CÂU CHUYỆN TIẾNG LA TINH (1886)
Mấy lúc gần đây, người ta nhồi sọ học sinh bằng tiếng La tinh, khiến cho chúng trở nên đần độn. Việc giảng dạy tiếng La tinh này gợi tôi nhớ tới một câu chuyện thời niên thiếu.
Thuở ấy, tôi trọ tại nhà một chủ trọ ở một thành phố lớn miền Trung nước Pháp, để theo học trường trung học tư thục Robineau nổi tiếng khắp trong tỉnh về việc giảng dạy tiếng La tinh.
Từ mười năm qua, trong các cuộc thi tuyển, trường Robineau luôn luôn chiếm giải nhất, ăn đứt trường trung học hoàng gia ở tỉnh lỵ và các trường trung học công lập khác ở các quận. Người ta bảo rằng sự thắng giải liên tiếp này là nhờ ở một giám học của trường Robineau, một giám học tầm thường, là ông Piquedent, hay đúng hơn, lão Piquedent.
Ông thuộc hạng người không trẻ không già, tóc điểm sương, khó đoán đúng tuổi, nhưng dễ đoán được quá khứ khi mới gặp lần đầu. Lúc hai mươi tuổi, ông xin vào làm giám học trong trường trung học tư thục nọ, để tiếp tục học thi cử nhân văn chương, và sau đó thi tiến sĩ; không rõ ông bị vướng trong cuộc đời đen tối ấy như thế nào, mà rốt cuộc, suốt đời ông vẫn là giám học. Nhưng sự say mê tiếng La tinh không buông tha ông, và cứ làm khổ ông như một sự say mê trụy lạc. Ông tiếp tục đọc các thi sĩ, văn sĩ, sử gia, và suy luận, phê phán họ với một sự kiên trì quá mức.
Một hôm, ông nảy ra ý kiến là buộc các học sinh trong phòng học của ông phải trả lời bằng tiếng La tinh. Ông khư khư giữ lấy lập trường này cho đến khi các học sinh có khả năng đàm luận với ông từ đầu đến cuối, y như khi học nói bằng tiếng mẹ đẻ.
Ông lắng tai nghe họ như một nhạc trưởng nghe các nhạc công tập dượt và lúc nào ông cũng cầm thước gõ xuống bàn:
- Anh Lefrère, anh mắc một lỗi văn phạm! Anh quên quy luật rồi sao?…
- Anh Panthel, hành văn của anh hoàn toàn theo lối Pháp, không có tí gì La tinh cả. Phải thấu triệt tinh hoa của một ngôn ngữ. Đây, anh hãy nghe tôi…
Thế là cuối năm, học sinh trường trung học Robineau đoạt tất cả các giải thưởng về dịch, đảo dịch và luận bằng tiếng La tinh.
Năm sau, ông hiệu trưởng, người bé nhỏ, gương mặt lúc nào cũng nhăn nhó và trông dị tướng, tánh tinh ranh, cho in lên các chương trình, các quảng cáo và kẻ sơn trước cửa trường:
“Chuyên dạy tiếng La tinh.
Đoạt năm giải nhất trong năm lớp tại trường trung học.
Hai giải danh dự trong cuộc thi toàn quốc cho tất cả các trường trung học tại Pháp.”
Suốt mười năm, trường Robineau đều đoạt giải như thế. Ba tôi cảm kích vì thành tích này, mới cho tôi học, theo chế độ ngoại trú, ở trường Robineau mà chúng tôi gọi là Robinetto hay Robinettino. Tôi có những giờ học ôn đặc biệt với lão Piquedent, mỗi giờ trả năm quan, trong đó ông giám học lãnh hai quan, còn ba quan thuộc phần ông hiệu trưởng. Lúc ấy, tôi được mười tám tuổi và học triết.
Những giờ học ôn được tổ chức trong một gian phòng nhỏ, quay ra đường. Nhưng lão Piquedent thay vì nói tiếng La tình như khi ở trường học, lại kể cho tôi nghe những nỗi thống khổ của ông bằng tiếng Pháp. Không bà con, thân thích, lão giám học đáng thương kia coi tôi như một bạn thân và thổ lộ hết tâm sự đau buồn của ông. Từ mười hay mười lăm năm nay, ông chưa bao giờ nói chuyện tay đôi với ai. Ông nói:
- Tôi như một cây cổ thụ giữa sa mạc. Sicut quercus in solitudine.
Ông chán ngấy các ông giám học khác; ông không quen ai ở chợ vì không có thời gian rảnh để giao thiệp. Ông nói:
- Anh ạ, ngay đến ban đêm, tôi cũng không có đêm nào riêng cho tôi, và đó là điều làm tôi khổ tâm nhất. Tôi chỉ mơ ước có được một cái phòng, với những bàn ghế của tôi, sách vở của tôi, những món đồ lặt vặt thuộc của tôi, mà người khác không có quyền sờ tới. Nhưng không có cái gì thuộc của tôi cả, ngoài cái quần đùi và cái áo rơ đanh gốt ra, không, không có cái gì cả, ngay đến tấm nệm và cái gối tôi nằm! Tôi không có bốn bức tường để tự giam hãm, trừ khi tôi vào phòng để dạy học. Anh có hiểu chăng hoàn cảnh của một người suốt đời không bao giờ có được cái quyền, không bao giờ tìm được thời giờ rảnh để ở một mình, bất cứ nơi nào, hầu có thể ngẫm nghĩ, suy luận, làm việc hay thả hồn theo giấc mơ? Ồ, anh ơi, một cái chìa khóa, cái chìa khóa của một cái cửa mà ta có thể khép lại, đó là hạnh phúc, hạnh phúc duy nhất ở trên đời. Ở đây, ban ngày là phòng học với những thằng nhãi ranh, không bao giờ chịu ngồi yên, còn ban đêm là phòng ngủ, cũng với những thằng ấy, nhưng bây giờ thì chúng ngáy khò. Và tôi ngủ trên một cái giường công cộng, ở cuối hai dãy giường của những tên ngỗ nghịch kia, mà tôi có bổn phận trông nom. Tôi không bao giờ được ở một mình, không bao giờ! Nếu ra ngoài, tôi gặp đầy thiên hạ ở ngoài đường, còn khi đi mỏi chân, tôi vào một quán cà phê, thì tôi cũng gặp toàn những người hút thuốc và những người chơi bi da. Thật là một cảnh tù đày.
Tôi hỏi:
- Sao ông không làm nghề gì khác, ông Piquedent?
Ông nói lớn:
- Nghề gì, hả anh? Tôi không phải thợ đóng giày, thợ mộc, thợ làm nón, thợ làm bánh mì, thợ hớt tóc. Tôi chỉ biết có tiếng La tinh, nhưng tôi không có bằng cấp để cho phép tôi bán chữ với một giá đắt. Nếu là tiến sĩ, tôi có thể bán một trăm quan những gì tôi bán hiện tại một trăm xu, và món hàng của tôi có thể không tốt, nhưng bằng cấp của tôi đủ để giữ uy tín cho tôi.
Có lúc ông nói với tôi:
- Trong đời tôi, tôi chỉ được nghỉ ngơi trong những giờ ở gần bên anh. Anh đừng sợ gì cả, anh không thiệt mất những giờ ấy đâu. Khi vào phòng học, tôi sẽ đền bù bằng cách bắt anh nói nhiều hơn người khác hai lần.
Một hôm, tôi đánh bạo lấy thuốc lá ra mời ông hút. Ông nhìn tôi đầy kinh ngạc, rồi ông quay nhìn ra cửa phòng:
- Nhỡ có người vào, anh ơi!
- Được rồi, ta hút ở cửa sổ.
Chúng tôi đến tì tay trên cửa sổ, ngó ra đường và giấu điếu thuốc trong lòng bàn tay.
Trước mặt chúng tôi là một cửa hiệu giặt ủi: bốn cô thợ giặt, mặc áo choàng trắng, đứng ủi áo quần, tay cầm chiếc bàn ủi nặng và nóng đến bốc hơi.
Bỗng chốc, một cô thợ giặt khác, cô thứ năm, tay xách một cái giỏ mây miệng rộng, nặng trĩu làm cô phải khom lưng, và chứa đầy áo sơ mi, khăn tay, vải trải giường để giao lại cho khách. Cô dừng lại trước cửa, có lẽ vì mỏi tay; cô ngước mặt lên, mỉm cười thấy chúng tôi hút thuốc, và với bàn tay kia, không mang gì cả, cô gửi lên chúng tôi một cái hôn gió ở đầu ngón tay, với vẻ tinh ranh của một nữ công nhân vô tư lự; rồi cô bước đi, chậm chạp, kéo lê đôi giày.
Đó là một thiếu nữ, khoảng hai mươi tuổi, nhỏ người, hơi gầy, nước da mét, khá đẹp, đôi mắt láu lỉnh dưới mái tóc hung, chải không kỹ.
Lão Piquedent cảm động, nói khẽ:
- Trời, đàn bà mà đi làm cái nghề vất vả, nặng nhọc này.
Ông xót xa trong lòng khi thấy sự nghèo khổ của dân chúng. Ông có đầu óc dân chủ, dễ kích thích và giàu tình cảm; ông nói tới những công việc nặng nhọc của thợ thuyền, đọc lên những câu văn của Jean-Jacques Rousseau, vừa đọc vừa thổn thức.
Hôm sau chúng tôi cũng đứng tì tay ở cửa sổ. Cô thợ giặt bữa trước trông thấy chúng tôi, gọi lớn: “Chào các anh học sinh!” với một giọng buồn cười, lẫn vẻ khinh khỉnh.
Tôi ném xuống cô điếu thuốc lá; cô chụp lấy, rồi châm lửa hút liền. Bốn cô kia thấy vậy, chạy ra cửa, ngửa tay cũng để xin thuốc.
Và cứ thế, mỗi ngày mối cảm tình nối liền các cô thợ ở vỉa hè với hai tên lười biếng của nhà trường.
Lão Piquedent trông thật buồn cười. Ông cứ sợ bị bắt gặp, rồi mất chỗ làm. Ông có những cử chỉ rụt rè, ngơ ngẩn, và ta có cảm tưởng như ông đang đóng một tuồng câm trên sân khấu, thủ vai một kẻ si tình, để rồi được người đàn bà ôm hôn chùn chụt.
Tôi mới nảy ra một ý thâm. Một hôm, khi vào phòng học, tôi nói nhỏ với ông giám học già:
- Ông Piquedent, ông có thể tưởng tượng rằng tôi đã gặp cô thợ giặt! Cô mang cái giỏ ấy mà, và tôi đã trò chuyện với cô!
Ông hơi luống cuống và hỏi nhỏ lại tôi:
- Cô ấy đã nói gì với anh?
- Cô nói… trời ơi… cô nói… ông trông có duyên lắm! Tôi cho rằng, không nhiều thì ít, cô ấy đã… cảm ông!
Mặt ông tái đi. Một lúc sau, ông nói:
- Có lẽ cô ta chế nhạo tôi. Từng tuổi tôi, những chuyện đó không thể xảy ra.
Tôi nói một cách nghiêm trang:
- Tại sao vậy? Ông trông được lắm!
Nhận thấy ông đã mắc mưu, tôi không nói thêm nữa.
Tuy nhiên, mỗi ngày tôi quả quyết với ông là tôi đã gặp cô thợ giặt, và nói với cô về ông; rốt cuộc, ông tin ở tôi, và bắt đầu gửi đến cô gái những cái hôn gió nồng cháy và thành thật.
Ấy thế mà, một buổi sáng, khi đến trường, tôi gặp cô thật. Tôi bước lại gần cô, không do dự, như đã quen cô từ mười năm nay:
- Chào cô, cô vẫn khỏe chứ ạ?
- Cám ơn anh, tôi khỏe luôn.
- Mời cô hút thuốc.
- Ai lại hút ngoài đường.
- Thế cô cất túi về nhà hút.
- Vâng, thế thì được.
- Cô ạ, cô có biết gì không?
- Biết gì, hả anh?
- Lão già, lão giáo sư già của tôi…
- Có phải ông Piquedent không?
- Vâng, đúng ông Piquedent. Cô cũng biết tên ông ta à?
- Sao không? Có gì đấy?
- Có chứ, là ông ta yêu cô.
Cô phát cười lên rũ rượi và nói lớn:
- Thôi, anh ơi, đừng có đùa!
- Không, tôi không đùa đâu. Ông luôn luôn nhắc đến cô trong giờ học. Tôi đánh cuộc là thế nào ông cũng sẽ cưới cô.
Cô không cười nữa. Các cô gái, khi nghe nói đến hôn nhân, là cô nào cũng trở nên nghiêm trang. Rồi cô lập lại, vẻ hoài nghi:
- Thôi, đừng có đùa!
- Tôi xin thề với cô đó là sự thật.
Cô cúi xuống xách cái giỏ để dưới chân lên:
- Được rồi, chúng ta sẽ bàn lại vấn đề ấy.
Rồi cô bước đi.
Vừa vô tới trường, tôi liền nói riêng với ông Piquedent:
- Ông nên viết cho cô ấy; cô ta yêu ông tha thiết, nhất trên đời.
Ông viết một bức thư dài, lâm ly, thắm thiết, đầy những câu bóng gió, điển tích, triết lý, những lời lẽ hào hoa, ong bướm trích trong sách vở, nói tóm lại, một tác phẩm đầy duyên dáng và hài hước sống sượng, mà tôi sẽ mang trao cho người đẹp.
Cô đọc bức thư một cách nghiêm trang, trong lòng hồi hộp, rồi cô nói thì thầm:
- Trời, ông ấy viết hay quá. Đúng là một người có học thức. Có thật ông ấy sẽ cưới tôi không?
Tôi đáp mạnh bạo:
- Ông ta yêu cô mê mệt, như kẻ mất hồn.
- Nếu thế thì Chúa nhật này, ông ấy phải mời tôi ăn cơm tối ở Cù Lao Hoa.
Tôi bảo là thế nào cô cũng sẽ được mời.
Lão Piquedent rất cảm động khi nghe tôi thuật lại những chuyện về cô.
Tôi nói thêm:
- Cô ấy yêu ông, ông Piquedent ạ, và tôi tin rằng cô là một người đứng đắn. Ông không nên quyến rũ cô ta để rồi ruồng bỏ sau đó.
Ông đáp đầy cương quyết:
- Tôi cũng là một người đứng đắn, anh ạ.
Thú thật, tôi không có ý định gì cả. Tôi dựng lên một trò đùa, trò đùa của học sinh, không hơn không kém. Tôi đoán đúng tánh thật thà của ông giám học già, sự ngay thẳng và nhược điểm của ông. Tôi chỉ biết đùa, chớ không nghĩ câu chuyện sẽ đưa về đâu. Lúc ấy, tôi mười tám tuổi và nổi tiếng là một tên nghịch ngợm nhất ở trường từ lâu.
Sau cùng, chúng tôi đều đồng ý là ông Piquedent và tôi sẽ đi xe ngựa tới bến Bắc để gặp cô Angèle, và tôi sẽ đưa họ xuống chiếc thuyền của tôi, vì lúc bấy giờ tôi đang chơi thuyền. Tôi sẽ chèo tới Cù Lao Hoa, rồi chúng tôi sẽ dùng cơm tối tại đó. Tôi buộc phải có mặt, để được mãn nguyện nhìn kết quả rực rỡ của mình; còn lão già, theo sự sắp đặt của tôi, chứng tỏ ông như người mất hồn thật, vì đi như thế có thể nguy hại cho việc dạy học của ông.
Khi chúng tôi đến bến Bắc, chiếc thuyền của tôi được cột sẵn tại đó từ buổi sáng; trên bờ sông, một cây dù viền lụa hồng nhô lên khỏi những bụi cỏ cao, và cô thợ giặt, ăn mặc lịch sự để đi chơi ngày Chúa nhật, đang chờ chúng tôi. Tôi ngạc nhiên: nàng trông xinh thật, mặc dù nước da hơi mét, và duyên dáng, tuy tướng đi còn có một ít dáng điệu của người ngoại ô.
Lão Piquedent giở nón, ngả đầu chào. Nàng đưa tay cho ông bắt, và hai người nhìn nhau không nói. Rồi họ bước xuống thuyền và tôi bắt đầu chèo.
Họ ngồi sát với nhau, ở băng sau.
Lão già mở miệng nói trước:
- Trời đẹp, đi chơi thuyền thật là thích thú.
Nàng đáp khẽ:
- Thưa vâng.
Nàng đặt tay lên mé thuyền, mấy ngón tay lướt trên mặt nước, làm nước tóe lên một tia mỏng, trong vắt như thủy tinh. Tia nước vỗ vào mạn thuyền, phát ra một tiếng bì bõm nhỏ, êm tai.
Lúc vào nhà hàng, nàng bắt đầu nói và chọn thực đơn cho buổi ăn tối: một món cá chiên, một món gà quay và một món xà lách; rồi nàng dắt chúng tôi đi xem Cù Lao Hoa mà nàng biết rành mạch.
Nàng thật là vui, tinh nghịch và hơi khinh khỉnh nữa.
Cho tới món tráng miệng, không ai đả động tới vấn đề yêu thương. Tôi đứng ra đãi chầu sâm banh, và lão Piquedent bắt đầu choáng váng. Buột mồm nàng hỏi:
- Ông Piquenez [10] .
Ông ta bỗng nói đột ngột:
- Thưa cô, chắc anh Raoul có nói với cô những ý định của tôi?
- Thưa ông, có. Anh ấy có nói với tôi.
- Thế thì cô nghĩ thế nào?
- Tôi chưa nghĩ gì cả!
Ông ta hồi hộp đến hụt hơi và nói tiếp:
- Như vậy, chừng nào cô mới nghĩ đến?
- Rõ lẩm cẩm! Ông có duyên lắm!
- Thế thì, thưa cô, cô có nghĩ đến sau này, chúng ta có thể…?
Nàng do dự một hồi, rồi với giọng run run:
- Có phải ông nói thế để cưới tôi không? Nếu không phải thì ông đừng hòng!
- Thưa cô, phải.
- Thưa ông Piquenez, như vậy là được rồi.
Thế là hai kẻ khờ khạo, thiếu suy xét này đã hứa hôn với nhau, do sự đùa nghịch của một tên nhãi ranh. Nhưng tôi cho rằng sự hứa hôn này không có gì chắc chắn, và có lẽ họ cũng nghĩ như vậy. Nàng nói ngập ngừng:
- Ông biết tôi không có một xu dính túi.
Ông ta say mèm, nói ấp úng:
- Còn tôi, tôi để dành được năm ngàn quan.
Nàng nói lớn, đắc thắng:
- Như thế, chúng ta có thể lập nghiệp không nhỉ?
Ông đâm ra lo ngại:
- Lập nghiệp gì?
- Tôi biết thế nào được? Ta sẽ bàn lại sau. Với năm ngàn quan, người ta có thể làm nên nhiều việc. Chắc ông không muốn tôi đến ở trong trường ông, phải không?
Ông chưa nghĩ xa như vậy và thấy khó xử:
- Lập nghiệp gì? Tôi thấy không tiện. Tôi chỉ biết có tiếng La tinh.
Nàng suy nghĩ một hồi, duyệt qua các nghề mà nàng mơ ước từ lâu:
- Ông không thể làm bác sĩ sao?
- Không, tôi không có bằng cấp.
- Còn dược sĩ?
- Cũng không nốt.
Nàng thốt lên một tiếng mừng rỡ, vì đã tìm ra:
- Thế thì chúng ta sẽ mua một cửa hàng tạp hóa! Trời ơi, thích quá! Chúng ta sẽ mua một cửa hàng nhỏ, vì với năm ngàn quan thì không thể làm đồ sộ được.
Ông phản đối:
- Không, tôi không thể bán tạp hóa… Ở đây, ai nấy đều biết tôi… Tôi chỉ biết… chỉ biết có tiếng La tinh.
Nhưng nàng dộng vô họng ông một ly sâm banh đầy, khiến ông im luôn.
Chúng tôi trở xuống thuyền. Trời tối đen, nhưng tôi trông rõ hai người ôm nhau hôn nhiều lần.
Cuộc đi chơi này thật tai hại. Nhà trường biết được chúng tôi đã bỏ giờ học, liền tống cổ lão Piquedent; ba tôi, bị xấu hổ, đưa tôi đến học ở một trường tư thục khác.
Tôi thi tú tài sáu tuần lễ sau, rồi lên Ba Lê học luật; tôi chỉ trở lại thành phố sinh quán sau đó hai năm.
Tới một chỗ quẹo trên một con đường nọ, tôi bỗng để ý đến một bảng hiệu với hàng chữ: Sản phẩm hải ngoại Piquedent; phía dưới, có ghi thêm cho người chậm hiểu: Tạp hóa.
Tôi bước vào, nói lớn:
- Quantum mutatus ab illo?
Ông Piquedent ngẩng đầu lên, bỏ mặc bà khách hàng, chạy lại tôi, đưa hai tay ra:
- À, anh bạn trẻ, người bạn trẻ! Trời ơi, gặp anh tôi mừng quá. Thật là may mắn biết bao!
Một người đàn bà đẹp, béo tròn, bước ra khỏi quầy hàng, cũng đến nắm lấy tay tôi, mừng rỡ. Tôi phải khó khăn lắm mới nhận ra bà, vì người bà nở nang quá cỡ.
Tôi hỏi:
- Ông bà làm ăn phát tài chứ?
Ông Piquedent quay lại cân hàng:
- Phát tài lắm, phát tài lắm. Năm nay tôi lời ròng ba ngàn quan.
- Thế còn tiếng La tinh, ông Piquedent?
- Ôi, trời ơi! Tiếng La tinh, tiếng La tinh, nó không nuôi sống mình, anh ơi!