NHỮNG ÔNG VUA (1887)
Này, đại úy bá tước De Garens nói, tôi tin chắc tôi còn nhớ buổi ăn tối của những ông Vua trong cuộc chiến tranh Pháp-Đức năm 1870.
Bấy giờ, tôi là trung sĩ khinh kỵ, và từ mười lăm hôm, toán của tôi có nhiệm vụ đi trước dọ thám, lảng vảng trước mặt một cánh quân tiền phương của Đức. Bữa trước, chúng tôi đâm hạ vài người lính Đức và bị thiệt mất ba người, trong đó có thằng xấu số Raudeville. Các bạn chắc còn nhớ rõ Joseph de Raudeville.
Thế là hôm ấy, vị đại úy ra lệnh cho tôi dẫn mười người lính khinh kỵ đến chiếm đóng và trấn giữ suốt đêm làng Porterin, nơi mà hai bên đã xáp chiến năm lần trong ba tuần lễ. Không còn tới hai chục ngôi nhà nguyên vẹn, cũng chẳng nổi mười hai dân làng trong tổ ong vò vẽ này.
Tôi liền lấy mười người lính khinh kỵ và ra đi lúc bốn giờ chiều. Đến năm giờ, trời tối đen, chúng tôi tới sát những bức tường đầu tiên của làng Porterin. Tôi dừng lại, ra lệnh cho Marchas vào làng một mình và mang tin tức về cho tôi; các bạn biết rõ Pierre Marchas, anh chàng sau đó đã cưới cô bé Martel-Auvelin, con gái của Hầu tước Martel-Auvelin.
Khi đi, tôi chỉ chọn những người tình nguyện, tất cả đều là con nhà tử tế. Điều này gây thích thú là, trong lúc làm việc, mình tránh được sự xưng hô mầy tao với những thằng kém lịch sự. Tên Marchas này là một người gan dạ ít ai bằng, tinh ranh như con cáo và mềm dẻo như con rắn, có biệt tài tìm ra những người Đức để hạ sát như con chó săn tìm con mồi, hoặc đi kiếm thức ăn ở những nơi mà nếu không có hắn chúng tôi sẽ chết đói, và thâu lượm tin tức khắp nơi, những tin tức bao giờ cũng chắc chắn, với một tài khéo léo phi thường.
Hắn trở lại sau mười phút và nói:
“Tốt lắm, không có người lính Đức nào qua đây từ ba ngày nay. Làng này trông tang thương. Tao trò chuyện với một bà xơ, đang trông nom bốn hay năm bệnh nhân trong một tu viện bỏ trống.”
Tôi ra lệnh tiến tới, và chúng tôi đi theo con đường cái. Hai bên đường, những bức tường không nóc hiện ra lờ mờ trong đêm tối đen. Thỉnh thoảng một ánh đèn chiếu sau tấm kính: đó là một gia đình ở lại để giữ ngôi nhà gần như còn nguyên vẹn, một gia đình của những người nghèo. Mưa bắt đầu rơi, một cơn mưa nhỏ hột, lạnh giá, làm cóng người trước khi thấm ướt, dù chỉ mới chạm vào áo đi mưa. Mấy con ngựa trật chân trên những hòn gạch, trên những cây đà, trên những đồ đạc, bàn ghế. Marchas đi trước dẫn đường; hắn đi bộ, tay cầm cương lôi con ngựa theo sau.
Tôi hỏi:
- Mầy dắt chúng tao đi đâu đây?
Hắn đáp:
- Tao có một chỗ ở tốt lắm.
Chẳng mấy chốc, hắn dừng lại trước một ngôi nhà nhỏ của hạng khá giả; ngôi nhà còn nguyên vẹn, cửa đóng kín, mặt quay ra đường, phía sau có một mảnh vườn.
Marchas nhặt một hòn đá lớn ở hàng rào, đập ổ khóa, rồi hắn bước lên thềm, lấy chân đạp và kê vai đẩy tông cánh cửa ra; hắn đốt cây nến lúc nào cũng có sẵn trong túi, rồi đi trước đưa chúng tôi vào ngôi nhà ấm cúng, đầy tiện nghi của một tư nhân giàu có. Hắn hướng dẫn chúng tôi với một vẻ chắc chắn, một sự chắc chắn đáng khen, như thể hắn sống trong ngôi nhà này, ngôi nhà mà hắn chỉ mới thấy lần đầu.
Tôi để lại hai người ở ngoài để coi chừng ngựa.
Marchas nói với thằng mập Ponderel:
- Lúc vào đây, tao thấy có chuồng ngựa ở bên trái; mầy đem mấy con ngựa vô đó, bây giờ mình không cần tới.
Rồi quay sang tôi, hắn nói:
- Ra lệnh đi, ông nội!
Tên phóng túng này lúc nào cũng làm tôi ngạc nhiên. Tôi cười đáp:
- Tao đi đặt mấy vọng gác ở ven bìa, rồi sẽ trở lại đây.
Hắn hỏi:
- Mầy lấy mấy người?
- Năm; mấy thằng kia sẽ thay tụi nó lúc mười giờ tối.
- Được rồi. Mầy để lại tao bốn thằng để tìm thức ăn, làm bếp và đặt bàn. Còn tao, tao sẽ đi tìm chỗ họ giấu rượu.
Rồi tôi đi quan sát những con đường hoang vắng cho tới nơi trổ ra cánh đồng, để đặt những người canh gác.
Nửa giờ sau, tôi trở về. Tôi thấy Marchas nằm dài trên một ghế bành; hắn đã gỡ tấm vải bọc nệm ra, mà hắn nói là vì kính trọng vẻ tráng lệ của nó. Hắn để hai chân trước lò sưởi, và hút một điếu xì gà hảo hạng, mùi thơm tỏa khắp trong phòng. Hắn nằm đó một mình, hai cùi chỏ gác lên hai thành ghế, cổ rụt lại, hai má hồng hào, đôi mắt sáng ngời, có vẻ sung sướng, khoái lạc.
Tôi nghe tiếng ly, dĩa khua ở phòng bên cạnh. Marchas mỉm cười nói với tôi bằng một giọng bình thản:
- Tốt lắm. Tao tìm thấy rượu chát để trong chuồng gà, rượu sâm banh dưới những bực thềm nhà, rượu mạnh - năm chục chai, thứ thiệt - giấu sau vườn, dưới gốc cây lê, mà khi rọi đèn, tao thấy nó không được ngay lắm. Về vật cứng, tụi mình có hai con gà mái, một con ngỗng, một con vịt, ba con bồ câu và một con chim sáo bắt trong một cái lồng, tất cả như mầy thấy, đều là loại có cánh. Hiện chúng đang được nấu nướng, sắp chín. Xứ này thật là tuyệt.
Tôi ngồi xuống trước mặt hắn. Ngọn lửa ở lò sưởi làm nóng mũi và hai má tôi.
Tôi hỏi:
- Mầy lấy mấy miếng cây này ở đâu vậy?
Hắn đáp khẽ:
- Cây tốt lắm, loại xe riêng của hạng chủ nhân ông, có hai chỗ ngồi. Nhờ nước sơn nên có ngọn lửa này, pha trộn mùi thơm của cây và của chất véc ni. Nhà này thật tốt!
Tôi phát cười lên; tôi thấy hắn hết sức buồn cười, thằng chết toi ấy. Hắn nói tiếp:
- Phải nói đây là ngày lễ của những ông Vua. Tao có bảo nhét một hạt đậu tằm [6] vào trong con ngỗng; nhưng lại không có hoàng hậu, làm mất vui!
Tôi lặp lại, như tiếng vang:
- Làm mất vui; nhưng mầy muốn tao làm gì bây giờ?
- Ô hay! Mầy phải tìm!
- Tìm gì?
- Những người đàn bà.
- Những người đàn bà?… Mầy có điên không?
- Phần tao, tao đã tìm rượu mạnh dưới cây lê, và rượu sâm banh dưới những bực thềm nhà; và không còn gì để dẫn dắt tao nữa. Còn mầy, một người đàn bà là điều chắc chắn mầy sẽ tìm được. Tìm đi, cha nội.
Hắn có vẻ nghiêm nghị, quả quyết đến nỗi tôi không còn biết hắn đùa cợt hay không.
Tôi đáp:
- Này, Marchas, có phải mầy đùa không?
- Tao không bao giờ đùa trong lúc làm việc.
- Nhưng mầy tính tao tìm những người đàn bà ở đâu?
- Ở nơi nào mầy muốn. Thế nào cũng phải còn lại hai hoặc ba người trong vùng này. Mầy phải khám phá ra họ và đưa họ về đây.
Tôi kéo ghế lùi ra. Ngọn lửa bốc nóng quá. Marchas nói tiếp:
- Mầy muốn tao giúp ý kiến không?
- Muốn.
- Mầy hãy đến tìm cha xứ.
- Cha xứ à? Để làm gì?
- Mời ông ta đến đây ăn tối và thỉnh cầu ông ta dắt đến một người đàn bà.
- Cha xứ! Một người đàn bà! Ha! Ha! Ha!
Marchas nói tiếp với một giọng vô cùng nghiêm nghị:
- Tao không có cười. Mầy đến tìm cha xứ, trình bày với ông ta hoàn cảnh của chúng mình. Ông ấy chắc cũng khổ tâm lắm, và ông sẽ đến. Nhưng mầy nói với ông rằng chúng mình cần ít nhất một người đàn bà, một người đàn bà đứng đắn, lẽ dĩ nhiên, bởi vì chúng ta tất cả đều thuộc giới thượng lưu. Ông phải biết rõ những nữ tín đồ của ông như trong lòng bàn tay. Nếu có một người có thể đến với chúng ta, và nếu mầy khéo léo, ông sẽ mách cho mầy.
- Này Marchas, mầy tính gì vậy?
- Garens ạ, mầy có thể làm việc đó rất hay. Và lại buồn cười nữa. Chúng ta biết sống, và chúng ta sẽ là những người lịch sự hoàn toàn, có những cử chỉ cao đẹp. Mầy kể tên chúng mình cho cha xứ nghe, chọc ông ta cười, làm cho ông ta cảm động, quyến rũ ông, đẩy ông đến chỗ ra quyết định.
- Không thể được.
Hắn kéo ghế lại gần, và vì biết rõ những điểm yếu của tôi, hắn nói tiếp:
- Tóm lại, mầy nên nghĩ rằng chúng ta ngang nhiên làm chuyện này, mà khi kể lại, sẽ tức cười. Người ta sẽ nói đến chuyện này khắp trong quân đội. Tiếng tăm mầy do đó sẽ vang lừng.
Tôi do dự, vì bị cám dỗ bởi cuộc phiêu lưu. Hắn nằn nì:
- Này Garens, mầy là toán trưởng, chỉ có mầy mới có thể đến nói với người đứng đầu về Công giáo ở vùng này. Tao yêu cầu mầy hãy đi. Tao sẽ làm thơ kể lại chuyện này trong tạp chí Revue des Deux Mondes [7] sau khi chiến tranh chấm dứt, tao hứa chắc với mầy như vậy. Nhờ những người dưới quyền mầy nên mầy mới được như thế. Mầy đã bắt họ đi khá nhiều từ một tháng nay.
Tôi đứng lên hỏi:
- Nhà cha xứ ở đâu?
- Mầy đi theo con đường thứ nhì, bên trái. Mút đường, mầy gặp một con đường lớn, và ở mút con đường lớn này là nhà thờ. Nhà cha xứ ở kế bên.
Tôi bước ra; hắn nói theo:
- Mầy nói thực đơn cho ông ta nghe, để cho ông thèm.
Tôi tìm ra dễ dàng ngôi nhà của cha xứ, bên cạnh một nhà thờ lớn, xấu xí, bằng gạch. Tôi lấy tay đấm mạnh lên cửa vì nơi đó không có gắn chuông và cũng không có cái chày để gõ cửa; một tiếng nói to từ bên trong vọng ra:
- Ai đó?
Tôi đáp:
- Trung sĩ khinh kỵ.
Tôi nghe tiếng mở khóa, và từ bên trong bước ra một linh mục to lớn như một lực sĩ, bụng phệ, tay áo xắn lên để lộ hai cánh tay gân guốc, gương mặt hồng hào, vẻ người bạo dạn.
Tôi chào theo lối nhà binh:
- Chào cha.
Trước đó, ông sợ bị lừa hay gặp bọn bất lương; ông mỉm cười, nói:
- Chào anh, mời anh vào.
Tôi theo ông vào một căn phòng nhỏ, lót gạch đỏ; trong lò sưởi, một ngọn lửa cháy yếu ớt, khác hẳn với lò sưởi của Marchas.
Ông chỉ cho tôi một cái ghế, rồi hỏi:
- Có chuyện gì đó anh?
- Thưa cha, trước hết, cha cho phép tôi tự giới thiệu.
Tôi đưa cho ông tấm danh thiếp của tôi.
Ông cầm lấy, đọc vừa đủ nghe:
“Bá tước De Garens.”
Tôi nói tiếp:
- Thưa cha, chúng tôi ở đây là mười một người, năm người đang canh gác và sáu người ở tại nhà của một dân làng không rõ tên. Sáu người đó tên Garens, hiện có mặt ở đây, Pierre de Marchas, Ludovic de Ponderel, bá tước D’Etreillis, Karl Massouligny, con trai của họa sĩ cùng mang tên ấy, và Joseph Herbon, một nhạc sĩ trẻ. Tôi đến nhân danh họ và cá nhân tôi thỉnh cầu cha ban danh dự cho chúng tôi bằng cách đến dùng cơm tối với chúng tôi. Đó là bữa cơm của những ông Vua, cha ạ, và chúng tôi muốn nó được vui vẻ.
Vị linh mục mỉm cười. Ông nói khẽ:
- Theo ý tôi, đây không phải lúc để vui đùa.
Tôi đáp:
- Thưa cha, chúng tôi chiến đấu mỗi ngày. Mười bốn người trong số bạn chúng tôi đã chết từ một tháng nay, và mới hôm qua thêm ba người nữa ngã gục. Đó là chiến tranh. Chúng tôi đối diện với tử thần ở bất cứ lúc nào, thế tại sao chúng tôi không có quyền vui đùa khi phải đối diện? Chúng ta là những người Pháp, chúng ta thích cười đùa, chúng ta biết cách cười bất cứ ở đâu. Ông cha chúng ta đã cười đùa khi bước lên máy chém! Tối nay, chúng tôi muốn xả hơi một chút, muốn sống như những người đứng đắn chớ không phải như lính, chắc cha cũng hiểu. Chúng tôi có lỗi không?
Ông đáp hăng hái:
- Anh nói có lý, và tôi rất sung sướng nhận lời mời của anh.
Ông gọi to:
- Hermance!
Một bà già nhà quê, lưng khòm, da nhăn nheo trông thấy sợ, hiện ra và hỏi:
- Cha gọi?
- Tôi không ăn cơm tối nay.
- Cha ăn ở đâu?
- Với mấy vị khinh kỵ.
Tôi muốn nói: “Cha dắt theo bà già giúp việc,” để xem phản ứng của Marchas, nhưng không dám.
Tôi nói tiếp:
- Trong số những người thuộc giáo khu của cha còn lại trong làng, cha xem có người nào, đàn ông hoặc đàn bà, mà tôi có thể mời luôn thể?
Ông do dự, tìm kiếm, rồi nói:
- Không, không có ai!
Tôi nằn nì:
- Không có!… Nào, xin cha tìm xem. Thật là tình tứ nếu có các bà. Tôi muốn nói: các cặp vợ chồng! Tôi đâu biết được? Chẳng hạn, người thợ làm bánh mì với bà vợ, người bán tạp hóa, người… người… thợ sửa đồng hồ… người… người thợ đóng giày… ông… ông dược sĩ với bà dược sĩ… Chúng tôi làm một bữa tiệc lớn, có rượu và chúng tôi cảm thấy sung sướng khi lưu lại một kỷ niệm tốt đẹp trong lòng dân chúng ở đây.
Vị cha xứ suy nghĩ hồi lâu, rồi nói quả quyết:
- Không có.
Tôi cười:
- Ôi chao! Thưa cha, thật là buồn tẻ nếu không có một bà hoàng hậu, vì chúng tôi có một hạt đậu tằm. Nào, cha hãy tìm xem. Không có một ông xã trưởng có vợ, một ông phó xã trưởng có vợ, một ông nghị viên hội đồng có vợ, một ông thầy giáo có vợ?…
- Không, tất cả các bà đều đi hết.
- Thế nào, trong khắp vùng này không có được một bà nội trợ đảm đang, thuộc hạng khá giả, với một ông chồng khá giả, để chúng tôi đem đến họ sự hoan hỷ, sự hoan hỷ dành cho họ, một sự hoan hỷ lớn lao, trong hoàn cảnh hiện tại.
Bỗng thình lình vị linh mục phát cười lên, cười rũ rượi, làm rung chuyển toàn thân ông, và ông nói:
- Ha! Ha! Ha! Để tôi lo liệu! Chúa ơi! Đức Mẹ ơi! Để tôi lo liệu! Ha! Ha! Ha! Chúng ta sẽ cười, các con ạ, chúng ta sẽ cười. Và mấy bà ấy sẽ hài lòng, chắc chắn sẽ hài lòng, ha ha!… Các anh hiện ở đâu?
Tôi giải thích và tả ngôi nhà. Ông hiểu:
- Tốt lắm. Đó là nhà riêng của ông Bertin-Lavaille. Tôi sẽ đến đó trong nửa tiếng đồng hồ với bốn bà!!! Ha! Ha! Ha! Bốn bà!!!…
Ông bước ra theo tôi, vẫn còn cười, và trước khi quay đi, ông lặp lại:
- Được rồi, trong nửa tiếng đồng hồ, nhà Bertin-Lavaille.
Tôi vội về liền, vừa ngạc nhiên, vừa lo lắng.
Trông thấy tôi, Marchas hỏi:
- Dọn bao nhiêu phần ăn?
- Mười một. Chúng ta là sáu khinh kỵ, thêm cha xứ và bốn bà.
Hắn sửng sốt. Tôi đã thắng.
Hắn lặp lại:
- Bốn bà! Mầy nói bốn bà?
- Tao nói: bốn bà.
- Những bà đàng hoàng?
- Đàng hoàng.
- Tuyệt! Tao có mấy lời khen mầy.
- Tao nhận những lời khen đó. Tao xứng đáng được khen.
Hắn rời ghế bành, bước lại mở cửa, và tôi nhìn thấy một tấm vải trải bàn trắng, đẹp, phủ lên một cái bàn dài, chung quanh có ba người lính khinh kỵ, mang tạp dề xanh, đang bày sắp dĩa và ly.
Marchas nói lớn:
- Sẽ có nhiều người đàn bà!
Ba người lính liền nhảy múa và vỗ tay vang dậy.
Đâu đó đã xong. Chúng tôi đợi. Chúng tôi đợi gần một tiếng đồng hồ. Mùi thơm gà vịt rô ti bay tỏa khắp trong nhà.
Một tiếng gõ vào cánh cửa sổ làm chúng tôi đứng lên cùng một lúc. Thằng mập Ponderel chạy ra mở cửa, và độ một phút sau, một bà xơ bé nhỏ hiện ra ở khung cửa. Bà người gầy ốm, da nhăn nheo, dáng hiền hậu và rụt rè; bà lần lượt chào hết bốn người lính khinh kỵ đang kinh hãi nhìn bà bước vào. Phía sau bà, có tiếng gậy gõ xuống nền hành lang, và khi bà xơ vào tới phòng khách, tôi nhìn thấy, người này tiếp theo người kia, ba bà già đội mũ trùm trắng đi tới, vừa đi vừa ngả nghiêng ngả ngửa với những cử động khác nhau, bà thì chúi nhủi bên nầy, bà thì chúi nhủi bên kia. Và ba bà này bước vào, đi cà nhắc, kéo lê chân, bị què quặt vì bệnh tật và bị suy yếu vì tuổi già; họ là những người bất khả dụng, những nội trú viên duy nhất còn đi được của viện cứu tế do bà xơ Saint-Benoît điều khiển.
Xơ Saint-Benoît quay lại nhìn những phế nhân của bà, lòng đầy xót thương, lo lắng; rồi thấy lon trung sĩ khinh kỵ của tôi, bà nói:
- Thưa ông sĩ quan, tôi thành thật cám ơn ông đã nghĩ đến những bà lão khốn khổ này. Họ ít được hưởng cảnh vui thú trên đời, và đây là cả một hạnh phúc lớn lao và một danh dự to tát mà ông mang đến cho họ.
Tôi nhìn thấy vị cha xứ, đứng trong bóng tối của hành lang, đang cười rũ rượi. Tới phiên tôi, tôi cũng phát cười lên, trong khi cặp mắt chăm chú nhìn theo Marchas. Rồi chỉ những cái ghế cho vị nữ tu sĩ:
- Xin mời bà xơ ngồi; chúng tôi rất hãnh diện và rất sung sướng được bà xơ chấp nhận dự buổi tiệc đơn giản này.
Bà lấy ba cái ghế để sát tường, sắp ngay hàng trước lò sưởi, đưa ba bà già đến ngồi trên đó, đỡ gậy và khăn choàng của họ ra và đem để vào một góc; rồi chỉ bà thứ nhất, bà gầy ốm nhưng bụng thật bự, chắc chắn bị bịnh phù thũng.
- Bà này là bà già Paumelle, mà người chồng đã té chết từ trên nóc nhà rơi xuống đất và người con trai chết ở Phi châu. Bà được sáu mươi hai tuổi.
Rồi bà chỉ bà thứ hai, bà to lớn có cái đầu lúc nào cũng lắc lư:
- Bà này là bà già Jean-Jean, sáu mươi bảy tuổi. Bà gần như không còn nhìn thấy, vì gương mặt bà bị lửa táp trong một cuộc hỏa hoạn và chân bên mặt bị cháy một nửa.
Sau cùng, bà chỉ cho chúng tôi bà thứ ba, bà lùn đẹt có cặp mắt lồi ra, lăn tròn nhìn tứ phía một cách đần độn:
- Đây là mụ Putois, một người ngây thơ. Bà mới có bốn mươi bốn tuổi.
Tôi chào ba bà này, như thể tôi được giới thiệu với các thái tử và công chúa thuộc hoàng tộc rồi, quay sang cha xứ:
- Thưa cha, cha là một người quý mến mà chúng tôi đã thọ ơn.
Mọi người đều cười, trừ Marchas có vẻ giận dữ:
Bỗng Karl Massouligny nói lớn:
- Xin mời quý vị ngồi vào bàn.
Tôi để xơ Saint-Benoît đi trước với cha xứ, rồi đỡ bà Paumelle đứng lên, nắm cánh tay bà và lôi vào phòng bên cạnh, lôi một cách nặng nhọc, vì cái bụng phình chướng của bà nặng hơn khối sắt.
Thằng mập Ponderel bế bà Jean-Jean; bà ta rên rỉ để có được cái nạng của bà; còn thằng Herbon bé nhỏ thì dẫn mụ khùng Putois vào phòng ăn; nơi đây tỏa đầy mùi thịt nấu nướng.
Khi ai nấy đến ngay trước những cái dĩa của mình, bà xơ vỗ vào tay ba cái, và các bà già làm nhanh một dấu thánh giá, rập đều cùng một lúc, y như những người lính bắt súng chào. Đoạn, vị linh mục đọc chậm rãi kinh Tạ ơn bằng tiếng La tinh.
Mọi người ngồi xuống, và hai con gà mái hiện ra, do Marchas bưng; hắn muốn hầu bàn để khỏi làm thực khách của bữa ăn quái gở này.
Nhưng tôi gọi lớn:
- Chai sâm banh, nhanh lên!
Tiếng nút chai nổ bóc như tiếng súng lục bắn đi, và, mặc dù có sự ngăn cản của cha xứ và của bà xơ, ba người lính khinh kỵ, ngồi cạnh ba bà già tàn tật, đổ tông vào miệng họ ba ly rượu đầy.
Massouligny có biệt tài coi bất cứ nơi nào cũng như ở nhà hắn và rất tự nhiên với bất cứ ai; hắn tán bà Paumelle một cách thật buồn cười. Bà già bị bịnh phù rất vui tính, mặc dù bị tai họa khổ sở. Bà đùa cợt trả lời hắn với một giọng thánh thót có vẻ giả tạo. Những câu khôi hài của hắn chọc bà cười lớn, khiến cho cái bụng của bà muốn leo lên và lăn trên bàn. Thằng Herbon bé nhỏ quyết tâm phục rượu mụ khùng, và bá tước D’Etreillis, vì đầu óc không được lanh lẹ, chỉ biết hỏi bà Jean-Jean về đời sống, tập quán và luật lệ ở viện dưỡng lão.
Vị nữ tu sĩ, kinh hãi, nhìn Massouligny, la lớn:
- Ồ! Ồ! Ông làm cho bà ấy xỉu bây giờ; ông đừng làm cho bà ấy cười như thế nữa, ông ạ, tôi xin ông. Ồ! Thưa ông…
Rồi bà đứng lên, nhảy xô lại Herbon, định giựt ở tay hắn ly rượu đầy, nhưng hắn đã nhanh lẹ đổ rốc ly rượu vào mồm của mụ Putois.
Và vị cha xứ cười ngất, nói đi nói lại với bà xơ:
- Để mấy bà ấy uống, có một lần, chả sao. Cứ để đi.
Sau hai con gà mái, ai nấy ăn tới con vịt, ba con bồ câu và con chim sáo; và con ngỗng được bưng ra sau chót, khói bay nghi ngút, vàng óng và tỏa một mùi thơm của thịt rô ti béo bở.
Mụ Paumelle, phấn khởi, vỗ tay; mụ Jean-Jean thôi trả lời những câu hỏi quá nhiều của viên bá tước, và mụ Putois phát ra những tiếng thì thầm vui mừng, nửa như tiếng kêu, nửa như tiếng hít hà, giống như con nít khi được kẹo.
Vị cha xứ nói:
- Quý vị cho phép tôi phụ trách con ngỗng này nhé? Tôi rất rành, ít ai bì, về những vụ này.
- Vâng, xin mời cha.
Bà xơ nói:
- Có thể nào mở thêm cửa sổ? Mấy bà ấy bị nóng bức. Tôi tin thể nào họ cũng sẽ bị đau.
Tôi quay lại nói với Marchas:
- Mầy mở cửa sổ ra một phút.
Hắn mở cửa sổ, hơi lạnh ở ngoài thổi vào, làm chập chờn mấy ngọn nến và làm xoay tròn hơi nóng bốc lên ở con ngỗng; vị linh mục, một khăn ăn choàng ở cổ, giở cao cánh con vật một cách khéo léo.
Chúng tôi nhìn ông làm, thôi nói chuyện, chăm chú theo dõi đôi bàn tay của ông đang làm một công việc hấp dẫn; chúng tôi cảm thấy thèm ăn một lần nữa, khi nhìn con ngỗng béo mập, vàng óng, mà hai đùi, hai cánh lần lượt bị cắt rớt xuống nước xốt vàng sậm ở đáy dĩa.
Rồi thình lình, giữa cảnh im lặng làm cho người ta thèm khát, làm cho ai nấy trở nên chăm chú, do ô cửa sổ mở rộng, chúng tôi nghe thấy một tiếng súng nổ ở xa.
Tôi vụt đứng lên, nhanh đến nỗi cái ghế của tôi ngã lăn phía sau; tôi la lên:
- Tất cả lên ngựa! Mầy, Marchas, mầy lấy hai người đi xem tin tức. Tao đợi mầy ở đây trong năm phút.
Trong khi ba người kỵ mã của tôi phi ngựa xa dần trong đêm tối, tôi cùng hai người khinh kỵ leo ngồi trên lưng ngựa trước thềm nhà; vị cha xứ, bà xơ và ba bà lão đứng ở cửa sổ nhìn ra, gương mặt họ đầy vẻ sợ hãi.
Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng chó sủa ở cánh đồng. Mưa đã dứt; trời lạnh, thật lạnh. Rồi bỗng chốc, một lần nữa, tôi phân biệt tiếng chân ngựa, tiếng chân của một con ngựa đơn độc quay về.
Đó là Marchas. Tôi hỏi lớn:
- Gì đó?
Hắn đáp:
- Chả có gì. Thằng François bắn bị thương một nông dân già; ông ta không chịu trả lời khi nó hỏi: “Ai đó?” mà tiếp tục đi tới, mặc dù nó ra lệnh tránh ra xa. Tụi nó đang mang ông ta về đây. Ta sẽ biết rõ hơn.
Tôi ra lệnh dắt ngựa trở vào chuồng, bảo hai người lính của tôi đi đón mấy người kia, rồi tôi trở vào nhà.
Thế rồi, vị cha xứ, Marchas và tôi cùng nhau khuân một tấm nệm vào phòng khách để đặt người bị thương; bà xơ xé nhỏ một khăn ăn để làm vải băng, còn ba bà già cuống cuồng ngồi chùm nhum trong một góc.
Phút chốc, tôi nghe tiếng, những cây kiếm kéo lê trên đường; tôi lấy một ngọn nến soi sáng những người lính trở về; và họ hiện ra, mang một vật không cử động, mềm nhũn, dài và tang thương: đó là thân xác con người khi sự sống đã rời bỏ.
Người ta đặt kẻ bị thương lên tấm nệm chuẩn bị sẵn. Mới nhìn qua, tôi biết người này không thể sống.
Ông ta rên rỉ và nhổ ra máu; máu chảy ở hai bên khóe môi, trào ra ở miệng mỗi khi ông nấc cụt. Thân mình ông dính đầy máu. Hai má, râu, tóc, cổ, áo quần ông như bị ngâm trong một chậu đỏ. Và máu đông đặc trên mình ông, trở sang màu nâu, lẫn lộn bùn, trông phát sợ.
Ông già, bọc trong một áo choàng rộng của những người chăn cừu, thỉnh thoảng mở đôi mắt ảm đạm, hết thần; đôi mắt ông ta có vẻ đần độn vì ngạc nhiên, giống như mắt của những con thú mà người đi săn đã hạ, và chúng, rơi dưới chân hắn, thoi thóp nhìn hắn, với vẻ đần độn vì sự ngạc nhiên và kinh hoàng.
Vị linh mục kêu lên:
- À, đây là ông già Placide, người chăn cừu của gia đình Moulins. Ông bị điếc, chả nghe gì cả. Chúa ơi! Các anh đã giết ông già khốn khổ này rồi.
Bà xơ banh áo choàng và áo sơ mi của ông ra, nhìn vết thương ở ngực ông, rồi lắc đầu:
- Hết phương cứu chữa.
Người mục đồng thở dốc một cách rùng rợn, luôn luôn khạc ra máu trong những hơi thở cuối cùng của ông, và người ta nghe ở cổ họng, ở tận buồng phổi ông, một tiếng kêu lọc ọc đều đều, ảo não, tang thương.
Vị cha xứ, đứng trước đầu ông lão, đưa tay phải làm dấu thánh giá, và đọc, bằng một giọng chậm rãi và nghiêm trang, những tiếng La tinh để gột rửa linh hồn.
Trước khi ông dứt lời, toàn thân ông lão co giựt một cái nhẹ, như thể có một cái gì vừa tan vỡ ở bên trong. Ông lão không còn thở nữa. Ông đã chết.
Tôi quay lại và nhìn thấy một cảnh tượng còn ghê sợ hơn cảnh hấp hối của người mục đồng khốn khổ: ba bà già đứng sát vào nhau, xấu xí, nhăn nhó vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tôi bước lại gần, và họ kêu lên những tiếng the thé và tìm cách chạy trốn, như thể tôi sắp sửa giết họ.
Mụ Jean-Jean, mà thân mình không còn được chống đỡ bởi cái chân bị cháy nữa, té nằm dài dưới gạch.
Xơ Saint-Benoît bỏ mặc người chết, chạy lại những người tàn tật của bà, và, không một lời với tôi, không ngoảnh nhìn, bà lấy khăn choàng cho họ, đưa nạng cho họ, đẩy họ ra cửa, đưa họ đi và mất hút với họ trong đêm tối đen mịt mù.
Tôi biết là tôi không thể cho một người lính khinh kỵ đi cùng với các bà ấy, vì chỉ tiếng chạm của cây kiếm cũng đủ làm cho các bà cuống cuồng.
Vị linh mục vẫn nhìn người chết.
Sau cùng, quay sang tôi, ông nói:
- À! Thật là chuyện bất hạnh gì đâu!