CHƯƠNG 4
Giờ thì đến phiên tôi trợn mắt ngó. “Ngộ ghê.” Sau một lúc tôi mới nói. Tôi cố giữ bình tĩnh, suy nghĩ chuyện này cho thấu đáo. Một tay quái đản và một sự tình cờ quái đản, chỉ vậy thôi. Tôi muốn chuồn hơn bao giờ hết, nhưng giờ lại cảm thấy phải trò chuyện. “Tên tao được đặt theo tên ông cố tao,” tôi nói.
“Tao cũng vậy.” Mungo nói.
“Ổng là người Scotland”
“Ông cố của tao cũng vậy.”
Giờ thì cả hai chúng tôi đều trợn mắt. “Quái thiệt,” tôi nói.
Chúng tôi đứng im thêm một vài giây, rồi Mungo nói: “Ông cố của mày có chế tạo ra ra-đa không?”
“Cái đó thì tao không biết.” tôi đáp.
Mungo nheo mắt lại như thể nó không tin lời tôi. “Mày có chắc không?”
Không, tôi không chắc chút nào! Tôi không biết chuyện gì về ông cố người Scotland của mình ngoài chuyện ông có cái tên ngờ nghệch và chết trước khi tôi chào đời. Ổng có thể là tay vô địch thế giới về tài ăn món dạ dày cừu nhồi lòng mà tôi không biết. Nhưng giờ thì tôi đang lo. “Tất nhiên là tao chắc.” tôi đáp.
Nhưng Mungo không bỏ cuộc. “Vậy còn sách thì sao?” hắn hỏi tiếp: “Ổng có viết sách không?”
“Về chuyện gì?”
“Về...” Mungo ngập ngừng ngó lơ đi. “Về các chuyện thôi. Chuyện về khoa học.”
“Không. Tuyệt đối không có,” tôi đáp.
Mungo lại lặp lại các cử chỉ của tay thuyết giáo như lúc nãy. “Bỏ đi,” hắn nói. “Hẳn là chuyện tình cờ thôi. Những chuyện như thế xảy ra nhiều hơn là người ta nhận biết.” Giờ thì hắn xoa hai bàn tay vào nhau và đổi đề tài. “Tao biết chỗ khô ráo mà chúng ta có thể đốt lửa sưởi. Mình có...?” Nó không nói hết câu.
Tôi ngần ngại. Mọi chuyện có thể thay đổi nhanh như chớp. “Tao không biết,” tôi đáp: “Tao chỉ...”
“Đi mà,” hắn nói. Và cái cách hắn nhìn khẩn khoản, đột nhiên tôi hiểu rằng hắn muốn tôi đi cùng. Đó là chuyện xảy ra nếu bạn sống đơn độc trong vùng vắng vẻ Manuresville này.
“Được rồi, một lát thôi à nghen.” tôi đáp. “Đi đường nào đây?” Hắn chỉ tay xuống con đường làng chạy về hướng đường cái và tôi nói nó leo lên phía sau xe đạp.
Con đường cái giống như một cái biển cạn. Đèn pha bật lên lúc 11 giờ sáng, đuôi xe hơi bắn nước thành những con sóng cong qua màn mưa. Trong khi nhìn những chiếc xe hơi, tôi ngoái lại nói: “Đôi khi người ta có gọi mày là Mong không?”
Mungo không đáp lại câu hỏi, mà nói: “Mày có dái tai giống tao.”
Tôi nói: “Mày muốn nói là cả hai đứa mình đều là đầu cá trê?”
Nó chỉ mỉm cười và nhảy xuống xe. “Đi tới tiệm tạp hóa trước,” hắn nói. “Nó ở ngay đây thôi. Tao cần mua diêm quẹt.”
“Tao sẽ chờ bên ngoài.” Tôi nói. “Mày có thể mắc bệnh chết người ở trỏng.”
“Tại sao?” Mungo hỏi.
“Mày không thấy bàn tay ổng hả? Lỡ mà đụng chúng thì mày sẽ lây thứ gì đó rất nguy hiểm, tao nghĩ vậy.”
“Vì ổng là pê-đê à?”
“Mày nghĩ gì vậy chứ?”. Tôi hỏi lại. Thiệt tình. Bạn gặp một tay nhà quê ở tận đâu đâu và bạn lại quá khao khát được trò chuyện với một kẻ chưa-làthây-ma cho đến độ bạn tự dối mình rằng hắn cũng ổn. Hơi quái nhưng có vẻ cũng không đến nỗi nào. Nhưng hắn không ổn chút nào, hắn là một tay ghét người đồng tính một cách cực đoan, kẻ chắc cũng cho rằng ném đá những người ngoại tình là một cách hành xử hợp lý về mặt xã hội. Và hắn cho rằng tôi cũng là một kẻ cực đoan. “Không!” Tôi nói. “Ý tao là, vì đôi tay của ông ấy trông như thể chúng mắc một thứ bệnh kinh khủng nào đó. Dù sao đi nữa phải gọi là gay mới đúng chứ. Nhưng Lão Khắm không phải gay, tao thấy điều đó.”
“Tao thấy ổng có hôi hám gì đâu.” Mungo nói. “Thôi đi nào.”
Rồi đó là lúc tôi khám phá ra rằng cửa tiệm của Lão Khắm không còn nữa. Tường gạch của nó vẫn như cũ, nhưng mặt tiền và bên trong đã được thay đổi thành một cửa hàng mới, bề thế và sáng sủa kiểu hay thấy ở Hampstead, các tài tử khoác khăn quàng dài thường ghé đến mua ô-liu. Các cửa sổ lớn có treo những dây tỏi và cành lá thay vì chấn song nhựa và xác những con ong bắp cày. Bảng hiệu mới ghi bằng chữ hoa “Gavin’s Deli” thay vì “Tiệm/Tọng Tạp Hóa”.
Hoan hô! Cuối cùng thì Lão Khắm đã kết thúc công việc mua bán của mình và một tay khác sang cái tiệm, hi vọng hắn từ London đến.
Tôi đứng chờ bên ngoài trong lúc Mungo vào mua diêm. Khi hắn ra, tôi hỏi: “Chỗ mà mình tới là ở đâu vậy?”
“Thung Lũng Hạnh Phúc [10] hả? Hổng có xa lắm đâu.”
Tôi đèo hai đứa xuôi con đường cái cho tới khi Mungo vỗ vai nói tôi rẽ phải. Tôi ráng đạp lên dốc đồi hai mươi mét giữa hàng rào cây trước khi trọng lượng của vị khách tôi chở bắt chúng tôi phải dừng lại nghỉ. Chúng tôi xuống xe và đi bộ lên đỉnh đồi.
Trên đường đi hắn hỏi: “Nè, vậy mày sống ở đâu vậy?”
“Ở ngôi nhà vườn có tên là Lòng Chảo.” Tôi làm mặt giễu: “Chán ngắt à. Còn mày?”
Hắn chỉ mơ hồ về bên trái. “Mày có biết con đường đến Bickleigh không? Vừa qua khỏi đó. Nó có trái thơm ở trụ cổng vào.”
“Nhưng tao đến từ London,” tôi nói. “Mới dọn nhà về đây thôi.”
Mắt tôi hơi rưng rưng khi nói đến London vì không dưng tôi thấy thương nơi mình từng sống. London là thành phố vĩ đại nhất trên địa cầu và tôi là một phần của nó. Vẫn là một phần của nó, cho dù có ai nói gì đi nữa.
“London à?” Mungo bật cười không tin. “Chắc là đi khỏi nó mày mừng lắm, hen?”
Lúc đó tôi muốn gọi hắn là đồ nhà quê thôi. Hắn không chỉ xúc phạm tôi mà thôi, hắn còn xúc phạm đến ba tôi nữa. Những gì còn lại của ba tôi đang cuốn bay quanh đồi Hampstead Heath. Tại sao tôi lại trò chuyện với một thằng nhóc như vậy cà, cái thằng còn là một đứa cực đoan ghét pê-đê, còn chở hắn trên xe đạp nữa chứ? Bởi vì đây là một xứ tào lao, chẳng có ai thú vị cả nên bạn phải trò chuyện với bọn mọi rợ nếu không thì chỉ có đường trò chuyện với cây cối thôi.
Khi tôi không đáp, Mungo hỏi tiếp: “Vậy ba của mày làm nghề gì?”
“Nhà sản xuất băng đĩa.”
“Wow. Ông có nổi tiếng không?”
Ba ơi, con xin lỗi nghen, con nói dối về ba, không phải để bảo vệ ba, mà để bảo vệ con. Dù sao thì con không muốn thằng nhóc kỳ quái mà con chỉ vừa mới gặp biết là ba đã chết. Có điều gì đó cho con biết rằng hắn có thể dùng điều đó để chống lại con; nhưng không nói với hắn là một sai lầm, như kết quả về sau này.
“Trong giới của mình, đúng vậy,” tôi đáp. “Ổng biết nhiều người nổi tiếng.”
“Như ai nào?”
“Eric Clapton? [11] Kevin Spacey [12] ? Biết hông?” Mungo nhún vai.
“Sao, mày chưa từng nghe danh họ à?” tôi hỏi. Tôi không tin nổi. “Mày có nghe đến Elvis Presley [13] hông?”
“Tất nhiên tao biết chớ,” Mungo đáp. “Mà mày có nghe tiếng Erwin Schroedinger [14] hông?”
“Ổng là ai vậy?”
“Ổng là một ảo thuật gia. Kiểu giống vậy đó.” Mungo dừng lời, rồi nói: “Ba mày có nghiêm hông?”
Tôi bật cười. “Không. Ổng không giống một ông bố lắm đâu. Giống một người bạn hơn. Ổng để tao uống bia và các thứ. Ông thật là dễ thương.”
Một cảm giác thật dễ chịu, khi nói về ba như thể ông vẫn còn sống. Và về sau, khi tôi nghĩ về điều đó, thì nó lại là một cảm giác buồn vô cùng.
“Ổng có yêu má mày không?”
Câu hỏi làm tôi ngạc nhiên. “Tao không biết.” Tôi nói, rồi cảm thấy bực bội với chính mình, bởi vì tôi biết câu trả lời thật là: Yêu chứ, nhiều lắm kìa.
“Ổng có đi chơi thuyền với bà không?” Mungo hỏi tiếp.
“Chỉ là những chuyến đi chơi giả bộ thôi, hầu hết là như vậy. Cái gì đây nè? Vịnh Guantanamo ở Cuba hả?”
“Họ có... mày biết đó...”
“Cái gì?”
“Mày biết mà, vẫn làm vụ đó.”
“Khùng quá,” tôi đáp, “mày là thằng bệnh hay gì đây?”
Câu hỏi của Mungo thiệt lạnh gáy. Tôi hỏi lại: “Còn ba má mày thì sao?”
“Chắc mày nói giỡn hả.” Mungo đáp. Rồi đột nhiên nó vụt chạy nhanh lên trước, nhắm hướng đỉnh đồi, tôi nghĩ là hắn làm như vậy để tôi không thấy được vẻ mặt của hắn.
Lôi chiếc xe theo, tôi bắt kịp hắn ở đỉnh đồi và nhận ra mình đang đứng ở đâu. Trước mặt chúng tôi là những cánh đồng rộng và các bờ rào trải dài đến chân trời có những rặng cây nhấp nhô lởm chởm. Lúc này không có nắng lấp lóa, không có bọn cào cào vui vẻ huyên náo trong các dãy rào, chỉ màn mưa rào rào trên đồng và dưới chân chúng tôi thành những cuộn nước lười lĩnh. Nhưng chắc chắn đây là nơi tôi đã đến bằng xe đạp, trước khi phóng xuống dốc đồi tông vào chiếc xe tải.
Nhưng cảnh vật có phần khác trước. Trước kia gần dưới chân đồi có một hàng rào bảo vệ bao quanh một ngôi nhà cổ rất to và những nhà chứa trong trang trại, nơi mà tôi tông vào chiếc xe tải: Nông trại Hedge End Hall, nhà của gia đình Cá Chua, Brian, Felicity, và Tally. Nhưng giờ đây tôi thấy không còn hàng rào, và mặc dù có một ngôi nhà trông quen thuộc, với những ống khói cao, nhưng không còn các căn nhà phụ bên ngoài hay chuồng gia súc. Thay vì vậy, ngôi nhà hầu như bị cánh rừng tối, trông như một dải đất xa dưới hàng cây cắt dài, vây quanh và nuốt mất. Nơi giờ đây chúng tôi đứng giống như ngọn đồi mà tôi đã đến, nhưng nó không giống như trước.
Mungo chỉ xuống hàng cây và các ống khói cao. “Vậy đó, nó đây rồi,” hắn nói. “Thung Lũng Hạnh Phúc và Ngôi Nhà Thung Lũng Hạnh Phúc.” Rồi lại bỏ đi trước tôi, đôi chân mềm dẻo của hắn bước những bước dài nôn nóng xuống đồi. Tôi nhìn hai bả vai hắn nhấp nhô như đôi cánh ma qua chiếc áo thun ướt đẫm nước mưa, rồi phóng người lên xe thả cho xe chạy về phía hắn.
Thời tiết quét qua thung lũng, mưa lùa thành từng đợt đẹp não nùng như hình cảnh vật trên màn hình vi tính. Nhưng trong lúc tôi vừa ngắm cảnh, vừa lướt xuống dưới chân đồi, thì thời tiết và cảnh vật đã thay đổi. Một ánh chớp bất ngờ từ nơi đẩu nơi đâu, không dưng lóe lên thật kỳ dị, mà không có tiếng sấm.
Tôi suýt ngã xuống xe vì hoảng hồn, và khi ngó lên thì thấy một vết dài màu xanh lơ hiện ra trong các đám mây đen. Gió thổi vệt xanh càng lúc càng loang lớn ra cho tới khi đột nhiên mặt trời lóa lên như một màn quảng cáo bơ hay bột giặt, làm cả thung lũng tràn đầy một màu tươi vàng rực rỡ. Cánh đồng bắp trở thành những chiếc áo vàng gợn sóng của đội bóng Brazil, chim hót líu lo và khi tôi nhấc tay khỏi tay lái để kiểm tra thì thấy rằng trời đã tạnh mưa. “Ê nè!” tôi gọi to lên và cố nhìn phía trước tới chỗ mà tôi nghĩ là Mungo đứng.
Nhưng Mungo đã tan vào màn không khí mùa hè êm ả.
Khi tôi về đến nhà thì chiếc xế Cá Chua không còn đậu trong lối vào. Má hỏi: “Chúa ơi, con đi đâu vậy? Con không mang di động theo à? Má gọi cho con quá chừng luôn.”
Tôi đáp: “Quanh đây nó không bắt sóng.” Quả thật là như vậy. “Con đi chơi với...” Mình đi chơi với ai vậy ta? Mình có đi chơi với ai không, hay vì buồn quá nên mình tưởng tượng ra là có bạn như một thằng bé ba tuổi bất bình thường? Có vẻ như không thật cho lắm: cái tên, dái tai, những chuyện về ông cố mình, cái cách hắn đi mất một cách ma mị. Sao đi nữa thì tôi cũng không gọi hắn là Mungo, má sẽ nghĩ là mình phát khùng thiệt rồi.
“... Steve,” tôi đáp.
“Steve là đứa nào?”
“Con kể cho má nghe rồi. Cậu bạn mà con nói với má đó.” Má nheo mắt và nhăn mũi lại. Bà đang làm cái việc mà bà gọi là đánh-hơi-ra-chuột. “Má nhớ không? Con nhắc tới hắn lúc gia đình ông Cá Chua tới chơi lần trước đó. Tên hắn là Steve và con gặp hắn vài lần rồi hẹn gặp nhau.”
“Trong mưa tầm tã vầy hả? Mà nè, tên của ông Boland là Brian à nghen.”
“Dạ. Mưa thì mưa, đâu có sao. Mưa càng khoái. Ai cũng nghĩ là họ phải núp mưa nhưng hông phải vậy. Má thử dầm dưới mưa coi, để cho thiệt ướt luôn. Đã lắm.”
“Ba con biểu vậy hả?”
“Không đâu. Mà ba thì dính gì với chuyện này?”
“Con phải đi tắm nước nóng. Con sẽ bị cảm lạnh cho coi. Vậy chớ nó ở đâu, cái thằng Steve đó?”
“Con không biết.”
“Con không biết hả?”
Tôi nhớ lại mấy trái thơm. “À, chờ tí. Nó nói ở gần Bickleigh hay gì đó.”
“Con thiệt là hỗn đó nghen, Mungo.” Má chỉ gọi tên cúng cơm của tôi như thế khi bà giận lắm. “Thiệt là rầy rà khó xử với Brian và Tallullah. Má phải nói dối cho con. Khi má gọi mà con không xuống nhà, má phải giả bộ là quên rằng con không có nhà. Chuyện đó không phải tí nào, Mungo à.”
Tôi đáp: “Brian và Talullah Boland à. Ôoooooi!”
Má đứng chống nạnh. “Vậy chứ con đi đâu?”
“Con nói rồi. Đi với Steve. Và con mặc kệ má có tin hay không, vì thật là vậy mà. Á à, và Tally có thể giận luôn vì con không chơi được với một con nhỏ nhà quê đỏm dáng như vậy đâu.”
Má im lặng một cách đáng ngại. Bà nói: “Má chỉ nói một điều này thôi. Má không thích cái tính láu cá quanh co đâu nghen. Tính láu cá đó đang mò vô ngôi nhà này và má sẽ dẹp nó à. Mà má cũng không muốn nghe tiếng thô tục chửi thề trong nhà này. Con có hiểu không hả, Mungo?”
Tôi đáp: “Đó là hai chuyện.”
“Mungo!!” Sau đó, trong im lặng, tôi nghe tiếng cái đồng hồ của ông ngoại tích tắc trong phòng khách.
“Dạ?”
“Giờ má không muốn ngó thấy con láng cháng loanh quanh đây. Đi tắm. Rồi vô phòng của con đi.”
Trước khi tắm tôi nhón gót đi vào phòng má. Tôi phải thật thận trọng vì ngôi nhà đã quá cũ, nó kêu cọt kẹt. Tôi bò xuống sàn nhà ngó vào dưới gầm giường má. Sau khi ba qua đời, má có giữ lại một vật của ông, đúng hơn là hai vật: đôi giày bằng da báo. Một ngày nọ trong khi tôi đi học, mọi thứ khác của ông biến mất trong bao rác, kể cả sợi dây lưng mà Keith Richards [15] đeo trong chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới của ban Rolling Stones vào thập niên 80 (tôi không thèm nói chuyện với má suốt cả tuần sau khi món đó đội nón ra đi). Nhưng đôi giày thì bà cất dưới gầm giường. Không sâu lắm nên có thể lấy chúng ra dễ dàng, nhưng ở giữa gầm giường nên phải nằm ẹp xuống sàn nhà và với tay vào trong, và cũng phải cần cầm một vật gì đó như là cái móc áo để khều chúng ra. Má không biết rằng tôi biết bà cất chúng dưới gầm giường. Và bây giờ thì tôi đang kiểm tra xem chúng còn ở đó không, xem chúng có di chuyển an toàn từ Camden Town đến Manuresville không.
Chúng nằm an toàn ở đó, ngay ở giữa gầm giường. Tôi khều chiếc gần nhất bằng cái móc áo mà tôi cầm theo ra, chiếc bên trái, rồi áp nó vào mũi như thể nó là cái mặt nạ dưỡng khí. Tôi hít vào thật sâu, hít lấy mùi của ba, rồi tôi úp nó lên tai biến nó thành cái điện thoại. “Ba ơi, ba,” tôi nói. “Đến giúp con với. Chuyện khỉ gì đang xảy ra vầy nè trời?”
Tối hôm đó má nấu gà lôi, món mà tôi không tham gia vì nó bị mấy tay nhà quê bảnh tẻng bắn và vẫn còn đạn trong người. Tôi nhặt ra mấy mảnh đạn chì và để chúng một bên đĩa.
Má ngó tôi một lúc rồi thở dài, nói: “Con có ăn miếng nào không hay là chỉ bươi nó ra cho vui thôi? Hôm nay con nhất định làm khó má phải không?”
Tôi đáp: “Sao má gọi con là Mungo? Con ghét cái tên ấy. Đó là cái tên nhảm nhí.”
“Con biết rất rõ vì sao mà. Đó là tên ông của má.”
“Đúng vậy, nhưng tại sao nó không là tên thứ hai của con, cái tên mà má chẳng bao giờ dùng. Để cho con chỉ là Mark hay Dave, giản dị vậy thôi.”
“Vậy là cái tên đó không ngon lành, phải không nào? Vấn đề chính là để giữ lại kỷ niệm của cố. Con nên tự hào chứ. Cố là một người đặc biệt. Đi trước thời đại của cố. So với cố thì bọn cười nhạo cố chỉ là những kẻ quá nhỏ bé.”
“Tại sao chúng cười nhạo cố?”
“Bởi vì cố không ngại suy nghĩ và nói lên những điều khó khăn. Thôi, giờ thì ít ra là con cũng ăn rau đi.”
“Cố có đầu cá trê như mình không?”
“Cưng nè, đừng có gọi như thế. Tất cả chúng ta không thể đều giống nhau. Sao đi nữa, mình có đôi tai hoàn toàn bình thường và cố của con cũng vậy.”
“Vậy là cố có đầu cá trê. Cố có chế tạo ra ra-đa không?”
Má bàng hoàng khựng lại, tay cầm dao và nĩa để lửng giữa không trung. “Cố thường tuyên bố là có làm, đúng vậy. Và má luôn tin rằng cố có làm, cho dù cố chưa bao giờ được công nhận. Sao con biết chuyện đó?”
Tôi cố giữ vẻ tự nhiên và nói: “À... Con nghĩ là có lần ba kể với con.”
Tôi chờ vài phút, ráng hết sức ăn thịt gà lôi thay vì chỉ sắp xếp lại trên đĩa, rồi tôi nói: “Vậy cố cũng có viết một cuốn sách?”
Má bỏ dao nĩa xuống và ngó tôi chăm chăm với vẻ mặt đánh-hơi-ra-chuột của bà. “Đúng là ông có viết,” bà nói. “Con biết chuyện gì nữa?”
“Con không biết gì cả,” tôi đáp, giả bộ như không có chuyện gì quan trọng. “Con chỉ nói chuyện chơi thôi mà.”
“Ba kể chuyện này với con hồi nào?”
“Ồ, con không biết, một trong những lần hai cha con đi dạo ở đây, con nghĩ vậy, khi ba muốn thoát khỏi tật nói dai của ông ngoại. Má có nước sốt nâu cho thịt gà không?”
Má làm lơ câu hỏi và nói: “Con biết đó, ông con có một bản của cuốn sách. Ông phân vân không biết nên giữ lại hay không nhưng má nghĩ rốt cuộc thì ông vất nó đi. Với một số thứ khác. Cái giá để tẩu thuốc lá của cha của ông, những thứ như vậy đó. Những kỷ niệm không đẹp. Một ngày nào đó má sẽ kể cho con nghe, khi mà má cảm thấy thoải mái với nó hơn.”
“Sao cũng được,” tôi đáp như thể tôi không nghe rõ lắm. Nhưng lại cảm thấy như thể trái tim đập nhịp đôi ì xèo trong lồng ngực.
Những trò ma mà Mungo đã chơi, chúng làm tôi ray rứt suốt đêm, không cho tôi chợp mắt. Những thứ về tên của ông cố tôi và cuốn sách ông viết, rồi trò lặng lẽ biến đi mất tăm. Hẳn đây là trò mà người ta làm ở chốn này vì chẳng có gì khác để làm. Họ tìm hiểu, dò xét bạn, tên bạn là gì, và một số thông tin mơ hồ dính líu đến ông cố của bạn, rồi họ nói lại với bạn để làm bạn hoảng hồn chơi, để chứng tỏ là họ có những năng lực siêu nhiên. Rồi - chuyện này là mảng kem trên cái bánh ngọt – chúng tan biến ngay trước mắt bạn! Mungo đã làm điều đó đến hai lần. Hắn biết các đường tắt và chỗ núp. Nhưng để rồi xem, tôi sẽ tìm ra hắn.
Buổi sáng tôi đạp xe dọc theo đường Bickleigh. Tôi tìm mấy trái thơm bên các trụ cổng, rồi rốt cuộc thấy chúng ở bên tay trái, khoảng chừng một dặm bên ngoài ngôi làng. Bức tường và mấy trụ cổng sơn trắng, những trái thơm bằng đá cỡ những trái bóng bầu dục. Tôi thả dốc đến đầu bức tường, ngã xe xuống bờ cỏ hẹp nằm giữa bức tường và con đường và xem xét chung quanh. Sau bức tường là một hàng rào cây mọc bùm xùm, chắn mất tầm nhìn của ngôi nhà.
Không phải các cổng để mở. Mà là chẳng có cổng nẻo gì cả. Tôi đi giữa những trái thơm, qua hàng rào rồi vào một khu vườn trông giống như một cánh đồng um tùm từng được dùng làm nơi đổ rác. Nằm trơ trên cỏ, như xác cá voi trên bờ biển, là hai chiếc xe rỉ sét, cửa kính vỡ và không còn bánh. Lon sơn hoen rỉ chất đống ở một góc. Nó là một ngôi nhà gỗ hiện đại, không hạp tí nào với bức tường trắng và các trụ cổng trái thơm. Một cửa sổ vỡ kính được chắn lại bằng miếng cạc-tông gấp nếp gợn sóng. Vẫn còn một ông già Noel bằng đèn nê-ông đính trên cửa trước cho dù giờ đã vào tháng tám.
Nơi này tỏa ra một tần sóng tệ hại. Tôi rùng mình và nhìn quanh, mong thấy một gã mát dây cầm cuộn thừng với ý định thắt cổ trong đầu. Thật tình thì tôi suýt đổi ý và chuồn ra khỏi đây. Rồi tôi nghĩ, mình là dân London. Chẳng có thứ gì ở cái xứ nhà quê này có thể hù dọa mình. Tôi cũng lo không chừng Mungo theo dõi mình từ một trong những cửa sổ hư hỏng bẩn thỉu kia. Đừng hòng tôi để cho hắn thỏa mãn với chuyện thấy tôi run sợ. Tôi hít sâu một hơi, nhắm mắt lại, nghĩ về ba, rồi bước thẳng đến cửa trước và rung chuông.
Bên trong nhà không có tiếng chuông reo, tôi không ngạc nhiên vì điều đó. Chắc hẳn chuông đã hư cả mười lăm năm rồi. Tôi gõ cái đấm cửa hoen rỉ giăng đầy mạng nhện. Có những ô kính cong vẹo và đục mờ trên cửa. Một vật gì tối sẫm hiện ra đằng sau ô kính và tiếng chốt cửa mở ra bên trên rồi bên dưới. Cánh cửa cọt kẹt mở ra làm tôi thối lui vội vàng đến suýt ngã.
Đứng đối diện tôi là một bà rất mập như thể toàn thân bà được làm bằng phô-mai. Da trên mặt và cổ, hai cánh tay lắc lư phô bày ra, và đôi chân ú na ú nần trơn nhẫy và trắng bệch. Bà mặc một chiếc váy đầm hoa hòe, mỏng và lôi thôi lếch thếch trông giống một tấm màn mà bà xé ra từ một chiếc xe tải bỏ phế rồi quấn quanh người.
Đôi mắt bà gần như bị vành da quanh chúng che phủ mất, như thể cần có một cái móc áo để khều móc chúng ra, và bà có lông bạc mọc trên cằm. Lạ thay, bà lại không bốc mùi phô-mai hỏng. Bà tỏa một mùi gì đó ngọt gắt, như thể bà kẹp một bình thuốc khử mùi toilet dưới mỗi bên nách trần. Nói chung, bà trông như thể bao đời nay ở trong một cánh đồng, đào những trái bom chưa nổ từ thời Thế Chiến Thứ Hai lên và xơi chúng.
Bà hỏi: “Gì đó?”
Tôi hỏi lại: “Mungo có sống ở đây không ạ?”
Bà rụt đầu lại như một con rùa, rụt vào trong những nếp gấp thịt ở cổ (móc áo có thêm một việc để làm nữa). Tôi thấy là bà ta nghĩ tôi bày trò chọc cười. Tại sao người vùng này luôn luôn nghĩ rằng tôi giễu họ? Bà không nói lời nào, chỉ lắc lắc đầu hai lần, hai cái lắc nhanh, và toan đóng cửa lại.
Tôi đưa tay ra nói, thấy mình ngốc ơi là ngốc: “Chỉ là vì... nó nói là nhà nó có mấy bụi thơm.” Tôi làm hiệu chỉ ngón cái ra sau lưng. “Vậy thằng nhóc tên là Mungo thật sự không sống ở đây sao?”
Bà-xơi-bom đáp: “Cút đi,” rồi đóng sập cửa lại.
Dáng người sẫm vẫn còn in sau ô kính cong vẹo, chờ tôi cút đi. Tôi từ từ đi trở lại băng ngang khu vườn, cố nghĩ cho ra chuyện. Khi đến mấy bụi thơm tôi ngó lại ngôi nhà, tìm chứng cớ, như là nhãn dán trên ô cửa sổ hay một trái bóng... để cho biết có một thằng nhóc cỡ tuổi của Mungo đang sống ở đó. Nhưng chẳng có khỉ gì cả, ngoại trừ cái bóng người sẫm màu không nhúc nhích từ đằng sau cánh cửa.
Thế là tôi lại dính bẫy. Thằng khốn lại cho tôi vào tròng lần nữa!
Có thể hắn giống một đứa nhà quê, nhưng thằng nhóc mà rủi thay tôi lại có chung cái tên cúng cơm với hắn lại là một tay đại bịp có hạng. Thậm chí tôi đã tin hắn vài tiếng đồng hồ nữa kìa. Hắn đã chọc ngón tay vào trong đầu tôi, rồi quậy tưng lên chỉ để cười nhạo, mà nè, không có ma nào có quyền làm chuyện đó với tôi đâu nhé. Lần sau mà hắn giở quẻ, thì sẽ có hàm răng sói ngoạm một phát đứt ngón tay cho bõ ghét.