MA HIỆN (1883)
Người ta nói về việc tịch biên tài sản nhân một vụ tố tụng mới đây. Đó là vào lúc cuối của một buổi tối, tổ chức thân mật tại một khách sạn cũ ở đường Grenelle, và mỗi người thuật một câu chuyện, một câu chuyện mà đương sự quả quyết là đúng sự thật.
Thế rồi, vị hầu tước già De la Tour-Samuel, tám mươi hai tuổi, đứng lên và đến tựa vào lò sưởi. Ông nói với một giọng run run:
- Tôi cũng vậy, tôi cũng biết một việc lạ lùng, lạ lùng đến nỗi nó ám ảnh suốt đời tôi. Tới nay là năm mươi sáu năm kể từ ngày câu chuyện xảy ra trong đời tôi, và không một tháng nào trôi qua mà tôi không thấy nó trong giấc mộng. Chuyện đó đã để lại trong đời tôi, từ ngày ấy, một dấu hiệu, một vết tích của sự sợ hãi, các bạn rõ chứ? Vâng, tôi đã bị một cơn sợ kinh khủng trong mười phút, và nó kinh khủng đến nỗi, từ giờ phút ấy, một nỗi sợ hãi thường trực ăn sâu vào tâm khảm tôi. Những tiếng động bất thường làm tôi rùng mình; những đồ vật mà tôi nhận ra không rõ trong bóng đen của đêm tối làm cho tôi muốn bỏ chạy. Tóm lại, tôi sợ cảnh đêm tối.
Ồ! Có lẽ tôi không thú nhận điều đó, trước khi tới tuổi này. Bây giờ, tôi có thể nói tất cả. Người ta được quyền không gan dạ trước những nguy hiểm tưởng tượng, khi đã có tám mươi hai tuổi đời. Trước những nguy hiểm thật sự, tôi chưa bao giờ lùi bước, các bà ạ.
Câu chuyện ấy đã làm dao động đầu óc tôi, đã gieo trong người tôi một sự xáo trộn sâu đậm, huyền bí, kinh khủng; do đó, tôi chưa bao giờ thuật lại với ai cả. Tôi giữ im nó trong lòng, tận trong thâm tâm, là nơi mà người ta giấu kín những bí mật ê chề, những bí mật xấu hổ, những sự yếu hèn không thể khai ra, mà chúng ta có trong cuộc đời chúng ta.
Tôi xin thuật lại với các bạn câu chuyện ấy, thuật y, không tìm cách giải thích. Chắc chắn câu chuyện có thể giải thích được, trừ trường hợp tôi đã qua một cơn điên. Nhưng trước đây, tôi không có bị điên, và tôi sẽ cho các bạn thấy bằng chứng. Các bạn nghĩ sao tùy ý. Và đây là những sự việc rất đơn giản.
Đó là vào năm 1827, vào tháng Bảy. Lúc ấy, tôi đóng ở đồn Rouen.
Một hôm, đang đi trên bến tàu, tôi gặp một người đàn ông mà tôi tưởng là quen biết, mặc dù không nhớ rõ hắn là ai. Tôi dừng lại, do ở bản năng. Người kia nhận thấy cử chỉ này, liền nhìn tôi chăm chú, rồi hắn ngã vào lòng tôi.
Đó là một người bạn thân lúc thiếu thời, mà tôi đã yêu mến vô cùng. Năm năm qua tôi không gặp hắn, và bây giờ hắn già đi nửa thế kỷ. Tóc hắn bạc trắng và hắn đi khòm lưng như bị suy nhược. Hắn hiểu rõ sự ngạc nhiên của tôi, và hắn kể lại cuộc đời hắn cho tôi nghe. Một tai họa đau thương đã làm tan nát đời hắn.
Yêu say đắm một thiếu nữ, hắn đã cưới nàng và đã sống ngây ngất trong hạnh phúc. Sau một năm hưởng hạnh phúc tràn đầy quá sức tưởng tượng, với một khát vọng không nguôi, nàng chết thình lình vì cơn bịnh tim; có lẽ chính ái tình đã giết nàng.
Hắn đã rời bỏ biệt thự ngay ngày chôn cất nàng, và về sống ở tư thất của hắn ở Rouen. Hắn sống ở đó, cô đơn và chán nản, với nỗi thống khổ trong lòng, và chỉ nghĩ đến việc tự tử.
- Nhân dịp gặp anh ở đây, hắn nói, tôi xin anh giúp tôi một việc quan trọng, là đến biệt thự tìm ở bàn giấy trong phòng tôi, phòng của chúng tôi, vài giấy tờ mà tôi cần dùng gấp. Tôi không thể giao công việc này cho người tùy thuộc hay một người chạy việc, vì tôi cần có một sự kín đáo và một sự im lặng tuyệt đối. Còn tôi, tôi sẽ không đặt chân đến ngôi nhà ấy, dù thế nào đi nữa.
“Tôi đưa cho anh chìa khóa của văn phòng ấy, mà tôi đã khóa lại lúc ra đi, và cái chìa khóa bàn giấy của tôi. Anh sẽ trao một bức thư của tôi cho người làm vườn, để hắn mở cửa biệt thự cho anh vào.
“Nhưng mời anh trưa mai đến nhà tôi dùng cơm, và chúng ta sẽ bàn về vấn đề này.”
Tôi hứa với hắn là sẽ giúp hắn công việc nhẹ nhàng này. Hơn nữa, đối với tôi, đó chỉ là một cuộc đi dạo mát, vì lãnh địa của hắn cách Rouen lối năm dặm. Tôi đi bằng ngựa thì mất một tiếng đồng hồ.
Mười giờ sáng hôm sau, tôi đến nhà hắn. Chúng tôi ngồi ăn cơm, đối diện với nhau; nhưng hắn nói rất ít trong bữa ăn. Hắn cáo lỗi với tôi: hắn nói rằng việc tôi sắp đi viếng cái phòng của hắn, nơi mà hạnh phúc của hắn bị đổ vỡ, ý nghĩ đó làm cho hắn bị xao xuyến. Thật vậy, hắn có vẻ bối rối, lo lắng, như thể đang có một cuộc giằng co xảy ra trong đầu hắn.
Sau cùng, hắn giải thích một cách rõ ràng những điều tôi phải làm. Thật là giản dị. Tôi chỉ phải lấy hai bó thư và một xấp giấy tờ buộc sẵn, để trong ngăn kéo trên cùng và ở bên phải của bàn giấy mà tôi đã có chìa khóa. Hắn nói thêm:
- Tôi khỏi cần yêu cầu anh đừng dòm ngó trong ngăn kéo.
Tôi gần như bị chạm tự ái vì lời nói ấy, và tôi phản đối hắn, khiến hắn nói ấp úng:
- Anh hãy tha lỗi cho tôi, tôi đau đớn quá.
Rồi hắn khóc.
Tôi từ biệt hắn lúc một giờ để thi hành sứ mạng.
Trời hôm ấy thật đẹp, và tôi cho ngựa phi nhanh qua cánh đồng, tai nghe tiếng chim sơn ca hát líu lo, cùng với tiếng nhịp đều của cây kiếm chạm vào chiếc giày ống của tôi.
Rồi tôi tiến vào khu rừng, và cho ngựa đi từng bước. Nhiều cành cây cọ nhẹ vào mặt tôi, như để vuốt ve; đôi khi tôi lấy răng cắn một lá cây quẹt vào miệng tôi, rồi tôi nhai ngấu nghiến, lòng chứa chan niềm yêu đời; niềm yêu đời này làm cho chúng ta có cảm giác sống trong hạnh phúc, một hạnh phúc hỗn loạn và như lâng lâng không nắm lấy được; nó làm cho chúng ta có cảm giác như say sưa và đầy sinh lực.
Khi tới biệt thự, tôi tìm trong túi áo bức thư để đưa cho người làm vườn, và tôi ngạc nhiên khi thấy bức thư được niêm lại. Tôi ngạc nhiên và cáu tiết đến suýt quay về, không làm công việc đã được ủy thác. Sau đó, tôi nghĩ rằng làm như vậy, tôi sẽ tỏ ra hẹp lượng, không tốt. Người bạn tôi đã dán bức thư lại, và không nhận thấy điều này, vì đầu óc hắn đang bị dao động.
Biệt thự có vẻ bị bỏ hoang từ hai mươi năm nay. Hàng rào bị hở ra và mục nát, nhưng vẫn còn đứng vững, không rõ nhờ cách gì. Cỏ mọc lan ra lối đi, và người ta không còn phân biệt được các luống đất ở mép thảm cỏ.
Nghe tiếng chân tôi đá vào một cánh cửa sổ, một ông già bước ra từ một cái cửa bên cạnh, và có vẻ hoảng hốt khi trông thấy tôi. Tôi nhảy xuống đất và đưa bức thư cho ông. Ông đọc đi đọc lại, lật ngược lá thư, nhìn tôi không mấy thiện cảm, rồi nói:
- Thế nào! Ông muốn gì?
Tôi đáp cộc lốc:
- Ông phải rõ điều đó, bởi vì ông đã nhận chỉ thị của chủ ông; tôi muốn vào trong biệt thự.
Ông sửng sốt và nói:
- Thế nghĩa là ông vào trong… trong phòng của ông ấy?
Tôi bắt đầu hết kiên nhẫn:
- Ô, hay nhỉ! Nhưng có phải ngẫu nhiên ông có ý định chất vấn tôi không?
Ông nói ngập ngừng:
- Thưa ông… không… nhưng đó là vì cái phòng ấy không có mở cửa từ ngày… có đám tang. Nếu ông chịu khó đợi tôi năm phút, tôi đến xem… xem coi nếu…
Tôi nổi giận, ngắt ngang:
- Này, có phải ông đùa với tôi không? Ông không thể vào trong ấy được, vì chìa khóa hiện tôi giữ.
Ông ta chỉ còn biết nói:
- Vậy, thưa ông, để tôi chỉ lối đi cho ông.
- Ông chỉ cho tôi cầu thang, rồi để mặc tôi. Tôi sẽ tìm ra lối đi, không cần ông.
- Nhưng… thưa ông… tuy vậy…
Lần này, sự nổi giận của tôi đã lên cực độ:
- Bây giờ, ông hãy im mồm lại, nếu không, ông sẽ biết tay tôi.
Tôi xô mạnh ông ta ra và bước vào nhà.
Trước hết, tôi đi qua nhà bếp, kế tới hai phòng nhỏ mà ông già này ở cùng với bà vợ. Rồi tôi tới một cái phòng ngoài rộng lớn, đoạn đi lên cầu thang và nhận ra cái cửa mà người bạn tôi đã chỉ.
Tôi mở cửa dễ dàng và bước vào trong.
Căn phòng tối om, đến nỗi tôi không phân biệt được gì cả ngay lúc đầu. Tôi dừng lại, ngửi thấy mùi mốc và vô vị của những phòng không có người ở và bị cấm vào, những phòng không còn sinh khí. Rồi mắt tôi dần dần quen với bóng tối, và tôi thấy khá rõ một căn phòng lớn không ngăn nắp với một cái giường không có vải ga, nhưng còn những tấm nệm và vài cái gối, và một trong mấy cái gối có một dấu khuyết sâu của một cùi chỏ hay của một cái đầu, như thể có ai vừa mới nằm trên đó.
Những ghế tròn, ghế dài trông rất tang thương. Tôi để ý thấy một cánh cửa, có lẽ cánh cửa của một cái tủ, bị mở hé.
Tôi đi lại để mở cửa sổ để cho ánh sáng vào. Tôi mở hai cánh ở trong, nhưng hai cánh ở ngoài để che gió bị rỉ sét ở bản lề, gắt quá, tôi xô không ra.
Tôi dùng ngay tới cán cây kiếm để làm tung hai cánh cửa gió đó, nhưng không có kết quả. Vì tôi thấy bực tức đã phí sức vô ích, và cũng vì đôi mắt tôi đã quen với bóng tối, tôi bỏ ý định làm cho căn phòng trở nên sáng sủa, và tôi đi lại bàn giấy.
Tôi ngồi xuống một ghế bành, và mở ngăn kéo đã được chỉ định. Giấy tờ để đầy nghẹt tới phía trên ngăn kéo. Tôi chỉ cần ba xấp mà đã biết cách nhận diện và tôi bắt đầu tìm.
Tôi mở to mắt đọc những địa chỉ ghi ở ngoài các phong bì, bỗng tôi tưởng chừng như nghe, hay đúng hơn, như cảm thấy một sự cọ phớt nhẹ sau tôi. Tôi không để ý tới điều này, cho rằng cơn gió làm lay động mấy tấm vải. Nhưng một phút sau, một cử động khác, không được rõ lắm, làm cho da tôi bị run một cái nhẹ, một cách lạ lùng và khó chịu. Để bị cảm xúc, dù cảm xúc rất ít, là điều dại dột, nên tôi không muốn quay lại, để tránh hổ thẹn với chính tôi. Thế rồi, tôi tìm thấy xấp giấy thứ hai mà tôi cần đến; và vừa đúng lúc tôi tìm thấy xấp giấy thứ ba, thì một tiếng thở dài to và nặng nề thổi qua vai tôi, làm cho tôi nhảy vọt một cái như người điên, cách đó hai thước. Trong lúc nhảy, tôi quay người lại, tay đặt lên cán cây kiếm, và thú thật, nếu tôi không cảm thấy có cây kiếm bên hông, thì có lẽ tôi đã chạy trốn như một kẻ hèn nhát.
Một người đàn bà to lớn, mặc y phục trắng, đứng sau chiếc ghế bành mà tôi vừa ngồi một giây đồng hồ trước đó, đang nhìn tôi.
Tay chân tôi bị qua một cơn giật thật mạnh, thiếu điều làm tôi té ngửa. Ôi! Không ai có thể hiểu được những sự sợ hãi kinh khủng và rụng rời ấy, trừ trường hợp đã nếm qua. Hồn vía ta bay mất; ta không còn cảm thấy quả tim đập nữa; thân thể ta trở nên mềm nhũn như bọt biển; có thể bảo rằng tất cả bên trong của ta bị sụp đổ.
Tôi không tin có ma quỷ; ấy thế, tôi đã gần muốn xỉu vì sợ sệt một cách quái đản những người đã chết; và tôi đã thống khổ, ồ! trong vài giây phút, tôi đã thống khổ nhiều hơn là đối với những ngày còn lại của đời tôi; tôi đã qua cảnh hãi hùng không thể chống trả lại của những sự kinh hoàng siêu phàm.
Nếu nàng không nói, có lẽ tôi đã chết mất. Nhưng nàng đã nói: nàng nói với một giọng dịu dàng và đau đớn, nó làm rung chuyển các dây thần kinh. Tôi không dám bảo rằng lúc ấy tôi đã trở lại làm chủ lấy tôi, rằng tôi đã tìm lại được lý trí. Không. Đầu óc tôi rối loạn, không còn biết những gì tôi làm; tuy nhiên, sự kiêu hãnh bên trong mà tôi đã có trước đây, thêm một ít hãnh diện của nghề nghiệp nữa, những cái ấy đã giúp tôi giữ được danh dự, giữ được một tác phong nghiêm chỉnh. Tôi tỏ vẻ cao sang đối với tôi, và đối với nàng, có lẽ như vậy, dù cho nàng là gì đi nữa, đàn bà thật hay là ma quỷ. Tôi nhận ra tất cả những điều đó sau này, còn lúc xảy ra sự hiện hình, tôi quả quyết với các bạn rằng tôi không nghĩ đến gì cả. Lúc ấy, tôi đang sợ.
Nàng nói:
- Thưa ông, xin ông hãy giúp tôi một việc!
Tôi muốn đáp lại, nhưng không thể nói được một lời. Một tiếng nghe không rõ xuất phát từ cổ họng tôi.
Nàng nói tiếp:
- Ông bằng lòng nhé? Ông có thể cứu tôi, chữa tôi khỏi bệnh. Tôi đau đớn kinh khủng. Tôi đau đớn, ôi! Đau đớn quá!
Rồi nàng ngồi từ từ xuống chiếc ghế bành của tôi. Nàng nhìn tôi.
- Ông bằng lòng nhé?
Tôi ra dấu “vâng” bằng cái gật đầu, vẫn chưa thốt được ra lời.
Thế là nàng đưa cho tôi một cái lược bằng đồi mồi và nói khẽ:
- Ông hãy chải tóc tôi; điều này sẽ chữa tôi khỏi bệnh: là người ta phải chải tóc tôi. Ông hãy nhìn kỹ đầu tôi… Ôi! Tôi đau đớn làm sao! Và tóc của tôi làm cho tôi đau đớn quá!
Tóc của nàng bỏ xõa, đối với tôi, hình như thật dài, thật đen, thòng lòng khỏi mặt ghế và chấm tới đất.
Tại sao tôi làm điều này? Tại sao khi cầm cái lược người tôi run lên, và tại sao tôi nắm trong tay những sợi tóc dài của nàng, mà những sợi tóc này cho tôi một cảm giác lạnh kinh khủng, như thể tôi đang nắm những con rắn? Tôi không hiểu gì cả.
Cái cảm giác đó còn tồn tại tới ngày nay ở những ngón tay tôi, và tôi rùng mình mỗi khi nghĩ đến.
Tôi chải tóc nàng. Tôi sờ mó, tôi không rõ như thế nào, những sợi tóc lạnh như nước đá ấy. Tôi xoe lại, tôi thắt gút, rồi tháo ra, tôi đan những sợi tóc ấy thành bím. Nàng thở ra, cúi đầu xuống, có vẻ sung sướng.
Thình lình nàng nói: “Cám ơn!”, rồi giựt cái lược trong tay tôi, và chạy thoát qua cái cửa mà tôi đã để ý mở hé.
Còn lại mình tôi, tôi hoảng hốt trong mấy giây đồng hồ, một thứ hoảng hốt khi ta thức giấc sau những cơn ác mộng. Kế đó, tôi đã tỉnh táo; tôi chạy lại cửa sổ, đập mạnh làm tung hai cánh cửa gió trong cơn giận dữ.
Ánh sáng ở ngoài tràn vào. Tôi phóng lại cánh cửa mà sinh vật kia đã chạy qua. Cánh cửa đã đóng chặt, vô phương lay chuyển.
Thế rồi ý nghĩ tháo chạy xâm chiếm người tôi, một sự tháo chạy kinh hoàng thật sự ở chiến trường. Tôi chụp nhanh ba xấp thư trên bàn viết, tôi chạy băng qua căn phòng, nhảy xuống cầu thang từng bốn bậc một, ra tới phía ngoài, không biết ở chỗ nào, rồi nhìn thấy con ngựa của tôi cách đó mười thước, tôi nhảy phóc lên lưng ngựa và cho ngựa phi nhanh.
Tôi chỉ dừng lại ở Rouen và trước nhà tôi. Tôi vứt cương ngựa cho người lính hầu cận, rồi chạy vào phòng đóng kín cửa lại để suy nghĩ.
Trong một tiếng đồng hồ, với nỗi bồn chồn, lo lắng, tôi tự hỏi phải chăng tôi vừa trải qua một cơn ảo tưởng? Thật vậy, trước đây tôi có một lần dao động thần kinh không sao giải thích được, một trong những sự loạn óc, nó tạo nên những sự mầu nhiệm, và dựa vào đó sự phi phàm có cơ phát triển.
Tôi sắp sửa tin đó là một ảo ảnh, một sự nhầm lẫn của giác quan tôi, thì bỗng tôi bước lại gần cửa sổ. Tình cờ mắt tôi cúi nhìn xuống ngực. Chiếc áo nẹp sĩ quan của tôi dính đầy những sợi tóc dài của đàn bà, quấn vào các cúc áo!
Tôi nhặt từng sợi, vứt ra ngoài, mấy ngón tay run run.
Rồi tôi gọi người lính hầu cận. Tôi nhận thấy quá bị cảm xúc, đầu óc quá rối loạn nên không thể đến nhà người bạn tôi trong ngày hôm ấy. Hơn nữa, tôi muốn suy nghĩ kỹ càng những điều tôi sẽ nói với hắn.
Tôi bảo người lính mang những xấp thư đến cho hắn, và hắn trao cho anh này một biên nhận. Hắn hỏi thăm tôi. Người lính bảo rằng tôi bị ốm, bị trúng gió… Hắn có vẻ lo lắng.
Hôm sau, vừa hửng sáng, tôi đến nhà hắn, nhất định nói sự thật cho hắn nghe. Nhưng hắn đã đi khỏi chiều hôm trước và chưa về.
Tôi trở lại buổi chiều, hắn vẫn chưa về. Tôi đợi một tuần. Hắn không xuất hiện. Thế rồi, tôi đi báo cảnh sát. Người ta ra lệnh tìm kiếm hắn khắp nơi, nhưng không tìm ra một dấu vết cho thấy hắn vừa đi qua hay trú ẩn.
Một cuộc lục soát tỉ mỉ được tổ chức tại biệt thự bị bỏ hoang. Người ta không tìm ra một điều gì khả nghi.
Không có một triệu chứng nào cho thấy có người đàn bà nào bị giấu ở đó.
Cuộc điều tra không đem lại kết quả gì cả, nên những cuộc tìm kiếm bị bỏ dở.
Và từ năm mươi sáu năm qua, tôi không được tin gì hết, không hay biết gì thêm.