← Quay lại trang sách

SA-ĐÉC QUA CÁC TRIỀU ĐẠI NHÀ NGUYỄN-PHÚC --

Bởi có duyên nợ đậm đà với vùng đất Sa-Đéc, nên khi trú đóng tại đây, chúa Nguyễn-Phúc-Ánh đã đặt tên làng tại Nước-Xoáy (Hồi-Oa) là làng Long-Hưng, và nhiều làng quanh vùng mang tên là Long-Ẩn, Long-Thắng, Long-Hậu.

Khi xưa, Sa-Đéc gồm có hai Tổng: An-Xuyên và Vĩnh-An, thuộc châu Định-Viễn. Đến năm Gia-Long thứ bảy (1808), đổi châu Định-Viễn làm Phủ-Định-Viễn. Hai Tổng An-Xuyên và Vĩnh-An đổi thành huyện An-Xuyên và huyện Vĩnh-An.

Phủ trị Định-Viễn châu vị 56 trượng, rào tre đặt tại địa phận hai thôn Hiệp-An và Tân-Mỹ-Đông, thiết lập từ năm Gia-Long thứ 12 (1813). Đến năm Minh-Mạng thứ 14 (1833) mới đổi qua địa phận thôn Trường-Xuân, huyện Vĩnh-Bình.

Theo "Đại-Nam Nhất Thống-Chí"(1) vùng Sa-Đéc ngày xưa bao gồm hai huyện Vĩnh-An và An-Xuyên như sau:

"Huyện Vĩnh-An, đông đến tây cách nhau 38 dặm, nam đến bắc cách nhau 22 dặm. Phía đông đến huyện giới An-Xuyên 2 dặm: phía tây đến huyện giới Phong-Phú ở phủ Tuy-Biên 36 dặm; phía nam đến huyện giới Đông-Xuyên 12 dặm; phía bắc đến huyện giới Kiến-Phong tỉnh Định-Tường 10 dặm.

"Nguyên trước là Tổng Vĩnh-An. Năm Gia-Long thứ 7 (1808) thăng làm Huyện, thuộc phủ Định-Viễn, tỉnh Vĩnh-Long. Năm Minh-Mạng thứ 13 (1832) trích thuộc về phủ Tân-Thành.

Có bốn Tổng, 36 xã thôn Bang phố."

HÌNH THỂ NGÀY XƯA

"Huyện An-Xuyên, ở đông nam phủ (Tân-Thành) 24 dặm. Đông đến tây cách nhau 48 dặm, nam đến bắc cách nhau 46 dặm. Phía đông đến sông tỉnh Vĩnh-Long 8 dặm; phía tây đến giới hạn huyện Phong-Phú ở phủ Tuy-Biên 40 dặm; phía nam đến huyện giới Vĩnh-Định thuộc phủ Ba-Xuyên 30 dặm; phía bắc đến sông tỉnh Định-Tường 16 dặm.

"Nguyên trước là địa hạt huyện Vĩnh-An. Năm Minh-Mạng thứ 20 (1839) chia đặt huyện này thuộc phủ Tân-Thành thống hạt. Năm Tự-Đức (1853) qui về phủ Tân-Thành kiêm nhiếp. Có 3 tổng, 25 xã thôn."

Như thế, rõ là đất Sa-Đéc xưa gồm có huyện Vĩnh-An và An-Xuyên, trước thuộc phủ Định-Viễn, sau thuộc phủ Tân-Thành, chia làm 7 tổng, 61 xã thôn. Điều cần biết rõ hơn, trên kia chúng tôi đã ghi lại về phủ trị Định-Viễn, tưởng nên ghi thêm về huyện trị Vĩnh-An và huyện trị An-Xuyên của Sa-Đéc xưa.

Huyện trị Vĩnh-An, đến năm Minh-Mạng thứ 13 (1832) đổi làm phủ trị Tân-Thành, châu vi hơn 50 trượng, rào tre ở thôn Vĩnh-Phước.

Còn huyện trị An-Xuyên, châu vi 50 trượng, rào tre, ở địa phận thôn Tân-Hộ, thiết lập vào năm Minh-Mạng thứ 20 (1839).

Từ đời Minh-Mạng, nhà vua đặc biệt lưu tâm đến việc giáo dục. Ngay tại Sa-Đéc thuở ấy, có đến hai trường học lớn:

Trường phủ Tân-Thành, ở phía đông phủ trị Tân-Thành, địa phận thôn Vĩnh-Phước, xây cất vào năm Minh-Mạng thứ 13 (1832).

Trường huyện An-Xuyên, ở phía đông huyện trị An-Xuyên, địa phận thôn Tân-Hộ, xây cất năm Minh-Mạng thứ 20 (1839).

Thuở ấy đất đai Sa-Đéc phì nhiêu, dân cư trù mật. Căn cứ theo những điều đã ghi ở "Đại-Nam Nhất Thống-Chí", chúng ta nhận thấy về đường thủy, các sông ngòi ở Sa-Đéc xa xưa đã được khai thông khá nhiều, đem lại sự tiện lợi cho dân chúng biết bao.

Sông Sa-Đéc - Ở phía bắc huyện Vĩnh-An 8 dặm, là bờ phía nam Tiền-giang, rộng 21 trượng, sâu 28 thước. Sông trong nước ngọt, hai bên vườn ruộng mở mang đất tốt, nhân dân giàu có. Đạo Đông-Khẩu khi trước đồn trú ở phía nam, chợ phố liên tiếp ở phía bắc, ghe thuyền tấp nập, phía tả có bến Tiên, phía hữu có bãi Phụng-Nga, hình như La-Thành hộ vệ, cảnh trí rất tốt đẹp.

Rạch Nước-Xoáy (Hồi-Oa thủy) - Ở phía bắc huyện Vĩnh-An 15 dặm, do nước sông Sa-Đéc đưa đến. Nước chảy xoáy quanh vùng, rồi hội hiệp về Tiền-giang và Hậu-giang. Lúc đầu trung hưng vào năm Đinh-Vị 1787. Thế-Tổ Cao-Hoàng-Đế có đồn trú nơi đây để hiệu lịnh các đạo quân, và nhờ địa thế hiểm yếu thu được nhiều chiến công. Đây là một nơi chiến thắng, đến nay nhân dân còn ca tụng.

Các sông Nha-Mân, An-Thuận, Tân-Đông, Long-Phụng, Hội-An, Mỹ-An, v.v... hầu hết đều giữ được khí đất sinh vượng. Hai bên ruộng vườn đều thạnh mậu.

Tuy nhiên, tình trạng an ninh ở Sa-Đéc lúc bấy giờ vẫn thường bị Chân-Lạp và Xiêm-La đe dọa. Trong năm Quý-Tị (1833), tại Gia-Định, Lê-Văn-Khôi dấy binh phản đối triều đình về vụ án Lê-Văn-Duyệt. Cuộc nội biến ấy xảy ra vào khoảng tháng năm. Nhân dân hai miền Tiền-giang và Hậu-giang chịu ảnh hưởng của thời cuộc, xôn xao không ít. Dần dần thảm họa nổi loạn lan xuống đến vùng Vĩnh-Long, Sa-Đéc. Dân chúng lầm thân não nùng.

Đã khổ về nội chiến, lại thêm vướng nạn ngoại xâm. Cũng trong năm Quý-Tị ấy, khoảng cuối năm, binh Xiêm chia làm 5 đạo thủy bộ tràn sang đánh phá các vùng Hà-Tiên, Châu-Đốc, Vĩnh-Long. Một khi khói lửa chiến tranh bùng dậy trên đất Vĩnh, cố nhiên Sa-Đéc phải đặt trong tình trạng khẩn trương. Nạn binh đao gieo tang tóc, làm khổ đồng bào Sa-Đéc không ít.

Đối phó với giặc trong là nhóm Lê-Văn-Khôi, giặc ngoài là binh Xiêm. Triều đình cử Trương-Minh-Giảng và Nguyễn-Xuân đi đánh dẹp. Vốn có đại tài, trí mưu thao lược của hai vị tướng lãnh Trương-Minh-Giảng và Nguyễn-Xuân thừa sức chống dịch. Một trận oanh liệt kết thúc cuộc chiến chống ngoại xâm, xảy ra trên sông Cỏ-Cắng (Vĩnh-Long). Tại đây, các vị tướng lãnh của ta đã hào hùng điều khiển binh sĩ phá tan thủy quân Xiêm. Thừa thắng, chỉ trong vòng một tháng, quân ta đuổi binh Xiêm ra khỏi Vĩnh-Long, tiến đánh lấy lại Hà-Tiên và Châu-Đốc. Từ ấy, dân chúng quanh vùng Vĩnh-Trà-Sa (Vĩnh-Long, Trà-Vinh, Sa-Đéc) được yên ổn làm ăn.

Cho đến triều Tự-Đức, khi tiếng súng ngoại xâm bùng nổ trên đất ta, vào khoảng năm 1862, vùng Vĩnh-Long, Sa-Đéc bị quân đội Pháp chiếm đóng lần đầu tiên, bấy giờ là ngày 28 tháng ba 1862. Rồi do hòa ước 5 tháng 6 1862, chúng mới chịu giao trả Vĩnh-Long lại(2). Nhưng chúng vẫn làm áp lực khống chế quân dân ta mãi, cốt ý xúc tiến việc thôn tính đất nước ta mới thỏa ý đồ xâm lược của họ.

Tự nhiên là dân miền Tây khi ấy vẫn đã sẵn sàng đề cao tinh thần kháng chiến, há để bó tay ngồi nhìn vận nước nguy nan. Dân chúng vùng Sa-Đéc cũng phải chịu chung nổi thống khổ điêu linh vì khói lửa chiến tranh, và cố nhiên cũng đã phải đóng góp xương máu rất nhiều trong cuộc bảo vệ đất nước thoát ách ngoại xâm của nước Pháp.

Kẻ đi xâm lược, một khi đã có đất đứng để làm bàn đạp vọt tới đánh khắp nơi thì có bao giờ họ chịu dừng tay. Quân đội Pháp đã có mặt ở Sài-Gòn, đã chiếm lấy 3 tỉnh miền Đông, tất nhiên cái cớ gồm nuốt trọn lãnh thổ miền Nam chỉ còn chờ thời gian thuận tiện là dấy động.

Chú thích:

[1] Bản dịch của Tu-Trai Nguyễn-Tạo, Nha Văn Hóa Bộ Quốc Gia Giáo Dục xuất bản.

[2] Xin xem "Vĩnh-Long xưa và nay" đã xuất bản.