← Quay lại trang sách

MỤ SAUVAGE (1884)

Mười lăm năm trôi qua, tôi không có trở lại Virelogne. Tôi mới trở lại vùng này mùa thu rồi, để đi săn trong khu đất của người bạn tôi, anh Serval; anh này đã cho xây cất lại lâu đài của anh, bị người Đức phá hủy trước đây.

Tôi rất thích vùng này. Đó là một trong những vùng xinh xắn, trông rất đẹp mắt. Người ta yêu mến những nơi đó một cách thiết tha. Chúng ta, những người yêu mến cảnh thiên nhiên, chúng ta có những kỷ niệm êm đềm đối với vài con suối, vài khu rừng, vài đầm lầy, vài ngọn đồi mà ta thường thấy và chúng dễ làm cho lòng ta cảm xúc. Đôi khi tâm trí ta quay về một góc rừng, một bờ sông, một vườn hoa, ngay chỉ mới trông thấy có một lần nhân một ngày vui; những cảnh này lưu lại lòng ta như hình ảnh những người đàn bà đẹp gặp ở ngoài đường trong một buổi sáng mùa xuân: họ gây trong linh hồn và xác thịt ta một sự thèm muốn khôn cùng, không bao giờ phai nhạt, một cảm giác như được sống gần kề hạnh phúc.

Ở Virelogne, tôi yêu mến cảnh đồng ruộng, lác đác vài khu rừng nhỏ, với những con rạch chảy qua, như những mạch máu mang nhựa sống đến đất liền. Ở những con rạch này, người ta câu cá, câu tôm, câu lươn. Thật là hạnh phúc thần tiên. Có chỗ để bơi lội, và người ta thường gặp những con mỏ nhác trong đám cỏ cao, mọc bên bờ những dòng nước bé nhỏ này.

Lòng thư thới, tôi đi theo hai con chó săn đang lùng mồi. Serval, cách tôi một trăm thước về bên phải, đi giữa một đám cỏ cho bò ăn. Tôi qua khỏi những bụi rậm, giới hạn cuối cùng của khu rừng Saudres, và nhìn thấy một ngôi nhà tranh điêu tàn.

Tôi sực nhớ lại ngôi nhà này, mà tôi đã thấy lần đầu tiên năm 1869; lúc bấy giờ ngôi nhà trông khang trang, sạch sẽ, có những giàn nho và những con gà mái trước cổng. Còn gì đau lòng cho bằng một ngôi nhà bỏ hoang, với cái sườn xiêu vẹo, ảm đạm?

Tôi còn nhớ nơi đây, một người đàn bà rất tử tế đã mời tôi uống một ly rượu chát sau một ngày mệt mỏi, và Serval đã cho tôi biết về gia đình này. Người chồng, một thợ săn thú lậu trọng tuổi, đã bị cảnh sát bắn chết. Người con trai, mà lúc bấy giờ tôi có trông thấy, là một thanh niên lực lưỡng, cũng nổi tiếng về môn tàn sát thú rừng. Người ta gọi họ là Sauvage.

Có phải đó là tên thật hay tên người ta gán để chế nhạo? [8]

Tôi gọi to Serval; anh đến, bước những bước dài với cặp giò mảnh khảnh.

Tôi hỏi:

- Những người ở đó bây giờ ra sao?

Anh liền thuật cho tôi nghe câu chuyện sau đây.

Khi cuộc chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ, người con, lúc bấy giờ được ba mươi ba tuổi, liền đầu quân, để mẹ ở nhà một mình. Bà không có gì phải than phiền, vì ai nấy đều biết bà có tiền.

Thế là bà ở một mình trong ngôi nhà cheo leo, xa tít hàng xóm, tận ven bìa rừng. Ở như vậy mà bà không sợ, vì bà cùng một khí phách như chồng con bà; đó là một bà già cứng rắn, cao và gầy, ít khi cười và không bao giờ thiên hạ trêu đùa. Vả lại, những người đàn bà ở đồng quê hầu như không cười đùa, chỉ có đàn ông mà thôi. Tâm hồn những người đàn bà này buồn tẻ, đầu óc thiển cận, đời sống tối tăm, ảm đạm. Người nông dân thu thập vài câu đùa cợt sống sượng ở quán rượu, nhưng các bà vợ luôn luôn giữ thái độ nghiêm nghị, khắc khổ. Trên gương mặt họ, không mấy khi thấy nở nụ cười.

Mụ Sauvage tiếp tục sống cuộc đời bình thản, giản dị trong ngôi nhà tranh. Rồi mùa đông đến, tuyết phủ trên căn nhà. Bà đi vô làng, tuần một lần, để mua bánh mì và một ít thịt, rồi quay về căn nhà tiều tụy. Nghe ai nấy bảo có chó sói, nên mỗi khi ra ngoài, bà mang khẩu súng trên lưng, khẩu súng của người con, một khẩu súng rỉ sét, báng súng mòn nhẵn; mụ Sauvage trông kỳ lạ với dáng người cao lớn, lưng hơi khòm, đi từng bước chậm chạp trên tuyết, mũi súng nhô khỏi cái mũ đen trùm trên đầu, che kín mái tóc bạc, mái tóc mà không ai nhìn thấy bao giờ.

Một hôm, quân Đức đến. Người ta phân phối binh sĩ cho dân chúng nuôi dưỡng, tùy theo tài sản và lợi tức của mỗi người. Mụ già, mà người ta biết khá giả, nhận bốn người.

Đó là bốn chàng thanh niên mập mạp, da mặt và râu vàng hung, mắt xanh; họ béo phì, mặc dù đã qua những cảnh khổ cực trong quân đội, và rất tử tế, trong khi đóng ở nước bị chiếm. Chỉ có mình họ trong nhà bà lão và họ tỏ ra ân cần, chiều đón bà, luôn luôn tìm cách tránh cho bà khỏi vất vả hay tiêu phí. Mỗi buổi sáng, người ta thấy tất cả bốn người ra giếng nước rửa mặt, còn mặc áo sơ mi; trời lạnh cóng, tuyết phủ, nhưng họ vẫn xối nước lạnh trên làn da trắng và hồng của họ, là giống dân sống ở miền Bắc, trong khi đó, mụ Sauvage đi đi lại lại lo cơm nước. Rồi người ta thấy họ dọn dẹp nhà bếp, lau gạch, chẻ củi, gọt khoai, giặt áo quần, làm tất cả những công việc trong nhà, giống như bốn người con trai ngoan.

Nhưng bà lão không ngớt nghĩ đến đứa con trai của bà, đứa con cao và gầy, có sống mũi chim két, đôi mắt nâu, bộ ria mép đen, tua tủa trên vành môi. Mỗi ngày, bà hỏi thăm từng người một trong số những người lính tá túc ở nhà bà:

- Cậu có biết trung đoàn tác chiến 23 Pháp quốc hiện ở đâu không? Thằng con tôi phục vụ ở đó.

Họ trả lời không mấy trôi chảy:

- Không, không biết, không rõ.

Họ hiểu nỗi khổ tâm và lo sợ của bà; họ cũng có những bà mẹ ở bên ấy, nên họ chiều chuộng, chăm sóc bà chu đáo. Vả lại, bà cũng yêu mến họ, dù họ là kẻ thù, bởi lẽ những người quê mùa, chất phác không có những sự căm thù do lòng yêu nước; điều này chỉ có ở những hạng khá giả, cao sang trong xã hội. Những người hèn mọn là những kẻ phải trả giá nhiều nhất, vì họ là những tên nghèo khó, phải chịu đựng mọi biện pháp của quốc gia; họ là những kẻ mà người ta đem ra giết hàng loạt, những kẻ làm bia đỡ đạn vì họ là số đông; sau hết, họ là những kẻ gánh chịu nhiều nhất những tang tóc, điêu linh của chiến tranh, vì họ là những tên bé miệng, thấp cổ, ít chống đối: họ hầu như không hiểu được sự bồng bột hiếu chiến, hầu như không cảm thấy danh dự, một thứ danh dự dễ bị kích thích, thúc đẩy; họ không hiểu gì về những mánh khóe, những mưu mô chánh trị, mà những mánh khóe này, trong sáu tháng, làm suy yếu hai quốc gia lâm chiến, quốc gia thắng trận cũng như quốc gia bại trận.

Trong vùng, thiên hạ bảo nhau về những người Đức và mụ Sauvage:

- Thế là bốn người ấy đã tìm được chỗ trọ.

Nhưng một hôm, trong lúc ở nhà một mình, bà lão thấy từ xa, xuyên qua cánh đồng, một người đàn ông đi về hướng nhà bà. Một lát sau, bà nhận ra đó là người bộ hành chuyên đi phát thư. Người này trao cho bà một mảnh giấy gấp lại. Bà lấy cặp kính ra, mà bà dùng trong khi may vá, rồi đọc:

“Thưa bà Sauvage, bức thư này mang đến bà một tin buồn. Người con trai của bà, anh Victor, đã tử trận hôm qua; mảnh đạn trái phá hầu như đã cắt anh ra làm đôi. Tôi ở gần đó, vì trong đại đội, chúng tôi nằm sát với nhau, và anh có dặn báo cho bà ngay nếu có tai nạn xảy ra cho anh.

Tôi lấy trong túi anh cái đồng hồ và sẽ trao lại bà khi hết giặc.

Thân mến chào bà.

Césaire Rivot

Binh nhì thuộc Trung đoàn tác chiến 23.”

Bức thư đề ngày trước đó ba tuần.

Bà lão không khóc ngay. Bà yên lặng, mồm há hốc, vì tin dữ đến đột ngột, nên chưa cảm thấy đau đớn. Bà nói thầm: “Thế là thằng Victor đã tử trận.” Rồi từ từ, nước mắt bà trào ra, nỗi đau khổ xâm chiếm quả tim bà. Bà nghĩ đến những cảnh tượng ghê rợn, hãi hùng của đứa con bà lúc chết. Bà không còn ôm hôn nó nữa, đứa con trai cao lớn của bà, không, không bao giờ! Người cha bị cảnh sát giết, người con bị quân Đức giết… Nó bị quả trái phá cắt làm đôi. Bà cảm thấy cảnh tượng, một cảnh tượng ghê rợn: đầu nó gục xuống, đôi mắt mở to, miệng liếm vành râu nhọn, như nó thường làm trong lúc nóng giận.

Không rõ sau đó, người ta chôn cất nó như thế nào? Giá họ trả lại bà thi hài của con bà, cũng như họ đã trả lại thi hài của chồng bà, với một viên đạn ngay trán.

Ngay lúc ấy, bà nghe có tiếng người nói. Đó là những người lính Đức ở trong làng trở về. Bà liền cất giấu bức thư trong túi áo, và tiếp rước họ với vẻ mặt bình tĩnh như mọi khi, sau khi đã lau khô nước mắt.

Bốn người Đức cười đùa, vui mừng, vì họ mang về một con thỏ to, có lẽ đánh cắp ở một nhà nào đó, và họ ra dấu cho bà biết là ai nấy sẽ được ăn một bữa ngon lành.

Bà liền chuẩn bị buổi cơm trưa, nhưng khi phải giết con thỏ, thì bà không đủ can đảm. Ấy thế, không phải đây là con thỏ đầu tiên bà làm thịt! Một trong mấy người lính đấm mạnh ở sau hai lỗ tai con thỏ, làm nó chết ngay.

Khi con thỏ đã chết, bà lột da, lòi thịt đỏ hồng; bà nhìn thấy máu thấm ướt tay bà; máu con thỏ, lúc đầu còn ấm, nguội dần và đông đặc trên tay bà; toàn thân bà run lên, và bà như thấy đứa con bà bị cắt làm đôi, máu me đầy mình, giống như con thỏ, mà các sớ thịt còn co giật.

Bà ngồi ăn chung với những người Đức, nhưng ăn không vô, không nuốt được miếng nào. Họ ăn sạch con thỏ, không để ý đến bà. Bà nhìn xiên họ, không nói một lời, đầu óc đang mưu tính một ý định, và gương mặt bà rất thản nhiên, bình tĩnh đến nỗi họ không nghi ngờ gì cả.

Thình lình bà hỏi:

- Tôi không được biết tên các cậu, và chúng ta đã sống chung với nhau một tháng rồi.

Họ phải khó khăn lắm mới hiểu điều bà muốn và cho bà biết tên từng người. Bà thấy chưa đủ, và bảo họ viết tên trên một mảnh giấy, với địa chỉ gia đình; bà tra kính vào, ngắm nhìn tuồng chữ xa lạ này, rồi xếp mảnh giấy bỏ vô túi, để ở trên bức thư báo tin cái chết của đứa con trai bà.

Sau bữa cơm, bà nói với những người lính:

- Tôi sẽ giúp các cậu.

Và bà mang rơm lên vựa lúa, chỗ họ ngủ.

Họ ngạc nhiên chuyện này; bà giải thích rằng như thế họ đỡ lạnh, và họ phụ với bà. Họ chất các bó rơm tận mái nhà bằng tranh và họ sắp xếp để có một căn phòng rộng, với bốn bức vách rơm ấm cúng và phảng phất mùi hương; ở đó, họ sẽ ngủ như những ông hoàng.

Tới bữa cơm chiều, một trong mấy người lính lo ngại vì bà chưa ăn gì cả. Bà bảo người bà bị tê buốt khó ở. Rồi bà nhóm lửa để sưởi ấm, và bốn người lính leo lên gác bằng cái thang mà họ vẫn dùng để leo mỗi buổi tối.

Vừa khi cái cửa sập ở thang gác đậy lại, bà liền rút cái thang, khẽ mở cánh cửa và ra ngoài ôm những bó rơm chất đầy nhà bếp. Bà đi chân không trên tuyết, đi thật nhẹ đến nỗi không ai nghe tiếng động. Thỉnh thoảng, bà lắng tai nghe tiếng ngáy to và không đều của bốn người lính đang ngủ.

Khi thấy đã chuẩn bị đầy đủ, bà cầm một bó rơm châm lửa ở lò sưởi, vứt tung tóe rơm cháy vào các bó rơm chất đống, rồi bước ra ngoài ngắm nhìn.

Chỉ trong mấy giây đồng hồ, một ngọn lửa đỏ rực bắt cháy dữ dội bên trong ngôi nhà tranh, giống như một lò lửa khổng lồ, nóng kinh khủng; một ánh sáng chập chờn xuyên qua cánh cửa sổ hẹp, soi sáng mặt tuyết bên ngoài.

Kế đó, một tiếng la thất thanh từ trên nóc căn nhà vọng ra, tiếp theo là những tiếng kêu cứu hỗn loạn, thảm thiết và hãi hùng. Rồi cái cửa sập ở cầu thang đổ xuống bên trong căn nhà; một ngọn lửa cuồn cuộn tràn lên gác, cháy qua nóc tranh, lan ra ngoài trời, giống như ngọn lửa của một cây đuốc khổng lồ; thế là ngôi nhà tranh chìm trong biển lửa.

Người ta không còn nghe tiếng gì ở bên trong khác hơn tiếng nổ lốp bốp của thần lửa, tiếng kêu răng rắc của những bức tường, tiếng các cây đà rớt xuống. Thình lình mái nhà sụp đổ, và một ngọn lửa to xoay tròn trên không khí, giữa đám khói mịt mù.

Cánh đồng tuyết trắng bị ánh lửa soi sáng, phản chiếu như một tấm thảm bạc, lốm đốm ánh hồng.

Một hồi chuông từ xa bắt đầu đổ.

Mụ Sauvage đứng im trước ngôi nhà cháy rụi của mình, tay cầm khẩu súng, khẩu súng của người con, vì bà sợ có người nào chạy thoát được.

Khi ngọn lửa đã tàn, bà vứt khẩu súng vào đám than hồng. Một tiếng nổ phát ra.

Nhiều người chạy đến, gồm những nông dân và những người Đức.

Người ta thấy bà già ngồi trên một thân cây, gương mặt bình tĩnh và mãn nguyện.

Một sĩ quan Đức, nói thông thạo tiếng Pháp y như người Pháp, hỏi bà:

- Những người lính của bà đâu rồi?

Bà lấy cánh tay gầy ốm chỉ đống than hồng đang tàn lụi và đáp một cách mạnh bạo:

- Ở trong đó!

Ai nấy bu quanh bà. Người Đức hỏi tiếp:

- Tại sao cháy vậy?

Bà nói:

- Chính tôi đã phóng hỏa.

Người ta không tin lời bà và cho rằng tai họa đã làm cho bà thình lình mất trí. Thế rồi, thấy thiên hạ bu quanh và chăm chú nghe, bà kể hết đầu đuôi, từ lúc nhận được thư cho đến tiếng kêu cuối cùng của những người lính bị cháy chung với căn nhà. Bà kể không thiếu sót một chi tiết về những gì bà cảm thấy cũng như những gì bà đã làm.

Khi kể xong, bà lấy trong túi ra hai mảnh giấy, và để phân biệt, trước ánh sáng mập mờ cuối cùng của ngọn lửa, bà tra kính vào, chỉ một mảnh giấy:

- Đây là cái chết của thằng Victor.

Đưa lên mảnh giấy kia, bà hất hàm về hướng đống than hồng:

- Còn đây là tên của họ để báo cho gia đình họ biết.

Bà bình tĩnh đưa tờ giấy trắng cho viên sĩ quan, đang giữ chặt hai vai bà, và bà nói tiếp:

- Ông viết cho thân nhân những người lính, kể rõ sự việc xảy ra như thế nào, và cho họ biết rằng chính tôi đã làm điều đó, tôi là Victoire Simon, tục gọi mụ Sauvage. Xin ông đừng quên.

Viên sĩ quan hét lên những lệnh bằng tiếng Đức. Đám lính giữ chặt lấy bà, ném bà vào bức tường còn nóng bỏng của ngôi nhà. Rồi mười hai người lính lập tức sắp hàng trước bà, cách hai mươi thước. Bà không nhúc nhích. Bà hiểu rõ và chờ đợi.

Một lệnh ban ra, tiếp theo là những tiếng súng nổ kéo dài. Một tiếng súng nổ chậm hơn, phát ra sau những tiếng nổ trước.

Bà già không ngã sấp, mà sụm xuống, như bị người ta chặt đứt chân.

Viên sĩ quan Đức tiến lại chỗ bà. Bà như bị cắt ra làm đôi và nơi bàn tay co quắp, bà còn cầm bức thư đẫm máu.

Anh bạn Serval nói tiếp:

- Người Đức, để trả thù, đã phá hủy tòa lâu đài trong vùng, mà tòa lâu đài đó là của tôi.

Còn tôi, tôi nghĩ đến những bà mẹ của bốn chàng thanh niên ngoan ngoãn bị đốt cháy ở trong đó và sự can đảm hung bạo của bà mẹ nọ, bị bắn ở bức tường.

Và tôi cúi xuống nhặt một cục đá còn nám đen vì ngọn lửa.