NHỮNG TÙ BINH (1884)
Không một tiếng động trong rừng, ngoài tiếng rù rì nhỏ do tuyết rơi trên cây. Từ giữa trưa, tuyết bắt đầu rơi: một thứ tuyết mịn như lớp bọt trắng và lạnh buốt rắc trên những cành cây, như một mái nhà nhẹ bằng bạc phủ lên những chiếc lá mục trong những chỗ rừng rậm, như một tấm thảm rộng lớn, mềm mại và trắng xóa, trải lên các nẻo đường. Tuyết rơi làm tăng thêm cái yên lặng vô biên của rừng cây bát ngát.
Trước cửa một ngôi nhà miền rừng núi, một thiếu phụ, với đôi tay để trần, đang cầm búa bửa củi, kê trên một tảng đá. Thiếu phụ là một người cao lớn, mảnh dẻ và khỏe mạnh, một cô gái chốn sơn lâm, thuộc hàng con và vợ của đám dân cư sống trong rừng.
Bỗng có tiếng gọi từ trong nhà:
- Berthine, đêm nay chỉ có mẹ con mình ở nhà thôi. Hãy đi vào, tối rồi. Có thể có bọn Đức và những con chó sói đến rình mò.
Thiếu phụ vừa bổ một gốc cây với những nhát búa rất mạnh, làm cho bộ ngực bị kéo ngược lên mỗi khi hai cánh tay giơ lên cao; nàng đáp:
- Xong rồi, mẹ ạ. Con đây, con vào đây, đừng sợ; trời hãy còn sáng.
Rồi nàng đem vào những bó củi và những thanh củi rời, và chất dọc theo bếp nấu ăn. Nàng trở ra sập các mái hiên, những mái hiên to lớn bằng lõi gỗ sồi; sau cùng, nàng quay vào và đẩy cái then gài nặng để khóa cánh cửa cái lại.
Mẹ nàng, một bà lão mặt nhăn nheo và hay sợ sệt vì tuổi đã cao, đang ngồi xe chỉ cạnh bếp lửa. Bà nói:
- Mẹ không thích khi cha con đi vắng. Nhà chỉ có hai người đàn bà thì không chắc chắn vào đâu.
Nàng đáp:
- Mẹ đừng tưởng! Dù sao, con cũng đủ sức giết một con chó sói hay một tên Đức.
Và nàng ra dấu bằng mắt để chỉ một khẩu súng lục lớn treo trên nóc bếp.
Chồng nàng đã nhập ngũ từ khi có cuộc xâm lăng của quân Đức. Chỉ còn hai mẹ con ở lại với người cha, lão Nicolas Pichon, tục gọi L’Échasse [9] , một lính kiểm lâm già; ông này nhất quyết không chịu rời khỏi nhà để tản cư vào thành phố.
Gần đó là thị trấn Rethel, một yếu điểm kỳ cựu, nằm chót vót trên một hòn núi đá. Giàu lòng yêu nước, dân chúng ở đây nhất định kháng cự quân xâm lăng, quyết ở lại trong nhà và cố thủ theo truyền thống của thị trấn. Dưới thời vua Henri IV và Louis XIV, dân chúng ở thị trấn Rethel đã hai lần vẻ vang trong những trận chống trả oai hùng. Lần này, họ cũng hành động như vậy, chớ sao, bằng không, quân địch sẽ đốt nhà họ và ném họ vào đống lửa.
Cho nên họ mua đại bác và súng trường, trang bị một đạo dân quân, tổ chức nhiều tiểu đoàn, nhiều đại đội, và suốt ngày họ rèn luyện tại công trường của thị trấn. Tất cả, người làm bánh mì, bán tạp hóa, bán thịt, chưởng khế, đại tụng viên, thợ mộc, bán sách, dược sĩ, ai ai cũng đều luân phiên tự mình tập luyện vào những giờ đều đặn, và dưới quyền chỉ huy của ông Lavigne, cựu hạ sĩ quan khinh kỵ, hiện bán hàng xén; ông này đã cưới con gái của một người anh trưởng trong họ Ravaudan và thừa hưởng luôn cửa hàng của cha vợ.
Ông mang cấp bậc thiếu tá, chỉ huy trưởng thị trấn, và vì lẽ các thanh niên ở đây đã vào quân đội, ông lập thành đội ngũ những kẻ còn lại để thao lược kháng cự quân thù. Ai béo mập thì ra đường phải chạy thể dục cho tan mỡ và thêm sức dẻo dai, còn ai gầy ốm thì phải khuân vác nặng cho bắp thịt rắn chắc.
Và người ta đợi quân Đức. Nhưng những người này không đến. Tuy vậy, họ cách đó chẳng bao xa, vì đã hai lần, những tên tiền phong của họ len lỏi qua cánh rừng và đến tận ngôi nhà ở miền rừng núi của ông Nicolas Pichon, tục gọi L’Échasse.
Ông lính kiểm lâm già, nhanh nhẹn như con cáo, liền vào thị trấn báo tin. Người ta cho quay súng đại bác về hướng địch, nhưng quân địch không xuất hiện.
Ngôi nhà của lão Nicolas Pichon được dùng làm tiền đồn trong khu rừng Aveline. Cứ hai phen mỗi tuần, lão vào thành mua lương thực, và mang tin tức trong vùng cho dân chúng ở thị trấn biết.
Hôm ấy, lão vào thành để báo cáo một toán nhỏ bộ binh Đức đã dừng chân tại nhà lão vào khoảng hai giờ trưa ngày trước đó, nhưng rồi họ lại đi ngay. Viên hạ sĩ quan chỉ huy nói tiếng Pháp.
Khi ra đi như vậy, lão đem theo hai con chó, loại chó canh to lớn, mồm như mồm sư tử, vì lão sợ bầy chó sói, đã bắt đầu trở nên hung dữ. Để hai mẹ con ở nhà, lão căn dặn phải chèn cửa chắc chắn, vừa khi trời sụp tối.
Cô con gái không sợ gì cả, nhưng bà lão run sợ luôn, và nói đi nói lại:
- Sẽ hỏng cả, tình hình này, cha con mầy sẽ thấy hỏng cả.
Đêm ấy, bà lão càng lo sợ hơn thường ngày. Bà hỏi:
- Con biết mấy giờ cha con sẽ về không?
- Chắc không trước mười một giờ đêm. Khi nào có dùng cơm với viên thiếu tá, thì đều về trễ.
Và nàng đặt cái nồi lên bếp để nấu xúp. Bỗng nàng dừng tay, lắng nghe một tiếng động không rõ, lọt vào do ngõ ống khói của cái bếp.
Nàng nói khẽ:
- Có ai đi trong rừng; ít ra cũng bảy, tám người.
Bà mẹ hoảng sợ, tay chận cái bánh xe kéo chỉ lại, miệng lẩm bẩm:
- Trời ơi! Mà cha mầy lại không có ở nhà!
Bà chưa nói dứt lời thì những tiếng đập mạnh làm rung chuyển cánh cửa cái.
Vì hai người đàn bà không trả lời, nên một giọng nói, phát ra từ cổ họng, hét to:
- Mở cửa.
Rồi, một lát sau, cũng cái giọng ấy nói tiếp:
- Mở cửa, nếu không tôi sẽ phá!
Nàng Berthine liền lấy khẩu súng lục lớn treo trên bếp đút vào túi váy mình, rồi đến đặt sát tai vào cửa. Nàng hỏi:
- Ai?
Giọng nói đáp:
- Tôi là toán quân hôm trước.
Thiếu phụ hỏi tiếp:
- Ông muốn gì?
- Tôi và toán quân của tôi đi lạc trong rừng từ sáng. Mở ngay, nếu không tôi sẽ phá cửa.
Biết không thể chọn cách gì khác, nàng gạt mạnh cái then gài lớn, rồi kéo cánh cửa nặng nề ra; nàng thấy trong bóng tối lờ mờ của tuyết sáu người, sáu quân nhân Đức, những người lính đã đến hôm qua. Với một giọng quả quyết, nàng hỏi:
- Giờ này các ông đến đây để làm gì?
Viên hạ sĩ quan lặp lại:
- Tôi đi lạc, lạc hẳn, nhưng tôi nhận ra ngôi nhà. Từ sáng nay, tôi chưa ăn gì cả, toán quân của tôi cũng vậy.
Nàng Berthine thú thật:
- Nhưng tối nay, chỉ có tôi và mẹ tôi ở nhà.
Tên quân nhân, người có vẻ đàng hoàng, nói:
- Không hề gì. Tôi không quấy quả các người đâu, nhưng các người phải cho chúng tôi ăn uống. Chúng tôi đói xỉu và mệt lả.
Nàng lui bước để tránh chỗ và nói:
- Vào đi.
Cả bọn bước vào, người nào cũng dính đầy bụi tuyết. Nón sắt của họ bị phủ dưới một lớp bọt trắng, giống như những cái bánh ngọt được tráng kem; họ có vẻ mệt mỏi, lả người.
Nàng chỉ những chiếc ghế gỗ dài đặt ở hai bên cái bàn lớn và nói:
- Ngồi đấy. Tôi đi làm cho món xúp. Các ông có vẻ mệt lả thật.
Nàng đổ thêm nước vào nồi, cho thêm bơ và khoai tây, đoạn nàng lấy một miếng mỡ treo ở bếp ra, cắt một nửa và cho vào nồi nước hầm.
Sáu người lính theo dõi mọi cử chỉ của nàng, với những cặp mắt biểu lộ sự đói khát. Họ để tất cả các khẩu súng trường và nón sắt ở một góc nhà, và ngồi chờ, ngoan ngoãn như những đứa bé ngồi trong lớp học.
Bà mẹ trở lại xe chỉ, và luôn luôn liếc nhìn những tên lính xâm lăng với đôi mắt cuống quýt. Người ta không còn nghe gì khác ngoài tiếng kêu rù rù của bánh xe kéo chỉ, tiếng củi nổ trong bếp và tiếng nước bắt đầu sôi.
Nhưng bỗng một tiếng động lạ thường làm cho mọi người giật mình; nó giống như một hơi thở khàn, hắt vào phía dưới cánh cửa, một hơi thở rống và mạnh của thú vật.
Người hạ sĩ quan Đức nhảy vọt đến chỗ để súng. Nàng Berthine lấy tay ra dấu cản lại, và nói, mặt tươi cười:
- Chó sói đó. Chúng nó lảng vảng ở đây và chúng đi kiếm ăn.
Hắn không tin, muốn xem, và khi cánh cửa vừa mở, hắn thấy hai con thú lớn màu xám chạy thoát với một nước phóng nhanh và dài.
Hắn trở lại chỗ ngồi và nói nhỏ:
- Tôi không thể ngờ được.
Và hắn đợi làm xong bữa ăn.
Họ ăn ngấu nghiến, há toác mồm thấu tai để nuốt cho nhiều, đôi mắt mở tròn xoe cùng lúc với hai hàm nhai há rộng, và họng thì nuốt nghe như tiếng nước chảy òng ọc ở máng xối.
Hai mẹ con yên lặng nhìn những bộ râu hung đỏ nhóp nhép lẹ làng; và bao nhiêu khoai tây đều hình như lọt mất dưới lớp râu rậm rạp đang chuyển động.
Và họ đang khát, nên nàng sơn nữ xuống hầm lấy rượu táo cho họ uống. Nàng ở dưới đó một hồi lâu. Người ta đồn rằng trong thời cách mạng, cái hầm vòm cong và nhỏ của nhà nàng đã được dùng làm ngục thất và nơi giấu đồ. Muốn xuống hầm, phải đi theo một cầu thang hẹp và vòng quanh, đậy lại bởi một tấm nắp sập, đặt ở phía trong cùng của nhà bếp.
Khi trở lên, nàng Berthine cười; nàng cười một mình, có vẻ thâm độc. Nàng trao bình rượu cho mấy người Đức. Đoạn nàng cũng ăn bữa cơm tối với mẹ, cả hai người ngồi ở góc đàng kia nhà bếp.
Những người lính đã ăn xong, và cả sáu người đều ngủ gật quanh bàn. Thỉnh thoảng một cái trán gục xuống, đụng phải mặt bàn với một tiếng kêu khẽ, và anh chàng bị đánh thức bất ngờ, liền ngẩng thẳng người lên.
Nàng Berthine nói với người hạ sĩ quan:
- Trời! Các ông hãy nằm trước bếp mà ngủ; có đủ chỗ chán cho sáu người. Tôi và mẹ tôi lên ngủ ở phòng trên.
Và hai mẹ con lên tầng thượng. Người ta nghe tiếng khóa cửa, tiếng họ đi một lát, rồi thì im lặng hẳn.
Những người Đức, nằm dài giữa nền nhà, chân quay về phía bếp lửa, đầu gối lên những chiếc áo tơi được cuộn lại, và không mấy chốc, cả sáu người đều ngáy trên sáu âm tầng khác biệt, hoặc rít cao, hoặc vang rền, nhưng tất cả các giọng ngáy đều liên tục và dữ dội.
Họ ngủ thật cũng đã lâu, bỗng một tiếng súng nổ vang, rất lớn, tưởng chừng như bắn sát vách nhà. Những người lính chồm dậy ngay. Nhưng lại có hai tiếng nổ nữa, rồi tiếp theo là ba tiếng nổ khác.
Cánh cửa tầng trên mở tung, và nàng sơn nữ hiện ra, đi chân không, còn mặc chiếc sơ mi ngủ và cái váy ngắn, tay cầm cây nến, vẻ mặt hoảng hốt. Nàng ấp úng:
- Quân Pháp đến; họ đi ít nhất cũng hai trăm người. Nếu họ bắt gặp các ông ở đây, họ sẽ đốt nhà. Các ông hãy xuống hầm thật nhanh và phải im lặng. Nếu các ông làm ồn ào thì nguy cho tất cả.
Viên hạ sĩ quan sợ hãi, nói khẽ:
- Được ngay, được ngay. Xuống lối nào?
Thiếu phụ vội nâng các nắp sập vuông và hẹp lên; sáu người lính liền mất dạng theo cái cầu thang vòng quanh, tuột xuống hầm hết người này đến người khác, tất cả đều đi giật lùi để thăm dò các bậc thang.
Nhưng khi cái chóp nón nhọn của người lính cuối cùng vừa khuất dạng, nàng Berthine liền đậy tấm ván nặng bằng gỗ sồi, dầy như một bức tường, cứng như thép, và được giữ chặt bởi những bộ bản lề và một ống khóa như loại ống khóa ở ngục tối; nàng khóa kỹ hai vòng, xong nàng cười nhưng không cho ra tiếng, vẻ mặt hân hoan, trong lòng thèm muốn vô ngần được nhảy múa ngay trên đầu những tên tù của nàng.
Những người lính Đức giữ im lặng; họ bị nhốt dưới đó như trong cái hộp cứng, một cái hộp bằng đá, và chỉ nhận được không khí để thở qua một cái cửa sổ thông hơi có chắn song sắt.
Nàng Berthine liền khều lửa lên, đặt lại cái nồi trên bếp và nấu nồi xúp khác; nàng nói thầm:
- Đêm nay, cha sẽ mệt nhọc.
Rồi nàng ngồi xuống và chờ. Trong sự yên tĩnh, chỉ còn tiếng động của quả lắc nơi cái đồng hồ treo tường, đang đưa qua đưa lại những tiếng tích tắc đều đặn.
Thỉnh thoảng nàng liếc nhìn mặt đồng hồ, với một cái liếc mắt có vẻ sốt ruột vì ngụ ý:
- Chậm rì!
Nhưng chẳng mấy chốc, hình như có tiếng thì thầm dưới chân nàng. Nàng nghe những câu nói khẽ, không rõ, xuyên qua cái vòm hầm bằng gạch. Những người Đức bắt đầu hiểu mưu kế của nàng, và viên hạ sĩ quan liền leo lên cầu thang, lấy tay đấm vào cái nắp sập. Hắn lại la lớn:
- Mở cửa!
Nàng đứng dậy, tiến đến miệng hầm, và giả giọng nói sai tiếng Pháp của hắn, nàng hỏi:
- Mày muốn gì?
- Mở cửa!
- Tao không mở.
- Mở cửa, nếu không tao sẽ phá!
Nàng bèn cười:
- Phá đi, mày! Cho mày phá!
Hắn lấy báng súng bắt đầu đập vào cái nắp sập bằng gỗ sồi đậy trên đầu hắn. Nhưng ngay đối với máy phóng tạc đạn để phá thành ngày xưa, cái nắp sập này có lẽ cũng đủ sức chịu đựng được.
Cô sơn nữ nghe tiếng hắn bước xuống cầu thang. Rồi những người lính, người này đến người khác, leo lên cầu thang thử sức và dò xét chỗ khóa miệng hầm. Nhưng có lẽ đoán biết mọi cố gắng đều vô ích, nên họ lại trở xuống và tiếp tục nói chuyện với nhau.
Thiếu phụ theo dõi những lời họ nói, đoạn nàng đến mở cánh cửa cái và lắng tai nghe ngoài đêm tối.
Nàng nghe một tiếng chó sủa xa xa. Nàng liền huýt gió theo lối báo hiệu của thợ săn; tức thì hai con chó to lớn hiện ra trong bóng tối, nhảy chồm lên người nàng và mừng quấn quýt. Nàng nắm lấy cổ chúng và giữ chặt không cho chúng chạy thoát. Đoạn nàng lấy hết sức ra gọi lớn.
- Ơ ơi cha!
Từ mãi đằng xa, một tiếng trả lời vọng lại:
- Ơ ơi Berthine!
Đợi vài giây, nàng gọi lại:
- Ơ ơi cha!
Tiếng vừa rồi đã lại gần:
- Ơ ơi Berthine!
Nàng sơn nữ nói tiếp:
- Cha đừng đi ngang trước cửa thông hơi. Có những tên Đức dưới hầm.
Rồi thình lình cái bóng to lớn của ông lính kiểm lâm già hiện ra ở bên trái, chèn giữa hai thân cây. Ông lo ngại, hỏi:
- Bọn Đức dưới hầm? Chúng làm gì vậy?
Thiếu phụ bật cười:
- Tụi hôm qua đó. Cả bọn đi lạc trong rừng, và con cho chúng đi nghỉ mát dưới hầm.
Và nàng kể lại câu chuyện, bằng cách nào nàng đã nhát họ với những phát súng lục và nhốt họ trong hầm.
Ông già, gương mặt vẫn còn trầm tĩnh, hỏi:
- Cha biết tính sao đây, giờ này?
Nàng đáp:
- Cha đi gọi ông Lavigne và đoàn quân của ông ta đến. Ông ta sẽ bắt chúng làm tù binh, và ông sẽ hài lòng.
Lão Pichon mỉm cười:
- Phải, ông ấy sẽ hài lòng.
Người con nói tiếp:
- Cha có phần xúp, cha ăn nhanh rồi đi lại.
Ông ngồi vào bàn, ăn món xúp, sau khi đã đặt xuống đất hai dĩa đầy cho hai con chó.
Những người Đức, nghe tiếng người nói, liền im bặt.
Mười lăm phút sau, lão L’Echasse trở ra đi. Và nàng Berthine, hai tay ôm đầu, ngồi chờ.
Những tên tù bắt đầu náo động trở lại. Bây giờ họ la lớn, gào thét và không ngớt dùng báng súng đánh dữ dội vào nắp sập, nhưng nó vẫn không lay chuyển.
Rồi họ bắn những phát súng trường qua cửa thông hơi, có lẽ với hy vọng được nghe, nếu có toán quân Đức nào đi qua gần đây.
Nàng sơn nữ để mặc họ; nhưng sự huyên náo này làm nàng bực mình và cáu tiết. Một sự giận dữ tàn bạo nảy sinh trong người nàng; nàng ước gì được sát hại họ, lũ khốn, để họ hết ồn ào.
Rồi, càng thêm nóng lòng, nàng nhìn cái đồng hồ treo tường và đếm từng phút.
Một giờ rưỡi rồi từ khi thân phụ nàng ra đi. Bây giờ chắc ông đã đến nơi. Nàng tưởng chừng như thấy rõ cha nàng. Lão kể sự việc cho ông Lavigne nghe; ông này tái mặt vì xúc động và bấm chuông bảo con sen đi lấy sắc phục và vũ khí. Nàng hình như nghe cả tiếng trống báo động vang khắp các ngả đường. Những đầu người hoảng hốt ló ra ở các cửa sổ. Những dân quân chạy ra khỏi nhà, chưa kịp mặc áo, thở hổn hển, đang gài dây nịt đạn, và chạy, theo lối thể dục, đến nhà viên chỉ huy trưởng.
Rồi, lão L’Echasse dẫn đầu, cả đoàn quân lên đường tiến về khu rừng, trong đêm tối, trong giá tuyết.
Nàng nhìn cái đồng hồ treo tường, và tự bảo: “Chừng một giờ nữa họ sẽ tới.”
Nỗi bồn chồn tràn ngập và kích thích nàng. Nàng cảm thấy giây phút đều dai dẳng. Thật quá lâu!
Sau cùng, thời gian mà nàng đã định để họ đến, được cây kim báo dứt.
Và nàng lại mở cánh cửa cái để nghe chừng họ đến. Nàng chợt thấy một người đang đi tới một cách thận trọng. Nàng hoảng sợ, la lên một tiếng. Đó là thân phụ nàng.
Ông nói:
- Cha được lệnh trở lại xem động tĩnh thế nào.
- Không, chẳng có gì thay đổi cả.
Rồi đến phiên ông phát ra trong đêm tối một tiếng huýt gió dài và chát chúa. Tức thì người ta thấy một vật gì màu nâu, từ từ tiến tới dưới rặng cây: đó là toán tiền phong, gồm có mười người.
Lão L’Echasse nhắc luôn miệng:
- Đừng đi ngang trước cửa thông hơi.
Và những kẻ đến trước chỉ cho những kẻ đến sau cái cửa thông hơi ghê sợ.
Sau cùng, đoàn quân chủ lực xuất hiện, cả thảy hai trăm người, mỗi người mang theo hai trăm viên đạn.
Ông Lavigne bị kích thích và run run, bố trí các dân quân theo cách bao vây chặt chẽ ngôi nhà, chỉ chừa một khoảng rộng trước một cái lỗ nhỏ và tối đen, nằm sát mặt đất, và do đó không khí thông xuống hầm.
Đoạn ông ta vào trong nhà để thăm dò lực lượng và thái độ của quân địch; lúc này họ không nói năng gì cả, khiến cho người ta có thể tưởng rằng họ đã biến mất, đã ngất xỉu hay đã bay thoát qua cái cửa thông hơi.
Ông Lavigne nện chân lên nắp sập và gọi:
- Này ông sĩ quan Đức!
Người quân nhân Đức không trả lời.
Viên thiếu tá gọi lại:
- Này ông sĩ quan Đức!
Vô hiệu. Suốt hai mươi phút, ông buộc viên sĩ quan thầm lặng này ra hàng với khí giới và quân trang, đồng thời ông cam kết bảo đảm tính mạng an toàn và dành mọi lễ nghi quan cách cho hắn và cho những tên thuộc hạ. Nhưng ông không nhận được một dấu hiệu gì cho thấy sự ưng thuận hay sự thù nghịch. Tình hình trở trên khó xử.
Các dân quân giậm đế giày trên mặt tuyết và lấy tay vỗ mạnh vào hai vai, theo lối những người đánh xe ngựa hay làm, để cho thân mình được ấm áp. Họ nhìn cái cửa thông hơi với một sự thèm muốn dại dột mỗi lúc một tăng là chạy qua trước cái cửa đó.
Sau cùng, một người trong bọn tên Potdevin muốn thử xem, vì hắn rất nhanh nhẹn. Hắn lấy đà và chạy vụt qua như một con nai. Hắn đã thành công. Những tù binh tưởng chừng như đã chết hết.
Có kẻ la lớn:
- Chẳng có ai dưới hầm.
Và một dân quân khác băng qua khoảng trống trước cái lỗ nguy hiểm ấy. Rồi thì là cả một trò chơi. Cứ cách khoảng một phút, như trẻ con chơi đánh u, lại có một người phóng chạy từ toán này qua toán kia, chân tung rất mạnh làm văng tóe tuyết ra đàng sau. Người ta đã đốt những đống lửa cao với củi khô, để sưởi ấm, và cái hình bóng của người dân quân kia được chiếu sáng trong lúc hắn chạy nhanh từ hàng ngũ bên phải sang hàng ngũ bên trái.
Có người nói to:
- Maloison, tới phiên mày!
Maloison là một thợ làm bánh mì béo mập, mà cái bụng làm cho chúng bạn phải bật cười.
Hắn do dự. Ai nấy liền chế nhạo hắn. Thế là hắn quyết định vượt qua, bằng một lối chạy thể dục đều đặn, vừa thở dốc vừa lắc lư cái bụng phệ.
Cả đoàn người cười đến chảy nước mắt. Người ta la lớn để cổ võ:
- Hoan hô, hoan hô, Maloison!
Hắn vượt được hai phần ba đoạn đường, thì một tia lửa dài và đỏ từ lỗ thông hơi vọt ra rất nhanh. Một tiếng nổ vang và tên thợ làm bánh mì vĩ đại ngã sấp, và la lên một tiếng hãi hùng.
Không ai nhảy ra tiếp cứu. Thế rồi người ta thấy hắn chống hai tay và hai chân trong tuyết, vừa bò lê vừa rên rỉ, và khi ra khỏi khoảng trống nguy hiểm, hắn ngất xỉu.
Hắn bị một phát đạn nơi chỗ thịt dầy của cái đùi, sát ở trên.
Qua sự ngạc nhiên ban đầu và nỗi kinh hoàng sơ khởi, một trận cười khác lại reo lên.
Nhưng thiếu tá Lavigne xuất hiện ở thềm cửa nhà lão kiểm lâm. Ông vừa vạch xong kế hoạch tấn công. Với giọng run run, ông ra lệnh:
- Thợ thiếc Planchut và các thợ phụ đâu?
Ba người tiến lại.
- Tháo gỡ các máng xối trên nhà xuống!
Mười lăm phút sau, người ta mang đến cho viên thiếu ta hai mươi thước máng xối.
Rồi ông cho khoét, với mọi sự đề phòng và thận trọng, một lỗ tròn nhỏ và làm một máng nước dài, nối liền cái bơm nước đến cái lỗ; ông tuyên bố, vẻ mặt hân hoan:
- Chúng ta sẽ mời mấy ông Đức dùng giải khát!
Những tiếng hoan hô thán phục đồng loạt vang lên một cách cuồng nhiệt, tiếp theo là những tiếng hét vui mừng cùng những tiếng cười ngất. Và viên thiếu tá tổ chức những toán luân phiên phục dịch, cứ sau năm phút lại thay nhau. Xong, ông ra lệnh:
- Bơm!
Cái cần bơm bằng sắt chuyển động, và một tiếng kêu nhỏ chạy dọc theo các máng xối, rơi xuống hầm từ bậc thang này xuống bậc thang khác, như tiếng suối reo rơi từng nấc, hay tiếng nước róc rách chảy từ hang đá của hòn non bộ.
Mọi người đều chờ.
Một giờ, hai giờ, rồi ba giờ trôi qua.
Viên thiếu tá bồn chồn đi quanh quẩn trong nhà bếp. Thỉnh thoảng ông đặt tai sát đất để đoán chừng quân địch đang làm gì và tự hỏi chúng có chóng chịu đầu hàng không.
Bây giờ thì quân địch cựa quậy. Người ta nghe tiếng chúng động đến những thùng rượu, tiếng chúng nói, tiếng chân chúng lội trong nước.
Vào khoảng tám giờ sáng, một giọng nói phát ra từ lỗ thông hơi:
- Tôi xin nói chuyện với ông sĩ quan Pháp.
Từ cửa sổ và không thò đầu quá ra ngoài, ông Lavigne trả lời:
- Các ông chịu đầu hàng chưa?
- Tôi xin hàng.
- Vậy thì đưa súng ra ngoài.
Tức thì người ta thấy một khẩu súng ló ra ở cái lỗ và rơi xuống tuyết, rồi hai, ba, tất cả các khẩu súng. Cũng giọng nói khi nãy lên tiếng:
- Không còn nữa. Các ông nhanh lên, tôi bị ngộp nước.
Viên thiếu tá ra lệnh:
- Thôi.
Cái cần bơm bị thả rơi xuống, nằm yên.
Ông tập hợp vào trong nhà bếp các dân quân mà trước đây đứng chờ ở ngoài, súng ở chân, đoạn ông nâng từ từ cái nắp sập bằng gỗ sồi lên.
Bốn cái đầu tẩm nước hiện ra, bốn cái đầu màu vàng hung, tóc dài và nhợt nhạt, và người ta thấy sáu người lính Đức ra khỏi hầm, người này đến người kia, người nào cũng run lập cập, áo quần nhểu nước và sợ hãi.
Họ bị tóm và bị trói chặt. Rồi, vì sợ một cuộc tấn công bất ngờ, nên mọi người phải đi ngay; họ chia làm hai đoàn, một đoàn áp giải những người tù binh, và đoàn kia đưa Maloison; anh này được khiêng trên một tấm nệm đặt trên hai cây sào.
Họ trở về thị trấn Rethel trong chiến thắng.
Ông Lavigne được gắn huy chương vì đã bắt được một toán quân tiền phong Đức, và anh thợ bánh mì thì được quân công bội tinh vì bị thương do quân địch gây nên.