõ, đoạn ba người bước ra ngoài.
Và tôi vẫn quỳ trên chiếc ghế bành khóc nức nở, trong khi tôi nghe một tiếng kỳ lạ do ở những bước chân nặng nề và tiếng va chạm ở cầu thang.
Người ta đang khuân xác bà Clochette đi nơi khác.