← Quay lại trang sách

CÔ HARRIET (1883) I

Lúc ấy, tôi được hai mươi lăm tuổi, và tôi làm người tập vẽ, dọc theo bờ biển ở Normandie.

Tôi nói “làm người tập vẽ”, là ý muốn nói cuộc đi lang thang với cái xắc trên lưng, từ quán trọ này đến quán trọ kia, lấy cớ nghiên cứu và vẽ phong cảnh thật sự trước mắt. Tôi cho rằng không có gì thích thú cho bằng cuộc sống ấy, cuộc sống rày đây mai đó, phú cho sự may rủi. Ta được tự do, không bị ràng buộc bởi điều gì cả, không lo âu, không bận tâm, không nghĩ ngay đến cả ngày mai. Ta đi theo con đường mà ta thích, không có người hướng dẫn nào khác hơn là ý ngông của ta, không có người cố vấn nào khác hơn là sự mãn nguyện của nhãn quan ta. Ta dừng lại vì một con suối đã làm ta say mê, vì ta ngửi thấy thèm mùi khoai tây chiên trước cửa một lữ quán. Đôi khi mùi thơm của bông hoa rừng, hoặc cái liếc ngây thơ của một cô gái ở trọ làm cho bạn đổi hướng. Quý vị chớ khinh khi những mối tình quê mùa ấy. Những người con gái ấy cũng có một linh hồn, những giác quan, đôi má xinh, đôi môi thắm; và cái hôn của họ nồng cháy, đầy hương vị như một trái cây rừng. Tình yêu bao giờ cũng có giá trị, dù nó ở đâu đến. Một quả tim hồi hộp khi bạn hiện ra, một cặp mắt ngấn lệ khi bạn ra đi: đó là những điều rất hiếm, rất dịu dàng, rất quý giá mà ta đừng bao giờ coi nhẹ.

Tôi đã nếm những cuộc hẹn hò dưới rãnh đầy hoa dại, sau chuồng bò, trên những đống rơm còn ấm do ánh nắng ban ngày lưu lại. Tôi có những kỷ niệm mộc mạc với những thiếu nữ có da thịt rắn chắc, đã gặp những cảnh tiếc thương của những quả tim ngây thơ và thành thật; những mối tình ấy thấm thía hơn những khoái lạc tìm thấy ở những người đàn bà duyên dáng và sang trọng.

Nhưng điều mà ta yêu thích nhất trong những cuộc phiêu lưu ấy là những cánh đồng, những khu rừng, những lúc mặt trời mọc, những buổi hoàng hôn, những đêm trăng. Đối với các họa sĩ, đó là những cuộc đi hưởng tuần trăng mật với thiên nhiên. Chỉ có một mình ta sát bên cạnh thiên nhiên trong các cuộc hẹn hò lâu dài và yên tịnh này. Ta nằm trên một đống cỏ, dưới bóng cây, chung quanh là bông cúc và bông mồng gà, và ta đưa mắt nhìn ngôi làng bé nhỏ ở xa với cái lầu chuông nhọn, mà tiếng chuông đổ mười hai giờ trưa.

Ta ngồi bên bờ một con suối, chảy ra từ gốc một cây sồi, giữa đám cỏ cao sầm uất. Ta quỳ xuống, cúi mình uống dòng nước mát lạnh và trong vắt; nước thấm ướt râu và mũi ta, làm cho ta cảm khoái, như thể đang hôn dòng nước, môi kề môi. Đôi khi ta gặp một vũng nước sâu, dọc theo các con suối bé nhỏ kia; ta xuống tắm, và cảm thấy trên da ta, từ đầu đến chân, sự lay động của dòng nước yếu ớt, giống như một cái vuốt nhẹ, lạnh giá và thú vị.

Ta thấy vui khi ở trên đỉnh đồi, ưu sầu bên các đầm lầy, phấn khởi khi mặt trời khuất sau những đám mây hồng và rọi xuống mặt sông những tia sáng phản chiếu đỏ rực. Và ban đêm, dưới ánh trăng treo lơ lửng giữa trời, ta nghĩ đến nhiều chuyện kỳ lạ mà lúc ban ngày, dưới ánh nắng gắt, ta không nghĩ đến.

Thế là, tôi đi lang thang trên cái xứ mà hiện tại chúng ta đang ở. Rồi một buổi chiều, tôi đến ngôi làng bé nhỏ Bénouville trên bờ biển, giữa Yport và Étretat. Tôi khởi hành từ Fecamp, dọc theo bờ biển, một bờ biển cao và thẳng như bức tường thành, với những mỏm đá vôi dốc đứng đâm ra mặt biển. Tôi đã đi suốt buổi sáng trên đám cỏ lún phún và mềm như một tấm thảm, mọc theo mé vực thẳm, dưới ngọn gió mặn từ ngoài biển thổi vào. Và tôi hát vang dậy, bước những bước dài, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn con hải âu xòe đôi cánh trắng bay chậm chạp hình vòng cung trên trời xanh, hoặc nhìn chiếc buồm nâu của một chiếc thuyền đánh cá nhấp nhô trên mặt biển xanh lục; tôi đã qua một ngày vui sướng, vô tư lự và tự do.

Người ta chỉ cho tôi một nông trại nhỏ, thu nhận những du khách, một kiểu quán trọ, do một bà nông dân điều khiển; quán trọ cất giữa một cái sân theo lối ở Normandie, có hai hàng cây dẻ gai mọc chung quanh.

Tôi rời bờ biển, đi đến cái ấp khuất sau những cây cổ thụ và tôi vào nhà bà Lecacheur.

Đó là một bà nông dân già, da nhăn, tính nghiêm khắc; bà hình như miễn cưỡng phải tiếp nhận khách hàng, và lúc nào cũng có vẻ hoài nghi.

Lúc ấy vào tháng Năm; những cây táo trổ bông thơm ngát, che khuất sân trại; nhiều tai bông màu hồng rơi lác đác không ngớt, xoay tròn trên không trước khi chạm vào người và cỏ.

Tôi hỏi:

- Thưa bà Lecacheur, bà có cái phòng nào cho tôi?

Bà ngạc nhiên vì tôi biết tên bà; bà đáp:

- Cái đó còn tùy, tất cả đều đã có người thuê. Nhưng để tôi xem lại.

Năm phút sau, chúng tôi đã thỏa thuận và tôi để cái xắc xuống nền đất của một căn phòng theo lối nhà quê, trong đó có kê một cái giường, hai cái ghế, một cái bàn và một cái chậu rửa mặt. Căn phòng trông ra nhà bếp, một nhà bếp rộng, khói mịt mù, và tại đây, các khách trọ ăn cơm chung với những người làm ở nông trại, cùng với bà chủ; bà ta là một góa phụ.

Tôi rửa tay, rồi bước ra ngoài. Bà chủ nhà đang chiên một con gà cho bữa cơm chiều, trước một cái bếp rộng, trên đó có treo mấy cái móc sắt, khói đóng đen.

Tôi hỏi:

- Hiện bà có du khách đấy chứ?

Bà đáp với vẻ không bằng lòng:

- Có một cô người Ăng Lê trọng tuổi. Nàng ở phòng kia.

Tôi trả thêm một món phụ khoảng năm xu mỗi ngày, để được ăn một mình ngoài sân, khi trời tối.

Thế là người ta dọn phần ăn của tôi trước cửa, và tôi lấy răng xé mấy cái đùi gà ốm tong teo của giống gà mái ở Normandie, uống rượu táo bị pha loãng, và nhai một khúc bánh mì to, cũ từ bốn ngày, nhưng mà ngon.

Thình lình cái cổng bằng gỗ ở ngoài đường bị mở ra, và một người đàn bà khác thường đi vào. Nàng rất gầy, rất cao, thân mình bó sát trong một khăn choàng sọc vuông đỏ của Tô Cách Lan, bó sát đến nỗi tưởng như nàng không có tay, nếu người ta không trông thấy một bàn tay dài ló ra ở dưới, cầm một cây dù trắng, kiểu du khách. Gương mặt nàng hốc hác, và tóc nàng màu xám tro, quấn thành cuộn tròn, động đậy theo nhịp bước. Nhìn nàng, tôi liên tưởng đến con cá khô, với mấy con bướm trên đầu. Nàng đi qua trước mặt tôi thật nhanh, mắt nhìn xuống, và bước vội vào ngôi nhà tranh.

Sự xuất hiện kỳ lạ này làm cho tôi vui thích; chắc chắn đó là người đàn bà ở cạnh phòng tôi, cô người Ăng Lê trọng tuổi mà bà chủ trọ đã nói.

Tôi không gặp lại nàng ngày hôm ấy. Hôm sau, tôi đứng vẽ ở dưới chân ngọn đồi mà quý vị đã biết, và cái dốc của nó chạy dài xuống Étretat. Bỗng nhiên, tôi ngước mắt lên, và thấy một vật gì kỳ lạ nhô lên trên đỉnh đồi; có thể bảo đó là một cột bườm [2] có treo cờ. Chính là nàng. Nhìn thấy tôi, nàng vội biến mất.

Tôi trở về lúc mười hai giờ trưa để ăn cơm, và ngồi ở bàn ăn chung, với ý định làm quen với người đàn bà độc đáo này. Nhưng nàng không đáp lại những sự lễ độ, cũng như lãnh đạm trước những cử chỉ chiều chuộng của tôi. Tôi khăng khăng rót nước cho nàng, tiếp đồ ăn cho nàng với vẻ vồn vã. Để cám ơn tôi, nàng chỉ hơi gật đầu, thật khẽ, khiến ta gần như không nhận thấy, hoặc nàng thì thầm một từ tiếng Anh quá nhỏ, đến nỗi tôi không nghe được.

Tôi thôi không chăm sóc nàng, mặc dù đầu óc tôi vẫn nghĩ đến nàng.

Sau ba ngày, tôi hiểu rõ về người đàn bà này, không kém bà Lecacheur.

Nàng tên Miss Harriet. Tìm một ngôi làng hẻo lánh để ở trọn mùa hè, nàng đã dừng bước ở Bénouville cách nay sáu tuần, và hình như không có ý định rời nơi này. Nàng không bao giờ nói chuyện ở bàn ăn, ăn thật nhanh, vừa ăn vừa đọc một quyển sách nhỏ truyền đạo Tin lành. Nàng phát cho mọi người những quyển sách loại này. Ngay đến cha xứ cũng nhận được bốn quyển, do một thằng nhỏ được nàng cho hai xu mang đến. Đôi khi nàng nói thình lình với bà chủ trọ, mặc dù không có điều gì hối thúc nàng phải nói: “Tôi yêu Thượng đế hơn tất cả; tôi thán phục tất cả sự sáng tạo của Người; tôi tôn thờ tất cả bản tính của Người; tôi luôn luôn mang hình ảnh của người trong tim tôi.” Rồi nàng đưa liền cho bà nông dân đang sửng sốt một trong những cuốn sách ấy, nhằm thay đổi tôn giáo cả vũ trụ.

Trong làng không ai thích nàng. Câu nói của ông thầy giáo: “Nàng là một người vô thần” là một lối bài xích nàng. Vị cha xứ, được bà Lecacheur gạn hỏi, đã trả lời: “Đó là một người theo tà giáo, nhưng Chúa không muốn trừng phạt kẻ phạm lỗi, và tôi cho rằng nàng là một người có đức tính hoàn hảo.”

Những chữ “vô thần”, “tà giáo” mà người ta không hiểu nghĩa chính xác, gây những sự nghi ngờ trong đầu óc nhiều người. Ngoài ra, người ta cho rằng người đàn bà Ăng Lê này giàu có, và nàng đem cuộc đời của mình để đi du lịch khắp các nước trên thế giới, bởi vì gia đình nàng đã đuổi nàng. Tại sao gia đình nàng đã đuổi nàng? Tại tính nghịch đạo của nàng, dĩ nhiên.

Thật sự, nàng là một trong số những người đàn bà bị kích thích bởi những giáo điều luân lý, một trong số những người đàn bà nghiêm khắc trung kiên mà nước Anh đã sản xuất ra nhiều, một trong số những cô gái già và tốt, mà tính tình không ai chịu nổi; họ hay tới lui các bàn ăn của tất cả các khách sạn ở Âu châu; họ làm hỏng nước Ý Đại Lợi, đầu độc nước Thụy Sĩ, làm cho các thành phố duyên dáng, xinh đẹp ở Địa Trung Hải trở nên xấu xí, không thể ở được; họ mang theo khắp nơi những thói quen quái gở, những phong tục của những trinh nữ hóa đá; họ mang theo những y phục không thể tả, và một mùi như mùi cao su, khiến cho người ta tưởng như bị bỏ, ban đêm, trong một cái túi.

Khi tôi thấy một người đàn bà thuộc hạng này trong một khách sạn, là tôi quay đi, như con chim thấy hình nộm ngoài đồng.

Nhưng cô này quá kỳ lạ, nên nàng không làm cho tôi thấy khó chịu tí nào.

Bà Lecacheur, do tính tự nhiên, chống lại những gì không phải nông dân; bà cảm thấy, trong đầu óc thiển cận của bà, một cái lối thù ghét dáng vẻ xuất thần đê mê của cô gái già. Không hiểu suy nghĩ thế nào, bà đã tìm được một danh từ để gán cho nàng, chắc chắn là một danh từ khinh miệt. Bà nói: “Cô quỷ ám.” Dùng tiếng này để chỉ con người nghiêm khắc và đa cảm như nàng, tôi thấy thật khôi hài. Rồi chính tôi, tôi cũng dùng tiếng ấy để gọi nàng, cảm thấy một niềm vui kỳ cục lúc phát thành tiếng những âm tiết ấy khi trông thấy nàng.

Tôi hỏi bà Lecacheur:

- Cô quỷ ám hôm nay làm gì?

Bà nông dân trả lời với vẻ phẫn nộ:

- Ông hãy tưởng tượng nàng đã nhặt về một con cóc có cái chân bị người ta đập gãy, đem nó về phòng, bỏ nó vô cái chậu của nàng, và băng bó cho nó như thể đối với con người. Không phải phạm thánh chớ là gì?

Một lần khác, khi đi dạo dưới chân của một vách đá dốc đứng, nàng đã mua một con cá to, mà người ta vừa chài lưới được, cốt để thả nó trở lại dưới biển. Người ngư phủ, mặc dù được trả tiền cao, liền chửi rủa nàng không ngừng, coi đó còn hơn bị nàng móc túi. Một tháng sau, hắn vẫn không thể nói tới chuyện ấy mà không giận dữ và không chửi rủa. Vâng, đúng, Miss Harriet là cô quỷ ám, và bà Lecacheur đã có sáng kiến hay khi gán cho nàng danh từ này.

Người giúp việc trông nom chuồng trại, mà người ta gọi là Sapeur [3] , vì hắn đã phục vụ ở Phi châu lúc còn trẻ, thì có quan điểm khác; hắn nói với vẻ ranh mãnh: “Đó là một người kỳ cựu, đã thi hành xong nhiệm kỳ.”

Nếu cô gái đáng thương này biết được?

Con sen Céleste phục dịch nàng một cách kém sốt sắng, tôi không hiểu vì sao. Có lẽ vì lý do duy nhất: nàng là người ngoại quốc, thuộc một dân tộc khác, có ngôn ngữ khác, theo tôn giáo khác. Sau cùng, vì lý do nàng là cô quỷ ám!

Nàng đi lang thang suốt ngày trong làng, tìm kiếm và tôn thờ Thượng đế qua cảnh vật thiên nhiên. Một buổi chiều, tôi gặp nàng đang quỳ gối trong một bụi rậm. Trước đó, tôi thấy một vật gì màu đỏ sau lá cây; tôi xô - vẹt các cành cây, và Miss Harriet đứng dậy, sượng sùng khi bị tôi bắt gặp như thế; nàng nhìn tôi trâng tráo với đôi mắt sợ hãi, như mắt con cú mèo bị bắt gặp ban ngày.

Đôi khi, lúc làm việc ở các mỏm đá, bỗng dưng tôi trông thấy nàng trên mé của một vách đá dốc đứng, giống như một cái máy báo hiệu cho tàu bè. Nàng nhìn đắm đuối mặt biển mênh mông phản chiếu ánh sáng, và bầu trời đỏ rực. Đôi khi, tôi nhận ra nàng ở cuối ngọn đồi, đang đi nhanh, bước những bước mềm dẻo của người đàn bà Ăng Lê. Tôi đi lại phía nàng, với ý định duy nhất để xem gương mặt thần cảm của nàng, một gương mặt hốc hác, khôn tả nên lời, chứa đựng một niềm vui bên trong sâu đậm.

Cũng nhiều lần, tôi gặp nàng ngồi dưới cỏ, trong góc một nông trại, dưới bóng một cây táo, với quyển thánh kinh trên đầu gối, cặp mắt nhìn mơ màng nơi xa xăm.

Thế rồi, tôi không đi đâu nữa; nơi cái xứ yên tịnh này, tôi bị ràng buộc bởi bao mối lưu luyến với những phong cảnh êm dịu và xinh đẹp của nó. Tôi đã thật sự ở nơi nông trại mất hút này, xa tất cả, và gần với đất, đất lành, tinh khiết, đẹp và xanh, mảnh đất mà một ngày kia, chính chúng ta sẽ vun bón bằng thân xác chúng ta. Và có lẽ, nếu phải thú thật, cũng có một tí xíu tính tò mò đã cầm giữ tôi ở nhà bà Lecacheur. Tôi muốn biết đôi chút về Miss Harriet kỳ lạ này và muốn hiểu những gì xảy ra trong đầu óc cô đơn của những người đàn bà Ăng Lê lang thang này.

II

Chúng tôi quen thân một cách khá kỳ lạ. Tôi vừa thực hiện xong một mẩu họa, mà đối với tôi, có vẻ táo bạo, và nó táo bạo thật. Bức tranh ấy tôi bán được mười ngàn quan, mười lăm năm sau. Bố cục giản dị hơn hai với hai là bốn và ra ngoài luật lệ của viện hàn lâm. Trọn phía bên phải của bức tranh là một tảng đá, một tảng đá to, sần sùi, phủ một lớp rong biển màu nâu, vàng và đỏ. Người ta không thấy mặt trời, vì khuất sau lưng tôi, và ánh sáng rọi xuống tảng đá làm cho nó đỏ như lửa hồng. Vâng, đúng như vậy. Một mặt chính tưng bừng ánh sáng, như phừng cháy, lộng lẫy.

Bên trái là biển, không phải biển xanh lơ, hay màu đá đen, mà một mặt biển màu xanh cẩm thạch, xanh lá chuối non, với những ngọn sóng nhỏ trắng đục như sữa, dưới bầu trời sậm.

Tôi hết sức vừa ý sáng tác của mình, đến nỗi tôi nhảy múa trong lúc mang nó về quán trọ. Tôi muốn mọi người đến xem bức tranh tức khắc. Tôi còn nhớ đã đưa bức tranh ra trước mặt một con bò cái bên lề đường mòn và la lớn:

- Nhìn cái này, coi mầy. Mầy sẽ ít được thấy những bức tranh như thế.

Vừa về đến nhà, tôi liền gọi ầm bà Lecacheur:

- Nào, bà chủ, lại đây và ngắm cái này giùm tôi.

Bà nông dân bước lại, và nhìn tác phẩm của tôi với đôi mắt đần độn; bà không phân biệt được gì cả, và hơn thế nữa, bà không hiểu bức tranh vẽ con bò hay cái nhà.

Miss Harriet về tới, và nàng đi ngang sau lưng tôi, vừa lúc hai tay tôi cầm bức tranh đưa thẳng cho bà chủ quán xem. Cô quỷ ám không thể không nhìn thấy, vì tôi cố ý giữ bức tranh thế nào để nó không lọt khỏi cặp mắt của nàng. Nàng dừng hẳn lại, thấu hiểu và kinh ngạc. Hình như đó là tảng đá mà nàng leo lên để thả hồn theo giấc mộng.

Nàng thì thầm một từ tiếng Anh: “Aoh!” rất rõ và như để tâng bốc; tôi quay lại nàng, mỉm cười và nói:

- Thưa cô, đây là bức mẫu họa mới nhất của tôi.

Nàng nói khẽ, có vẻ ngây ngất, cảm động và trông buồn cười:

- À! Thưa ông, ông hiểu thiên nhiên một cách sống động.

Tôi đỏ mặt, thật vậy; lời khen này làm cho tôi cảm động nhiều hơn là khi nó được thốt ra từ miệng một bà hoàng hậu. Tôi đã xiêu lòng, bị chinh phục, thua cuộc. Có lẽ tôi muốn hôn nàng, tôi lấy danh dự nói như thế.

Tôi ngồi vào bàn ăn, bên cạnh nàng, như thường lệ. Lần đầu tiên, nàng nói chuyện, theo dòng tư tưởng của nàng: “Ồ! Tôi yêu thiên nhiên quá!”

Tôi lấy bánh mì, nước, rượu chát mời nàng. Bây giờ, nàng nhận, với cái mỉm cười khô héo trên môi. Và tôi bắt đầu nói về phong cảnh.

Sau bữa cơm, chúng tôi cùng đứng dậy một lượt, và đi băng qua sân; rồi có lẽ muốn xem cảnh mặt trời lặn chiếu ánh sáng đỏ rực xuống mặt biển, trông như một đám cháy khổng lồ, tôi liền mở cửa rào thông ra vách đá dốc đứng, và chúng tôi đi cạnh nhau, trong lòng thỏa mãn, như hai người vừa hiểu và thông cảm nhau.

Đó là một buổi chiều ấm áp, một trong những buổi chiều thoải mái, làm cho ta thấy sung sướng từ thể xác đến tâm hồn. Đâu đó đều là khoái lạc và duyên dáng. Không khí ấm áp, đầy mùi hương của bông hoa rừng, mùi cỏ và mùi rong biển, phảng phất quanh ta, thấm vào giác quan, vào trí não, như để vuốt ve, mơn trớn. Chúng tôi tới mé vực thẳm; dưới chân chúng tôi, và cách đó một trăm thước, những con sóng nhỏ lăn trên bãi cát. Và chúng tôi hít đầy buồng phổi luồng không khí mát dịu và mặn này, hiu hiu thổi vào từ các ngọn sóng.

Bó sát trong cái khăn choàng sọc vuông của nàng, với vẻ cảm hứng, miệng há hốc, cô Ăng Lê đưa mắt nhìn mặt trời to lớn đang lặn dần xuống biển. Trước mặt chúng tôi, ở xa tít mù, một chiếc thuyền ba buồm in hình trên nền trời bốc lửa, và một chiếc tàu gần hơn, đang chạy, phun khói thành một đám mây dài ở phía sau, suốt chân trời.

Mặt trời vẫn xuống, chậm chạp. Rồi chẳng mấy chốc, nó chạm mặt nước, ngay phía sau chiếc thuyền buồm đang đứng yên, và chiếc thuyền hiện ra ở giữa mặt trời, như trong một khung lửa. Mặt trời xuống từ từ dưới nước. Người ta thấy nó mỗi lúc một chìm sâu, khuất dần rồi mất hẳn. Thế là hết. Duy chỉ còn chiếc thuyền, vẫn in hình trên nền trời vàng thẫm.

Miss Harriet ngắm nhìn say sưa buổi hoàng hôn đỏ rực. Chắc chắn nàng thèm muốn vô ngần được siết vào lòng cảnh trời nước bao la.

Nàng nói khẽ:

- Aoh! Tôi yêu… tôi yêu… tôi yêu…

Tôi thấy một giọt nước mắt long lanh trong khóe mắt nàng. Nàng nói tiếp:

- Tôi muốn được trở thành một con chim nhỏ để bay lên tận các vì sao.

Và nàng đứng yên, như tôi vẫn thường thấy, như cây cọc cắm xuống đất, mặt nàng cũng đỏ ửng trong chiếc khăn choàng màu hồng sậm. Tôi muốn phác họa nàng trên quyển sổ tay của tôi. Người ta sẽ bảo đó là bức hí họa của cảnh xuất thần.

Tôi quay đi để khỏi phải bật cười.

Rồi tôi nói chuyện với nàng về hội họa, như nói với một người bạn; tôi phân tách những màu sắc, những giá trị, những khí sắc bằng các thuật ngữ nghề nghiệp. Nàng chăm chú nghe, thấu hiểu, tìm cách suy đoán nghĩa mập mờ của các thuật ngữ, tìm cách hiểu tư tưởng của tôi. Thỉnh thoảng, nàng nói:

- Ồ! Tôi hiểu, tôi hiểu. Thật rất sống động.

Chúng tôi quay về.

Hôm sau, khi trông thấy tôi, nàng vội đến bắt tay. Và chúng tôi trở nên đôi bạn thân ngay tức khắc.

Đó là một con người tốt, có một tâm hồn có thể nói là co dãn, bước nhảy vọt khi hoan hỷ. Nàng thiếu sự thăng bằng như tất cả những người đàn bà chưa chồng khi tới năm mươi tuổi. Nàng bị giam hãm trong sự ngây thơ chua chát; nhưng nàng còn giữ trong lòng một cái gì rất trẻ trung, bồng bột. Nàng yêu thiên nhiên và thú vật, yêu với một mối tình nồng nàn, sôi sục, như một vài loại rượu để lâu lên men, bốc hơi, yêu với một nhục tình mà nàng chưa bao giờ trao cho một người đàn ông nào.

Thế cho nên, khi nhìn một con chó mẹ cho con bú, một con ngựa mẹ chạy trong đồng cỏ với con ngựa con chạy dưới chân, hoặc một ổ chim đầy chim con kêu chiêm chiếp, miệng há rộng, đầu thì to, mình thì chưa mọc lông, khi nhìn những thứ ấy, nàng thấy hồi hộp, cảm động vô ngần.

Hỡi những người đáng thương, cô đơn, lang thang và buồn bã ở các bàn ăn ở khách sạn, hỡi những người kỳ cục và thê thảm, tôi yêu mến các người từ khi tôi quen biết người ấy!

Chẳng bao lâu, tôi nhận ra nàng có điều gì muốn nói với tôi, nhưng nàng không dám, và tôi thấy thích thú vì tánh nhút nhát của nàng. Khi tôi ra đi, buổi sáng, với cái hộp vẽ trên lưng, nàng đi theo tôi tới đầu làng, im lặng, nhưng không giấu được nỗi lo âu, và tìm những lời để bắt đầu nói. Rồi thình lình nàng quay đi nhanh, bước những bước nhảy tung tăng.

Sau cùng, một hôm nàng lấy can đảm:

- Tôi ước mong được xem ông vẽ như thế nào. Ông có vui lòng không? Tôi rất hiếu kỳ.

Và nàng đỏ mặt lên, như vừa thốt những lời hết sức táo bạo.

Tôi đưa nàng đến cuối ngọn đồi Petit-Val, và tôi bắt đầu vẽ một mẫu họa lớn.

Nàng đứng sau lưng tôi, chăm chú theo dõi tất cả những cử chỉ của tôi.

Đoạn, bỗng dưng, có lẽ vì sợ làm phiền tôi, nàng nói: “Cảm ơn”, và bỏ đi.

Nhưng sau một thời gian ngắn, nàng trở nên thân mật hơn, và đi theo tôi mỗi ngày, với vẻ thích thú thấy rõ. Nàng xách theo cái ghế xếp, không muốn để cho tôi xách hộ, và nàng ngồi cạnh bên tôi. Nàng ngồi như thế hàng giờ, không cử động, và im lặng, cặp mắt không rời cây cọ của tôi. Tôi lấy con dao tô nhanh một vết son rộng lên tấm vải, và khi thấy tôi có được một hiệu quả đúng và bất ngờ về màu sắc, nàng buột mồm thốt ra một tiếng nhỏ “Aoh” biểu lộ sự ngạc nhiên, vui mừng và thán phục. Nàng tỏ vẻ kính trọng và mủi lòng trước các bức tranh của tôi, một sự kính trọng gần như là lòng sùng đạo đối với việc phác họa lại, bằng bàn tay của con người, một phần công trình của tạo hóa. Dưới mắt nàng, những bức mẫu họa của tôi giống như những bức tranh vẽ các thánh thần; và đôi khi nàng nói với tôi về Thượng đế, thử làm cho tôi thay đổi tôn giáo.

Nàng quan niệm Thượng đế như một người chất phác, một kiểu triết gia trong làng, không có những phương tiện lớn lao, không có uy quyền to tát, và luôn luôn buồn phiền vì những sự bất công xảy ra dưới mắt Người, cũng như vì không thể ngăn chặn được những sự bất công ấy.

Ngoài ra, nàng còn tự coi mình như là kẻ tâm phúc, biết được những bí ẩn hay những bất mãn của Thượng đế. Nàng nói: “Thượng đế muốn” hoặc “Thượng đế không muốn”, giống như viên trung sĩ nói với người lính: “Ông đại tá ra lệnh”.

Nàng vô cùng thương hại sự kém hiểu biết của tôi về những ý định của hóa công; và mỗi ngày tôi bắt gặp những quyển sách ấy trong mấy cái túi của tôi, trong cái nón khi tôi để nó dưới đất, trong hộp màu, trong mấy chiếc giày đã đánh bóng và để trước cửa phòng tôi buổi sáng; những quyển sách này có lẽ nàng nhận được trực tiếp từ trên thiên đàng gửi xuống.

Tôi đối xử với nàng như một người bạn gái cũ, với một tình thân mật thành thật. Nhưng chẳng bao lâu, tôi nhận thấy những cử chỉ của nàng có hơi thay đổi. Tôi không quan tâm mấy về điều này trong những lúc đầu.

Khi tôi đang vẽ, hoặc ở dưới chân ngọn đồi, hoặc trên một con đường lõm, bất chợt, tôi thấy nàng hiện ra, từ xa đi lại, bước nhanh và đều nhịp. Nàng vội vàng ngồi xuống, thở mệt, như thể nàng vừa mới chạy hoặc vừa trải qua một cơn cảm xúc sâu đậm. Mặt nàng đỏ ửng, một lối đỏ đặc biệt của người Ăng Lê, mà không một dân tộc nào khác có được; rồi không có lý do gì cả, nàng tái hẳn, như sắp ngất xỉu. Nhưng rồi, từ từ, sắc mặt nàng trở lại bình thường và nàng bắt đầu nói chuyện.

Đoạn, thình lình, nàng bỏ dở nửa chừng câu đang nói, vụt đứng dậy, quay đi nhanh chóng và lạ lùng, đến nỗi tôi phải tìm xem coi có làm điều gì trái ý hay xúc phạm đến nàng.

Sau cùng, tôi cho đó là những cử chỉ bình thường của nàng, và có lẽ chúng thay đổi chút ít do sự hiện diện của tôi, trong những giờ phút đầu mà chúng tôi quen nhau.

Khi nàng trở về nông trại, sau những giờ đi trên bờ biển, dưới ngọn gió mặn, những cuộn tóc của nàng sút ra, xõa dài. Nàng chẳng buồn cuộn lại, để mặc như vậy khi đến ăn cơm.

Sau đó, nàng mới vào phòng sửa lại những cái ống tròn để cuộn tóc; và khi tôi tán tỉnh nàng một cách thân mật: “Cô Harriet, hôm nay cô đẹp như một ngôi sao”, thì nàng phẫn nộ, đồng thời dồn lên mặt nàng, máu của người con gái, máu của tuổi mười lăm.

Đoạn nàng hoàn toàn trở lại tánh thích sống một mình, và thôi không đến xem tôi vẽ. Tôi nghĩ thầm: “Đó là một cơn trở chứng, một thời gian sau sẽ hết.” Nhưng cơn trở chứng này không hết tí nào. Bây giờ, khi tôi nói chuyện cùng nàng, nàng đáp lại bằng một sự lạnh lùng quá đáng, hoặc bằng một vẻ bực tức ngấm ngầm. Và nàng có những lời nói, những hành động cộc cằn, mất bình tĩnh, quạu quọ. Tôi chỉ gặp nàng ở những bữa ăn, và chúng tôi gần như không còn nói chuyện với nhau. Thật tình, tôi cho rằng tôi đã làm điều gì phiền nàng; và một buổi chiều nọ, tôi hỏi nàng:

- Cô Harriet, tại sao bây giờ cô đối với tôi không phải như trước nữa? Tôi có làm điều gì trái ý cô chăng? Cô làm tôi buồn lắm.

Nàng đáp với một vẻ phẫn nộ rất buồn cười:

- Luôn luôn, tôi đối với ông như lúc trước. Không phải như ông nói đâu, không phải đâu.

Rồi nàng chạy vào phòng đóng kín cửa lại.

Đôi khi nàng nhìn tôi một cách kỳ lạ. Nhiều lần, tôi tự bảo, kể từ lúc ấy, rằng những kẻ bị bắt buộc phải chết đều có một lối nhìn nhu thế, khi người ta báo cho họ biết ngày cuối cùng của họ. Trong con mắt của nàng, có một cái gì như là điên cuồng, một sự điên cuồng huyền bí và mãnh liệt; và còn có một điều gì khác nữa, một nhiệt tình, một sự thèm muốn dữ dội, bồn chồn và bất lực vì không được và không thể thực hiện! Và đối với tôi hình như trong lòng nàng có một cuộc vật lộn giữa quả tim nàng và một mãnh lực không rõ tên mà nàng muốn chế ngự, và có thể còn có điều gì khác nữa… Tôi nói có đúng không? Có phải không?

III

Đây thật là một sự phát giác kỳ lạ.

Một dạo nọ, mỗi buổi sáng, tôi vẽ một bức tranh ngay lúc hừng đông, mà sau đây là đề tài:

Một cái rãnh sâu, hai bên có hai bờ dốc cao, mọc đầy dây gai và cây cối, chạy dài mất hút, phủ lên bởi một lớp sương mù màu trắng như sữa, lớp sương mù giống như bông gòn mà ta thấy đôi khi lơ lửng trên đồi núi vào sáng sớm. Phía sau lớp sương mù có một cặp nhân tình, một thanh niên và một thiếu nữ đang ôm nhau hôn, nàng thì ngẩng đầu lên, còn chàng thì cúi xuống, hai đôi môi chạm nhau.

Một tia mặt trời đầu tiên xuyên qua cành lá, chiếu một màu hồng xuống lớp sương mù, sau lưng cặp nhân tình ở nơi thôn dã này, mà hai cái bóng in mờ trên một nền trắng bạc. Thú thật, bức tranh rất đẹp, thật đẹp.

Tôi vẽ dưới cái dốc chạy xuống ngọn đồi nhỏ ở Étretat. Buổi sáng hôm ấy, tôi may mắn có được bầu sương mù mà tôi cần để vẽ.

Một bóng người hiện ra trước mặt tôi, như một bóng ma: đó là Miss Harriet. Trông thấy tôi, nàng muốn chạy trốn. Nhưng tôi gọi nàng lại, la lớn:

- Cô ơi, tôi có bức tranh này cho cô.

Nàng lại gần, một cách miễn cưỡng. Tôi đưa bức tranh cho nàng. Nàng không nói gì cả, mà đứng yên, nhìn một hồi lâu, rồi thình lình òa lên khóc. Nàng khóc từng cơn, như những người đã cố chống trả để giữ cho lệ không rơi, nhưng rồi cũng không được, và trong khi khóc, vẫn còn chống trả. Tôi đứng dậy liền, trong lòng cũng cảm động vì nỗi buồn phiền của nàng, mà tôi không rõ nguyên do, và tôi nắm lấy hai bàn tay nàng, trong một cử chỉ vội vàng biểu lộ tình thương mến, một cử chỉ thật sự của người Pháp, mà hành động nhanh hơn là suy nghĩ.

Nàng để yên trong mấy giây đồng hồ hai tay nàng trong tay tôi, và tôi nhận thấy đôi tay nàng run lên, như thể tất cả các dây thần kinh trong người nàng bị xoắn lại. Rồi nàng rút tay nhanh, hay đúng hơn, giật mạnh ra.

Tôi nhận ra sự rung chuyển ấy, vì đã từng nếm qua, và không có điều gì làm cho tôi lầm được. Ồ! Đó là sự rung chuyển của người đàn bà khi họ yêu, dù cho họ được mười lăm hay năm mươi tuổi, dù cho họ thuộc giới bình dân hay thượng lưu; nó truyền ngay vào tim tôi, và không bao giờ tôi không hiểu.

Toàn thân nàng rung chuyển, dao động, bủn rủn. Tôi biết như vậy. Nàng quay đi, trong khi tôi không nói một lời, trong lòng ngạc nhiên như đứng trước một sự mầu nhiệm, và đau đớn như vừa làm một tội ác.

Tôi không trở về ăn cơm trưa. Tôi đi một vòng trên bờ vách dốc đứng, nửa muốn khóc, nửa muốn cười, nhận thấy câu chuyện vừa hài hước vừa đáng trách, thấy mình kỳ cục, và nghĩ rằng, vì đau khổ, nàng có thể điên mất.

Tôi tự hỏi sẽ phải làm sao.

Tôi cho rằng chỉ có một cách là ra đi, và lập tức, tôi chọn quyết định này.

Sau khi đi lang thang suốt ngày, một phần hơi buồn bã, một phần hơi mơ mộng, tôi trở về vào giờ ăn tối.

Ai nấy ăn uống như thường lệ. Miss Harriet ngồi ăn nghiêm trang, không nói chuyện với ai cả, và không ngẩng nhìn lên. Gương mặt và dáng đi của nàng không có gì khác thường.

Tôi đợi cho ai nấy ăn xong, rồi quay sang bà chủ, tôi nói:

- Bà Lecacheur ạ, chắc tôi sắp phải từ biệt bà.

Bà ta ngạc nhiên và buồn rầu, nói với giọng kéo dài:

- Thế nào, ông nói gì vậy, hở ông? Ông sắp xa chúng tôi à? Ở đây, ai nấy đều mến ông.

Tôi liếc nhìn Miss Harriet. Gương mặt nàng vẫn thản nhiên. Nhưng con sen Céleste vừa đưa mắt nhìn tôi. Nó là một thiếu nữ mười tám tuổi, béo mập, hồng hào, xinh tươi, khỏe như voi, và sạch sẽ, điều rất hiếm. Thỉnh thoảng, tôi ôm hôn nó trong kẹt vách, do thói quen của kẻ ăn quán ngủ đình, và chỉ có thế, chớ không có điều gì khác.

Và bữa ăn đã xong.

Tôi đến hút ống điếu dưới mấy cây táo, đi qua đi lại trước sân. Những điều mà tôi đã suy nghĩ trong ngày, sự khám phá dị thường mỗi sáng, mối tình quái gở và say đắm hướng về tôi, những kỷ niệm hiện ra bởi sự khám phá này, những kỷ niệm thú vị và thác loạn, và có lẽ luôn cả cái nhìn của con sen khi nghe tôi nói sắp ra đi, tất cả những thứ ấy pha trộn, hòa hợp, làm cho tôi cảm thấy rạo rực, yêu đời, như được hôn ở môi, và trong huyết quản như có cái gì xúi giục làm chuyện vô ý thức.

Trời đã tối, bóng đen phủ xuống các thân cây, và tôi nhìn thấy Céleste đi ra đóng cửa chuồng gà ở đầu kia cái trại. Tôi liền chạy theo, bước thật nhẹ, đến nỗi nó không nghe gì cả, và khi nó vừa ngẩng người lên sau khi đã hạ cái cửa chuồng gà, tôi liền ôm chặt nó vào lòng, hôn túi bụi lên gương mặt no tròn của nó. Nó giãy giụa, và cười nữa, vì đã quen những trò đùa này.

Tại sao tôi vội buông nó ra? Tại sao tôi vụt quay lại như bị một cơn giật? Tôi đã cảm thấy như thế nào khi có một người ở sau lưng tôi?

Đó là Miss Harriet vừa về tới; nàng trông thấy chúng tôi, và đứng yên như đứng trước bóng ma. Đoạn nàng mất dạng trong đêm tối.

Tôi trở về phòng, xấu hổ, bối rối, thất vọng vì bị nàng bắt gặp như thế; nếu nàng bắt gặp tôi đang làm một tội ác, có lẽ tôi ít nản lòng hơn.

Tôi ngủ không yên, bứt rứt đến cực độ, bị ám ảnh bởi những ý nghĩ đen tối. Hình như tôi nghe có tiếng khóc. Có lẽ tôi lầm. Cũng nhiều lần, tôi tin có ai đi trong nhà và mở cửa ở ngoài.

Gần đến sáng, vì mệt mỏi, tôi ngủ thiếp đi. Tôi dậy muộn, và chỉ đi ra vào giờ ăn trưa, trong lòng vẫn còn hổ thẹn, không biết phải giữ thái độ như thế nào.

Người ta không thấy Miss Harriet. Ai nấy đợi nàng; nàng không đến. Bà Lecacheur vào phòng nàng thì thấy nàng đã đi rồi. Mà nàng phải đi thật sớm, như nàng vẫn thường đi, để xem mặt trời mọc.

Không ai ngạc nhiên về điều này, và mọi người bắt đầu ăn cơm, trong sự yên lặng.

Đó là một ngày nóng bức, oi ả, không khí nặng nề, cây cối đứng im phăng phắc. Người ta đã khuân cái bàn ra ngoài sân, dưới một cây táo; và thỉnh thoảng Sapeur xách bình rượu táo đến thùng rượu để châm thêm, vì ai nấy đều uống nhiều. Céleste mang các dĩa thức ăn ở nhà bếp ra, một món ra gu thịt cừu nấu với khoai tây, một món thịt thỏ rô ti, và cải xà lách. Đoạn nó để trước mặt chúng tôi một dĩa trái xê ri, mới có đầu mùa.

Vì muốn rửa và làm tươi mát mấy trái này, tôi bảo con sen đi múc cho tôi một thùng nước thật lạnh.

Nó trở lại năm phút sau, nói rằng cái giếng đã cạn. Nó thòng hết sợi dây xuống, cái thùng đụng đáy giếng, và khi kéo lên thì cái thùng không có nước. Bà Lecacheur muốn đích thân xem, và bà đến nhìn qua miệng giếng. Bà trở lại, cho hay có một vật gì trong cái giếng của bà, một vật khác thường. Một người láng giềng có lẽ đã vứt xuống đó những bó rơm, để trả thù.

Tôi cũng muốn nhìn xem, hy vọng phân biệt rõ ràng hơn, và tôi ngả mình lên thành giếng. Tôi thấy mập mờ một vật màu trắng. Nhưng vật gì? Tôi liền nảy ra ý kiến, lấy sợi dây thòng một cái đèn lồng xuống. Ánh sáng vàng lợt yếu ớt của cái đèn chiếu chập chờn vào thành giếng bằng gạch, và xuống từ từ. Sapeur và Céleste cũng ra tới, và chúng tôi, cả bốn người đều cúi xuống miệng giếng. Cái đèn ngừng lại trên một khối không rõ, trắng và đen, kỳ lạ, không thể hiểu được. Sapeur vụt la lên:

- Con ngựa. Tôi thấy cái móng. Nó lọt dưới giếng hồi tối nay, sau khi sút dây ở đồng cỏ.

Nhưng thình lình tôi rợn khắp cả người và tận xương tủy. Tôi vừa nhận ra một bàn chân, rồi một cái chân đưa lên; cả thân mình và cái chân kia chìm dưới nước.

Tôi nói ấp úng, thật khẽ, và run lập cập đến nỗi cái đèn lồng chao đi chao lại trên chiếc giày:

- Đó là một người đàn bà… ờ… ờ… dưới… đó là Miss Harriet.

Chỉ có Sapeur là không cau mày. Hắn đã từng thấy những cảnh như thế này ở Phi châu.

Bà Lecacheur và Céleste rú lên những tiếng thất thanh và bỏ chạy.

Bây giờ phải vớt người chết lên. Tôi lấy sợi dây thật chắc cột vào lưng của người giúp việc, rồi tôi hạ hắn xuống, thật chậm, bằng cái ròng rọc; tôi nhìn theo hắn đang xuống dần trong bóng tối. Hắn cầm ở hai tay cái đèn lồng và một sợi dây khác. Chẳng mấy chốc, hắn la lên, như từ ở chính giữa trái đất: “Thôi”; và tôi thấy hắn lôi một vật gì ở dưới nước lên, cái chân kia, đoạn hắn cột hai bàn chân lại, và la lên lần nữa: “Kéo.”

Tôi kéo hắn lên, cảm thấy hai tay mệt mỏi, rã rời, và tôi sợ sợi dây tuột khỏi tay, làm rơi hắn trở lại dưới giếng. Khi đầu hắn nhô lên ở mép giếng, tôi hỏi: “Thế nào?”, như thể tôi đang chờ hắn cho biết tin tức về người đàn bà ở dưới đó.

Chúng tôi leo đứng trên thành giếng, đối diện nhau, và, nghiêng mình xuống miệng giếng, chúng tôi cùng nhau kéo cái xác lên.

Bà Lecacheur và Céleste đứng nhìn từ đằng xa, núp sau vách nhà. Khi họ thấy nhô lên ở miệng giếng đôi giày đen và đôi vớ trắng của người chết đuối, họ liền biến mất.

Sapeur nắm lấy cổ chân, và chúng tôi lôi ra ngoài người đàn bà khốn khổ và trinh bạch trong một tình cảnh rất thiếu lễ độ. Cái đầu trông ghê sợ, đen và bị sượt, rách; và những sợi tóc dài, màu xám của nàng, bị sút sổ, bị tháo ra mãi mãi, nên lòng thòng, nhểu nước và dính đầy bùn. Sapeur, bằng một giọng khinh miệt, thốt lên:

- Trời ơi, cô ta ốm tong teo!

Chúng tôi khiêng nàng về phòng, và, vì hai người đàn bà kia không đến, tôi trang điểm lần cuối cùng cho nàng, với sự phụ lực của người giúp việc.

Tôi rửa gương mặt buồn bã và biến dạng của nàng. Dưới ngón tay tôi, một con mắt hé mở, nhìn tôi bằng một cái nhìn ảm đạm, lạnh lùng, cái nhìn rùng rợn của những xác chết, cái nhìn như xuất phát từ bên kia thế giới. Tôi săn sóc mái tóc tung tóe của nàng, với khả năng của tôi, và đôi tay vụng về của tôi đã làm cho mái tóc nàng có một hình dáng mới mẻ và khác thường. Rồi tôi thay những y phục thấm ướt của nàng, và tôi thoáng thấy hai vai và ngực nàng, cùng với hai cánh tay dài và ốm như cành cây; điều này làm cho tôi hổ thẹn trong lòng, như vừa làm một việc phạm thánh.

Đoạn, tôi đi kiếm bông, bông mồng gà, bông xanh, bông cúc, cỏ tươi có hương thơm, rồi phủ lên chiếc giường tang của nàng.

Và tôi phải đi khai báo, làm các thủ tục thường lệ, vì tôi là người duy nhất ở cạnh nàng. Một bức thơ tìm thấy trong túi nàng, viết vào phút chót, yêu cầu người ta chôn cất nàng trong làng này, là nơi mà nàng đã sống những ngày cuối cùng. Một ý nghĩ ghê tởm làm cho tim tôi đau nhói. Có phải vì tôi mà nàng muốn nằm lại nơi đây?

Vào buổi chiều, mấy mụ lắm chuyện ở lối xóm kéo nhau đến xem người chết, nhưng tôi ngăn chận không cho ai vào; tôi muốn chỉ có mình tôi, và tôi thức suốt đêm.

Qua ánh sáng chập chờn của mấy cây nến, tôi nhìn nàng, người đàn bà đáng tội nghiệp kia, mà không ai rõ tông tích, và chết nơi xa xăm, chết thê thảm. Nàng còn có cha mẹ, bạn bè không? Thời niên thiếu, cuộc đời nàng ra sao? Nàng từ đâu đến, mà chỉ có một mình, lang thang và lạc lõng, như con chim lạc đàn? Suốt đời nàng, với cái thân thể thiếu duyên dáng, với cái hình hài tủi hổ kia, nàng đã âm thầm chịu sự đau đớn và sự tuyệt vọng như thế nào? Cái vỏ bề ngoài kỳ cục ấy đã làm cho mọi tình cảm, mọi tình yêu không thể đến với nàng được.

Thật có nhiều kẻ bất hạnh! Tôi cảm thấy sự bất công muôn đời của tạo hóa, như một cơn giận không nguôi, đè nặng lên người đàn bà kia. Đối với nàng, thế là hết; có lẽ chưa bao giờ nàng được hưởng sự an ủi cho những kẻ vô phúc, tức là niềm hy vọng được yêu một lần! Mà tại sao nàng lẩn trốn như thế kia, tại sao nàng xa lánh những người khác? Tại sao nàng yêu say đắm tất cả mọi vật và mọi sinh vật không phải là con người?

Và tôi biết rằng nàng tin ở Thượng đế và hy vọng ở sự bù trừ về cảnh khốn khổ của nàng. Thân thể nàng sẽ bị rã đi, và tới phiên nàng sẽ biến thành cây cối. Cây đơm bông dưới ánh mặt trời, lá thì nuôi bò, hột thì nuôi chim; và từ thịt thú vật, nàng trở thành thịt con người. Nhưng cái mà người ta gọi là linh hồn, thì đã tắt hẳn dưới đáy giếng sâu. Nàng không còn đau khổ nữa. Nàng đã đổi cuộc đời của mình thành những cuộc đời khác mà nàng tạo nên.

Thời giờ trôi qua trong cuộc đối diện tang thương và lặng lẽ này. Một ánh sáng mờ báo hiệu bình minh; rồi một tia sáng rực chiếu lên giường, lên những tấm ga và lên những bàn tay. Đó là giờ phút mà nàng yêu thích biết mấy. Chim chóc thức dậy, hát líu lo trên cây.

Tôi mở tung cửa sổ, vén các bức màn lên để cho trời cao thấy rõ chúng tôi; và cúi xuống cái xác lạnh, hai tay tôi cầm lấy cái đầu đã biến dạng, rồi, từ từ, không sợ hãi và không ghê tởm, tôi đặt một cái hôn, một cái hôn thật lâu trên đôi môi kia, đôi môi chưa bao giờ nhận được một cái hôn.

Léon Chenal dứt lời. Mấy người đàn bà đều khóc. Người ta nghe ở băng trước bá tước D’Etraille hỉ mũi liên hồi. Chỉ có người đánh xe là thiêm thiếp ngủ. Và mấy con ngựa, không còn bị roi quất nữa, đã giảm nhịp bước, kéo yếu ớt. Và chiếc xe song mã lăn bánh rất chậm, thình lình trở nên nặng nề, như vừa chở thêm nỗi ưu sầu.