KẺ SINH THÀNH (1883)
Vì chàng ở vùng Batignoles và làm việc ở bộ Giáo dục, nên mỗi buổi sáng chàng đi làm bằng xe buýt [5] . Và cứ mỗi buổi sáng, chàng ngồi trên xe cho tới trung tâm Ba Lê, đối diện với một thiếu nữ mà chàng đâm ra si mê.
Nàng đến cửa hàng của nàng mỗi ngày, luôn luôn vào một giờ không thay đổi. Đó là một thiếu nữ có mái tóc nâu, đôi mắt đen nhung, nước da trắng ngần. Chàng thấy nàng lúc nào cũng hiện ra ở một góc đường cố định; và nàng chạy để đuổi kịp chiếc xe. Nàng chạy hơi có vẻ vội vàng, uyển chuyển và duyên dáng; và nàng nhảy lên bàn đạp trước khi các con ngựa đứng hẳn lại. Đoạn, nàng bước vào trong, khẽ thở mệt, và sau khi ngồi xuống, nàng đưa mắt nhìn chung quanh.
Lần đầu tiên trông thấy nàng, François Tessier cảm thấy hồi hộp lạ thường. Có những người đàn bà mà đôi khi gặp họ, ta thèm muốn ngay tức khắc được ghì mê mệt trong vòng tay, mà không biết họ là ai. Người thiếu nữ ấy đã đáp ứng những ước muốn, những mong mỏi thầm kín của chàng, một loại ý tưởng về tình yêu mà ta có trong thâm tâm, nhưng không để ý đến.
Chàng khư khư nhìn nàng, mặc dù chàng biết đó là kém lịch sự. Nàng cảm thấy khó chịu và đỏ mặt. Thấy thế, chàng quay đi, nhưng rồi cứ thỉnh thoảng quay nhìn nàng, tuy chàng cố gắng nhìn nơi khác.
Sau mấy ngày, họ quen nhau, tuy không trao đổi một lời. Chàng nhường chỗ cho nàng khi xe đầy hành khách, và leo lên tầng trên, mặc dù điều này làm chàng buồn phiền. Bây giờ, nàng chào chàng bằng một cái mỉm cười, và tuy vẫn cúi mặt xuống, dưới cặp nhãn quang sắc bén của chàng, nàng không có vẻ bực tức bị ngắm nhìn như thế.
Sau cùng, họ nói chuyện với nhau. Một lối thân mật nhanh chóng nảy sinh giữa hai người, một sự thân mật nửa giờ mỗi ngày. Đó hẳn là nửa giờ thú vị nhất trong đời chàng. Chàng nghĩ đến nàng trong suốt thời gian còn lại, lúc nào cũng như thấy nàng hiện ra trong những buổi làm việc dài lê thê ở sở; chàng bị ám ảnh bởi hình ảnh phất phới và bền chặt mà một người đàn bà, được ta yêu thương, lưu lại trong lòng ta. Chàng có cảm tưởng rằng sự chiếm đoạt hoàn toàn quả tim của người thiếu nữ bé bỏng kia mang lại cho chàng một hạnh phúc vô biên, vượt mức.
Bây giờ, mỗi buổi sáng, nàng bắt tay chàng, và chàng giữ tới chiều cái cảm giác của sự đụng chạm này, nhớ mãi cái kỷ niệm của mấy ngón tay bé nhỏ của nàng siết nhẹ tay chàng; chàng tưởng như còn giữ trên da thịt chàng dấu vết của cái bắt tay.
Suốt ngày, chàng bồn chồn trông đợi cuộc di hành bằng xe buýt. Và những ngày Chúa nhật đối với chàng thật là khổ sở.
Có lẽ nàng cũng yêu chàng, và một ngày thứ Bảy, vào mùa xuân, nàng bằng lòng sẽ đi ăn cơm trưa với chàng ở Maisons-Laffitte vào ngày hôm sau.
Nàng là người đến trước để đợi chàng ở nhà ga. Chàng ngạc nhiên, nhưng nàng nói:
- Trước khi đi, tôi có mấy lời muốn nói với ông. Còn hai mươi phút nữa xe mới chạy: chúng ta có thừa thời giờ để nói.
Người nàng run lên và nàng tựa vào cánh tay chàng. Cặp mắt nhìn xuống, má tái nhợt, nàng nói tiếp:
- Xin ông chớ tưởng lầm về tôi. Tôi là một thiếu nữ lương thiện, và tôi chỉ đi với ông đến đó, nếu ông hứa, nếu ông thề với tôi rằng ông sẽ không… sẽ không làm… điều gì… điều gì không được đứng đắn.
Mặt nàng bỗng đỏ ửng, đỏ hơn bông mồng gà. Rồi nàng nín im. Chàng không biết trả lời làm sao, trong lòng vừa sung sướng, vừa thất vọng. Trong thâm tâm, có lẽ chàng thích sự việc là như vậy; thế mà… thế mà, trong đêm rồi, chàng đã mơ ước những điều làm chàng rạo rực. Chắc chắn chàng sẽ yêu nàng kém hơn, nếu chàng biết nàng lẳng lơ; nhưng trong trường hợp này, chàng sẽ được hưởng biết bao thú vị, khoái lạc! Và những sự tính toán ích kỷ của bọn đàn ông về ái tình lảng vảng trong đầu chàng.
Thấy chàng không nói gì cả, nàng nói tiếp, giọng xúc động, với những giọt lệ ở khóe mắt:
- Nếu ông không hứa sẽ hoàn toàn kính trọng tôi, tôi quay về ngay.
Chàng âu yếm siết cánh tay nàng và đáp:
- Tôi xin hứa với cô điều đó; cô chỉ sẽ làm những gì mà cô thích.
Như trút được gánh nặng, nàng mỉm cười, hỏi:
- Có chắc không?
Chàng nhìn thẳng vào mắt nàng:
- Tôi xin thề với cô!
Nàng nói:
- Vậy chúng ta hãy đi mua vé xe.
Dọc đường, hai người gần như không nói chuyện với nhau, vì toa xe chở đầy hành khách.
Khi đến Maisons-Laffitte, họ bách bộ đến sông Seine.
Không khí ấm áp làm người ta thấy cảm khoái từ thể xác đến tâm hồn. Mặt trời chiếu rực lên mặt sông, lên lá cây, lên thảm cỏ làm tăng thêm niềm hoan hỷ trong lòng. Họ nắm tay nhau đi dọc theo bờ sông, mắt nhìn những con cá lội từng đàn giữa hai mí nước. Họ đi, lòng tràn ngập hạnh phúc, như đi vào một thế giới thần tiên, diễm phúc.
Sau cùng, nàng nói:
- Ông thấy tôi dại dột lắm nhỉ!
Chàng hỏi:
- Tại sao?
Nàng nói tiếp:
- Đi một mình với ông như thế này, phải chăng là điên rồ?
- Không, đó rất là thường tình.
- Không, đó không phải là thường tình - đối với tôi - vì tôi không muốn phạm lỗi - mà người ta lại phạm lỗi bằng cách ấy. Nhưng ông biết chăng? Thật là buồn, một cuộc đời trầm trầm, không thay đổi, ngày này qua ngày nọ, tháng này qua tháng nọ, suốt quanh năm. Tôi chỉ có một mình với mẹ tôi. Vì trong đời mẹ tôi có nhiều chuyện buồn, nên bà không có lúc nào vui. Còn tôi, tôi làm cái có thể làm. Tôi cố gắng cười đùa, nhưng không phải lúc nào cũng có kết quả. Dù sao, đi như vầy là không tốt. Ít ra, chắc ông không muốn tôi bị tiếng xấu.
Để đáp lại, chàng hôn mạnh bạo lên vành tai nàng. Nàng vội né tránh, và đột nhiên tỏ vẻ bất bình:
- Ồ! Ông François! Thế mà ông vừa thề với tôi.
Và họ trở lại Maisons-Laffitte.
Họ ăn trưa tại hiệu ăn Petit-Havre, một hiệu ăn thấp lụp xụp, cất sát mé sông và bị che khuất dưới bốn cây bạch dương to.
Gió ở đồng trống, không khí ấm áp, cùng với mấy ly rượu vang trắng khiến cho họ cảm thấy bối rối trước cảnh gần gũi tay đôi; họ có vẻ ngột ngạt, mặt đỏ ửng và ngồi im lặng.
Nhưng sau tuần cà phê, họ trở lại vui vẻ, và sau khi qua sông Seine, hai người lại đi dọc theo bờ sông, về hướng ngôi làng Frette.
Thình lình chàng hỏi:
- Cô tên chi?
- Louise.
Chàng lặp lại: “Louise” và không nói gì thêm.
Con sông chảy theo một khúc quanh lớn, rồi tới, ở đằng xa, một dãy nhà quét vôi trắng, soi mình dưới dòng nước. Người thiếu nữ bẻ những bông cúc, kết thành một bó, còn chàng thì hát vang dậy, lòng ngây ngất như một con ngựa con mà người ta vừa thả ra ăn cỏ.
Ở bên trái họ, một ngọn đồi nhỏ trồng nho chạy dọc theo con sông. Bỗng François dừng lại và đứng yên, kinh ngạc. Chàng nói:
- Ồ! Cô hãy nhìn xem.
Trên phía sườn đồi trước mặt họ, bây giờ không còn vườn nho, mà là những vườn đinh hương tím, tiếp nối như một tấm thảm mênh mông trải trên mặt đất và dài tới tận ngôi làng, mãi đằng xa, cách đó hai hoặc ba cây số.
Nàng dừng lại, cũng cảm động, và nói khẽ:
- Ồ! Đẹp quá.
Và, băng qua một cánh đồng, họ chạy đến ngọn đồi lạ mắt kia; những vườn bông ở đây cung cấp hằng năm, cho khắp thành phố Ba Lê, tất cả đinh hương, chất đống trong những chiếc xe nhỏ của mấy người đàn bà bán dạo.
Một con đường mòn hẹp chạy mất hút giữa các cây lụp xụp. Họ đi vào con đường này. Rồi, tới một khoảng vườn trống, họ ngồi xuống.
Hàng đàn ong bay kêu ro ro trên đầu họ. Và mặt trời sáng rực chiếu xuống ngọn đồi đầy hoa, làm tỏa một mùi hương ngây ngất, lan rộng khắp nơi.
Tiếng chuông nhà thờ đổ văng vẳng ở xa.
Và, từ từ, họ ôm nhau hôn, rồi siết chặt lấy nhau. Họ ngã người xuống cỏ, môi không rời ra. Nàng nhắm mắt, ôm chặt chàng trong tay, ôm đê mê, đầu óc không còn biết gì nữa, mất hết lý trí, toàn thân từ đầu đến chân như bị tê liệt, và trong sự chờ đợi đắm đuối. Và nàng đã tự hiến trọn mà không biết việc mình làm, không cả việc đã thất thân với chàng.
Và nàng tỉnh dậy trong sự hoảng hốt của những tai biến trầm trọng, và, với thể xác đau đớn, nàng lấy hai tay ôm mặt khóc nức nở.
Chàng tìm cách an ủi nàng. Nhưng nàng muốn đi ngay, muốn quay lại, muốn trở về nhà tức khắc. Nàng bước nhanh, miệng lặp lại không ngừng:
- Trời ơi! Trời ơi!
Chàng nói:
- Louise! Louise! Xin cô hãy ở lại.
Đôi má nàng bây giờ đỏ lên, và đôi mắt khuyết sâu. Khi họ vừa tới ga Ba Lê, nàng liền rời chàng, không nói ngay cả một lời từ biệt.
Hôm sau, khi gặp nàng trên xe buýt chàng thấy nàng có vẻ thay đổi, gầy đi. Nàng nói:
- Tôi cần nói chuyện với ông; chúng ta hãy xuống xe ở đại lộ.
Khi hai người đứng trên lề đường, chung quanh không có ai, nàng nói:
- Tôi phải vĩnh biệt ông. Tôi không thể nào gặp lại ông nữa sau chuyện đã xảy ra.
Chàng ấp úng:
- Nhưng tại sao?
- Tại vì tôi không thể làm. Tôi là một kẻ đã phạm lỗi. Tôi sẽ không phạm lỗi nữa.
Thế là chàng van xin, cầu khẩn nàng; lòng chàng sôi sục những khát vọng, những đòi hỏi cuồng loạn để chiếm đoạt trọn vẹn thể xác nàng trong những đêm dài ân ái.
Nàng khư khư lập lại:
- Không, tôi không thể. Không, tôi không muốn.
Nhưng chàng càng tỏ ra hăng hái và kích thích. Chàng hứa sẽ cưới nàng. Nàng vẫn nói:
- Không.
Rồi nàng ra về.
Trong tám ngày, chàng không thấy nàng. Chàng không thể gặp nàng, và vì chàng không biết địa chỉ của nàng, chàng tưởng sẽ không còn gặp lại nàng nữa.
Ngày thứ chín, buổi tối, có tiếng chuông reo ở nhà chàng. Chàng ra mở cửa. Chính là nàng. Nàng liền ngã vào lòng chàng và không kháng cự nữa.
Suốt ba tháng, nàng là nhân tình của chàng. Chàng bắt đầu chán nàng, thì cũng là lúc nàng báo cho chàng biết mình có thai. Thế là, chàng chỉ còn một ý kiến trong đầu: là đoạn tuyệt với bất cứ giá nào.
Mà chàng không biết cắt đứt dây liên lạc như thế nào, không biết ăn làm sao, nói làm sao; chàng sống trong sự lo âu, trong sự sợ hãi đứa bé càng ngày càng lớn. Thế rồi, chàng chọn một quyết định tối thượng. Trong một đêm, chàng dọn nhà đi mất.
Hành động này quá tàn nhẫn đối với nàng, khiến cho nàng không đi tìm kẻ đã bỏ rơi nàng như thế. Nàng quỳ xuống ôm chân mẹ, thú nhận cảnh khốn khổ của nàng; và mấy tháng sau, nàng hạ sanh một đứa con.
Nhiều năm trôi qua. François Tessier già đi, trong khi không có một sự thay đổi nào xảy ra trong đời chàng. Chàng sống cuộc đời trầm trầm và ảm đạm của những người cạo giấy, không còn hy vọng, không còn hoài bão ở ngày mai. Mỗi ngày, chàng dậy vào một giờ không thay đổi, đi theo những con đường cũ, cũng qua cái cửa ấy, trước người gác cổng ấy, cũng vào văn phòng ấy, cũng ngồi trên cái ghế ấy và cũng làm công việc ấy, ngày này qua ngày nọ. Chàng sống cô độc ở trên đời, ban ngày, lẻ loi trước các bạn đồng nghiệp lạnh lùng của chàng, ban đêm, lẻ loi trong căn nhà của người đàn ông không vợ. Chàng dành dụm mỗi tháng một trăm quan để lo ngày về già.
Mỗi Chúa nhật, chàng đi một vòng đến công trường Champs-Élysée để nhìn giới thanh lịch đi dạo, nhìn người ta chưng diện và nhìn những người đàn bà đẹp.
Chàng thuật lại, hôm sau, cho người đồng nghiệp trong cảnh cơ cực nghe:
- Hôm qua, tôi ở vườn hoa về thật thú vị.
Một Chúa nhật nọ, chàng đổi đường, và tình cờ đi vào công viên Monceau. Đó là một buổi sáng trong trẻo vào mùa hè. Các bà mẹ và các chị ngồi dọc theo những lối đi, nhìn mấy đứa nhỏ chơi giỡn phía trước họ.
Thình lình, François Tessier rợn người. Một người đàn bà đi qua, nắm ở tay hai đứa bé: một thằng con trai lối mười tuổi và một đứa con gái lối bốn tuổi. Chính là nàng.
Chàng đi thêm được lối một trăm bước, rồi ngồi quỵ xuống một ghế băng, vì cảm động. Nàng không nhận ra chàng. Thế rồi, chàng lại đi, tìm cách để nhìn nàng nữa. Bây giờ thì nàng ngồi xuống. Thằng nhỏ rất ngoan bên cạnh nàng, còn đứa con gái thì đùa nghịch đất cát. Chính là nàng, đúng là nàng. Nàng có vẻ một bà đứng đắn, trang sức đơn giản, dáng đi nghiêm trang, đàng hoàng.
Chàng đứng xa nhìn nàng, không dám lại gần. Thằng bé ngước mặt lên. François Tessier cảm thấy người run lên. Đó là con chàng, chắc vậy. Chàng nhìn kỹ nó, và tin nhận ra đó là chính chàng, theo bức hình chụp chàng hồi còn nhỏ.
Và chàng đứng núp sau một thân cây, đợi cho nàng đi để đi theo.
Đêm đó, chàng không ngủ được. Hình ảnh của đứa bé ám ảnh chàng. Đứa con của chàng! Ôi! Nếu hồi đó chàng có thể biết được, biết chắc? Mà lúc ấy chàng sẽ làm gì?
Chàng đã thấy nhà nàng và hỏi thăm những người lân cận. Chàng được biết nàng được một người hàng xóm cưới, một người đàn ông lương thiện, tánh cương trực, đã cảm động trước cảnh nguy khốn của nàng, và đã tha thứ, đồng thời nhận luôn cả đứa con, đứa con của chàng.
Chàng trở lại công viên Monceau mỗi Chúa nhật. Mỗi Chúa nhật, chàng trông thấy nàng, và mỗi lần, chàng khao khát vô ngần, một sự khao khát như điên như dại, không ngăn cản nổi, là được bế con chàng trong tay, hôn nó túi bụi, đem nó đi, bắt trộm nó.
Chàng đau đớn kinh khủng trong cảnh cô đơn khốn cùng của người đàn ông già không tình thương. Chàng đau đớn vì bị lương tâm cắn rứt, vì bị tình phụ tử giày vò, một tình phụ tử kết hợp bởi sự hối hận, sự ganh tị và sự khao khát yêu con, tình phụ tử mà tạo hóa đặt trong lòng của các sinh vật.
Sau cùng, chàng định làm một toan tính tuyệt vọng, và, một hôm, bước lại gần nàng lúc nàng vào công viên, chàng đứng như pho tượng giữa đường, mặt tái nhợt, môi run run, và nói:
- Bà không nhận ra tôi à?
Nàng ngước mắt lên, nhìn chàng, kêu rú, một tiếng rú kinh hãi, rồi tay nắm hai đứa con, nàng lôi chúng chạy trốn.
Chàng trở về nhà để khóc rống.
Rồi mấy tháng trôi qua. Chàng không còn thấy nàng nữa. Nhưng chàng đau khổ suốt ngày đêm, tâm can bị cấu xé vì nhớ thương con.
Để được hôn đứa con chàng, chàng có thể chết, có thể giết người, làm bất cứ chuyện gì, đương đầu với mọi nguy hiểm, dám thử mọi hành động táo bạo.
Chàng viết thư cho nàng. Nàng không trả lời. Sau hai mươi bức thư, chàng hiểu không nên nuôi hy vọng lay chuyển nàng. Thế rồi, chàng chọn một quyết định tuyệt vọng, và sẵn sàng lãnh một viên đạn súng lục ngay tim, nếu cần. Chàng gửi cho chồng nàng một bức thư vắn tắt:
“Thưa ông,
“Tên của tôi chắc làm cho ông ghê tởm. Nhưng tôi quá khổ sở, tâm can quá cắn rứt, đến nỗi tôi chỉ còn hy vọng ở ông.
“Tôi đến chỉ xin ông cho tôi một cuộc hội kiến mười phút.
“Tôi hân hạnh…”
Hôm sau, chàng nhận được thư trả lời:
“Thưa ông,
“Tôi đợi ông ngày thứ Ba, lúc năm giờ.”
Khi leo lên cầu thang, François Tessier dừng lại từng nấc, vì tim chàng nhảy mạnh. Trong ngực chàng có một tiếng như tiếng thác đổ, tiếng ngựa phi, âm thầm và dữ dội. Chàng thở khó khăn, và phải vịn vào thành cầu thang để không ngã.
Tới từng lầu thứ ba, chàng bấm chuông. Một chị ở ra mở cửa. Chàng hỏi:
- Ông Flamel.
- Thưa ông, chính ở đây. Mời ông vào.
Chàng bước vào phòng khách của giới trung lưu. Chỉ có mình chàng trong phòng, và chàng chờ đợi, cuống cuồng, như giữa một cơn tai biến.
Một cánh cửa mở ra. Một người đàn ông bước vào. Ông ta cao lớn, nghiêm nghị, hơi béo, mặc áo rơ đanh gốt đen. Ông ta lấy tay chỉ một cái ghế.
François Tessier ngồi xuống, rồi với một giọng hổn hển:
- Thưa ông… thưa ông… tôi không biết ông có biết tên tôi… ông có rõ…
Ô. Flamel ngắt ngang:
- Thưa ông, khỏi cần, tôi biết. Vợ tôi có nói với tôi về ông.
Ông ta có giọng nói xứng với một người đàn ông tốt muốn tỏ ra nghiêm khắc, và có một vẻ oai nghiêm của một người trung lưu lương thiện. François Tessier nói tiếp:
- Thưa ông, đây là như thế này. Tôi buồn rầu, lương tâm cắt rứt và hổ thẹn trong lòng. Và tôi ao ước một lần, chỉ một lần thôi, được hôn… đứa con…
Ô. Flamel đứng lên, đi lại lò sưởi và bấm chuông. Chị ở hiện ra. Ông nói:
- Chị đi gọi thằng Louis cho tôi.
Chị ở bước ra. Hai người ngồi đối diện, im lặng, không có gì để nói với nhau nữa, và chờ đợi.
Rồi, thình lình, một thằng nhỏ độ mười tuổi nhảy xô vào phòng khách và chạy lại người mà nó vẫn tưởng là cha nó. Nhưng nó dừng lại, sượng sùng, vì trông thấy một người lạ mặt.
Ô. Flamel hôn lên trán nó, rồi nói:
- Bây giờ con lại hôn ông đây, đi cưng.
Và đứa con ngoan ngoãn bước lại, mắt nhìn người lạ này.
François Tessier đứng dậy. Chàng đánh rơi cái nón, mà chính chàng cũng muốn rơi mình xuống gạch. Và chàng ngắm nhìn con chàng.
Ô. Flamel, vì tế nhị, quay đi, và nhìn ra ngoài đường qua cửa sổ.
Thằng bé đứng đợi, rất ngạc nhiên. Rồi nó cúi xuống nhặt cái nón và đưa cho người khách lạ. Thế rồi, François Tessier ôm thằng bé trong tay, hôn túi bụi lên khắp mặt nó, lên mắt, lên má, lên miệng, lên tóc.
Thằng bé, hoảng hốt vì những loạt hôn này, tìm cách tránh né, quay đầu đi và lấy hai bàn tay nhỏ bé của nó xô đôi môi khát vọng của người đàn ông kia.
Bỗng, thình lình, François Tessier để đứa bé xuống đất, và la lên:
- Vĩnh biệt! Vĩnh biệt!
Và chàng chạy trốn như một tên trộm.