← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 5

Có lẽ Mungo biết tôi nghĩ gì, vì hắn đã lặn mất tăm.Trong năm ngày sau đó, ngày nào tôi cũng đạp xe lòng vòng tìm hắn. Thậm chí vì buồn chán quá mà tôi liều mạng đi xuống Bickleigh với má vài lần với hi vọng may ra thấy được hắn. Tôi khám phá ra một chuyện: Lão Khắm trở về phố. Tiệm Gavin’s Deli đã trở lại thành Tiệm/Tọng Tạp Hóa như cũ – hay đó cũng là trò bịp của Mungo? Nhưng không có bóng dáng tăm hơi của Mungo đâu cả.

Sau một tuần, có vẻ như hắn giống một giấc mơ tan đi, và tôi lại quan tâm đến chuyện khác – như là chuyện về con bé Tally Bánh Tart với cây đàn cello bò rống kinh khiếp. Tally lượn quanh càng lúc càng gần gũi hơn. Cha con bé đã mò tới nhà mà không báo trước và có lần ông ta nói như vầy: “Tôi đi ngang và nghĩ rằng mình nên ghé thăm cô gái can đảm sống trong rừng, để chắc chắn là con sói vừa to vừa xấu xa chưa tha cô đi mất tiêu.”

Má không cười rộ lên vì câu tán dương đáng bị như thế. Vậy mà má lại cười dịu dàng làm tôi suýt phát ói ngay tại chỗ. Tôi có cái cảm giác kinh khủng rằng bà không còn nghĩ rằng cha nội là tay cá chua bự tổ chảng nhất trên thế giới, bất chấp cái thông điệp có ý nghĩa như thế được xăm bằng chữ in đen sì trên trán lão.

Tôi thật lo cho má. Hóa ra đời sống cứ trôi đi mãi mà bà không có được công việc thiết kế mà bà trông đợi. Không ai gọi điện đến. Má bắt đầu lai rai rượu vang từ ngay khi tiếng bíp bíp trên ra-đi-ô báo sáu giờ, chuyện đó cũng được đi ngoại trừ vài lần má uống hơi quá chén và khóc, và chuyện này thì tệ quá bởi vì tôi biết rằng đây chính là điều mà cha nội Cá Chua Brian mong muốn, để chả có thể phóng đến cứu nguy như Đội Hiệp Sĩ Cứu Khốn Phò Nguy. Và đó chính là điều chả làm. Chả dàn xếp cho má một công việc trong một cửa hàng từ thiện ở Bickleigh bốn buổi sáng và thỉnh thoảng vài buổi chiều trong một tuần. Bà bán áo choàng trùm đầu của người chết cho những người chết khác với giá 35 xu, và được trả lương khoảng mười pao một ngày!

Thiệt là rầu, nhưng ít ra nó giúp bà không quấn riết lấy tôi nữa.

Một sáng nọ, trong lúc má sửa soạn thức ăn trưa mang theo để đi làm, thì bà nói cái điều mà tôi nghĩ rằng bà đã rất muốn nói từ nhiều ngày nay. “Tally muốn gặp con lắm, con biết đó.”

“Thôi đi mà. Không, không, không... trăm lần không.”

“Má chỉ muốn con có bạn thôi mà. Má biết con nhớ London và bạn bè lắm, và má thiệt khổ tâm về chuyện đó. Trong tháng chín, khi nào con đi học ở đây là con có bạn mới liền hà. Nhưng trong lúc này mà con cứ ru rú một mình hoài thì không tốt chút nào. Nó không có tác động gì tốt cho con hết, phải không nào? Mình phải thành thật đi.”

“Con đâu có ru rú một mình. Con nói với má rồi. Con có thằng bạn Steve rồi.”

Má thở dài: “Ô, đừng vậy nữa mà. Nè, lâu nay má đâu có thấy con gặp nó.”

“Nó đi xa,” tôi chỉ nghĩ được như vậy để nói. “Nhưng mà sẽ về nay mai.”

“Tốt, khi nào nó về thì đưa nó tới nhà mình chơi.”

Tôi cảm nhận được má đang liếc mình, nhưng tôi không ngó lại má. “Dạ, chừng nó về con sẽ rủ,” tôi nói.

Sau cuộc trò chuyện đó, tôi phóng xe lên đầu con đường làng và nhắn tin cho Vern và Barry, nghĩ rằng nếu tôi rủ được tụi nó về chơi vài ngày thì sẽ dẹp chuyện Tally qua một bên, hay ít ra là cũng qua được lúc khủng hoảng này. Chúng không trả lời nên tôi gọi chúng. Vern đã tắt máy nhưng tôi gọi được cho Barry. “Ê, bồ tèo,” tôi nói khi hắn bắt máy.

“Ai vậy?”

“Mungo đây. Mày khỏe không, bồ tèo?”

Im lặng một lúc, như thể thằng Quái thú đã quên tôi hiện diện trên cõi đời này. Rồi hắn nói: “Ồ, đúng rồi. À. Hay lắm.”

“Có quậy gì vui không?”

“Chẳng có khỉ gì.”

Tôi đã mong thằng Quái thú lấp đầy cái hố mà tôi đang đứng chơi vơi trên miệng, nhưng hắn lại bận rộn đào cho cái hố bự ra thêm. “Mày có gặp Vern không?” tôi hỏi.

“Có, tao mới gặp nó tối qua.”

Barry nghĩ hắn đang trò chuyện với một người chết, vấn đề là ở chỗ đó. “Nè,” tôi nói, cố làm ra vẻ sinh động hào hứng lên: “Mày về đây chơi chứ? Ở đây cũng thú vị lắm.”

“Hả? Được thôi mà.”

“Vậy thì mình sẽ tính nghen?”

“Sao cũng được.”

Nhưng hai ngày trôi qua mà không có khỉ gì cả. Và tôi lại nghĩ đến Mungo.

Sau cùng thật là dễ dàng. Việc lần theo dấu vết Mungo bắt đầu với âm thanh những hạt mưa xuống từ ống khói của phòng ngủ tôi và rơi trên nền của cái lò sưởi nhỏ. Mùa hè này có vài trận mưa giông, kể cả vào ngày Mungo và tôi gặp nhau, nhưng trước đây chưa bao giờ mưa lọt vào trong phòng ngủ tôi. Tôi ngó ra cửa sổ, mưa thật lớn trông như một tấm màn trắng giăng ngang khu vườn. Cơn giông đổ xuống ngay trên ngôi nhà vườn, tiếng sấm và ánh chớp hòa lẫn với nhau thật sát sao. Ngọn đèn trần trong phòng ngủ tôi cứ lóe sáng lên rồi lại tắt, rồi lại sáng, rồi lại tắt, liên tục. Tôi nghe tiếng chân má dưới nhà dưới. Má vừa đi làm ở cửa hàng từ thiện về. Bà gọi vọng lên lầu: “Cưng ơi, con có ổn không?”

Tôi uể oải đáp: “Dạ,” như thể tôi không để ý gì đến cơn mưa giông dữ dội kia vậy.

“Bão phải không? Má phải dừng xe lại, mưa lớn quá. Cúp điện rồi.”

“Con biết.”

“Chút nữa sẽ có lại thôi. Con muốn uống một ly rượu bổ không?”

“Không. Con ổn mà.”

Tôi nghe tiếng chân bà trở lại nhà bếp. Tôi vỗ tay lên gờ cửa sổ. Tôi chưa từng thấy điều gì giống như thế này. Tôi biết mình phải thoát ra. Tôi cũng biết má sẽ cố ngăn tôi lại. Má sẽ nói tôi điên, tôi có thể chết vì sét đánh hay cây đổ. Nhưng tôi mặc kệ. Điều làm tôi quan tâm là cơn giông làm tôi run lên phấn khích, như con sói trước khi nó theo dấu con mồi.

Tôi lẻn ra bằng cửa dưới phòng ngủ rồi cúi người thấp hơn tầm cửa sổ và chạy đến ga-ra. Tôi đứng trú trong hiên ga-ra và chờ, nước trên chân mày nhỏ xuống khi tôi ngó ra, cơn mưa ngớt đi chút ít, đủ để thấy đường viền của khu vườn qua màn nước nhờ nhờ trắng. Tôi nhìn ánh chớp hình lưỡi dao khoằm cắm ngay vào trái tim bãi cỏ, và tim tôi run lên bần bật khi tiếng sấm dữ dội theo sau.

Con đường đã biến thành một con sông trắng xóa.

Tôi nhảy lên chiếc xe đạp và để xe trôi vào con sông.

Mungo đứng trên đường. Khi tôi đến quanh góc đường thì hắn nhảy lên bờ hè và tôi thắng xe ngay lại. Thắng xe kêu rít lên và nước từ bánh trước bắn lên tung tóe. Khi nhận ra là hắn, tôi la lên: “Ê nè!” Tôi la lên phấn khích không ngờ, nên nói thêm: “Thằng khỉ.”

“Ô, chào bồ,” hắn nói. Hai cánh tay hắn vụng về bỏ thõng bên sườn. Hắn chống nạnh và từ chỗ đứng cao trên bờ đường ngó xuống tôi.

Tôi kênh lại, không muốn bày ra cho hắn thấy nỗi nhẹ nhõm đang rộn ràng trong đầu mình. Cái cảm giác nhẹ nhõm đó làm tôi vừa ngạc nhiên vừa bực mình. Như thể có ai đó mở toang đầu tôi ra vào lúc giữa đêm rồi giấu nó đi mà không cho tôi biết. Và chỉ đến bây giờ tôi mới nhận ra nó đang ở đó.

“Mày là đồ khốn kiếp,” tôi la lên. Trên đồi xa, tiếng sấm vang lên dội rền và khắp xung quanh mưa rít lên trong cây cỏ.

Mungo nhún vai: “Mày nói sao cũng được.”

“Tên thật của mày là gì vậy?”

“Tao nói với mày rồi. Mungo.”

“Cứt chó. Hôm đó mày biến đâu mất vậy?”

“Mày thì biến đi đâu?”

“Ai kể cho mày biết về ông của má tao?”

“A,” hắn nói, nhấc đôi tay lên và run rẩy các ngón, trông giống như một thằng khùng trong phim. “Tao có thứ này cho mày coi nè.” Nó thọc tay vào túi quần sọt lôi ra một vật kim loại vuông vắn nho nhỏ, để trên lòng bàn tay giơ ra về phía tôi.

“Cái gì vậy?”

“Cầm đi.”

Đó là một cái bật lửa cổ, có nắp bật, móp méo mòn vẹt. Người ta bán chúng ở Camden Lock và chúng không xài được. Tôi trả nó lại: “Thì sao nào?” Mungo nói: “Nhìn cái chữ ký tắt kìa.” Bên hông nó có khắc chữ M.G.

“Tao không đọc được,” tôi nói.

“MG,” Mungo nói. “Mungo Groves. Nó là của ông cố đó.” Nó chữa lại: “Ông cố của mày.”

“Mày tào lao quá,” tôi nói. “Tao biết chỗ kiếm cả triệu cái như vậy.”

Tôi ném lại, hắn chộp lấy như một đứa con gái, tay giơ lên che mặt. Nó rơi xuống giữa đám cỏ ướt sũng trên vệ đường. Trong lúc hắn cúi xuống tìm, tôi cười rộ lên, tôi không nén được. “Thằng khỉ,” tôi nói, “mày là một thằng quái đản.” Một trong các câu mà ba thường nói. Tôi tưởng tượng việc kể với ba về Mungo và những trò bịp của hắn. Ông nghe chắc sẽ khoái, đòi tôi đưa hắn tới gặp ngay lập tức cho coi. “Thôi nào,” tôi nói, “làm sao mày tìm ra ông cố của tao vậy? Có phải là ai đó trong làng còn nhớ má tao không?”

Mungo đứng lên, bỏ cái bật lửa vô túi. “Nếu tao kể thì mày không tin nổi đâu,” hắn đáp.

“Đúng quá rồi.” Tôi nói, rồi ngần ngại, không chắc là có nên kể với hắn chuyện tôi đã kiểm chứng chuyện về ông cố không. Tôi quyết định không kể. Có vẻ như sẽ cho hắn thêm quyền năng, thứ mà hắn đã có hơi bị nhiều rồi. Và giờ thì hắn phải trả lại một số quyền năng đó cho tôi bằng cách kể với tôi chuyện gì đã xảy ra.

“Nè,” tôi nói, “tao khoái cái trò bịp về chỗ ở của mày. Vậy cái bà sống trong ngôi nhà có trái thơm đó là ai vậy? Có phải bả là bà khờ trong làng không? Làm cách nào mày chơi trò Gavin’s Deli vậy? Cú đó thiệt là bảnh.”

“Tao đâu có xí gạt mày. Nếu mày buộc tội vậy thì sai rồi.”

“Phải rồi, vậy thì tao là Elvis Đít Ly [16] . Nè, Mungo, mày hơi quá đáng rồi đó. Cho tao biết chuyện gì đang xảy ra hay... tao có trò hay ho hơn để chơi.”

“Có chuyện gì đâu.”

Tôi nhún vai: “Vậy thì gặp lại sau vậy.” Tôi nhấc mông lên yên xe rồi đạp xuống đồi.

* * *

Tất cả những khoảnh khắc đó, những thoáng giây đó, khi cuộc đời có thể rẽ qua hướng khác. Nếu tôi phóng xe nhanh hơn một chút thì đã không nghe tiếng Mungo gọi tôi trở lại; nếu tôi nghe mà làm lơ đi; nếu tôi không quyết định dừng xe và quay lại, cho hắn một cơ hội cuối cùng: thì hẳn tôi đã không rớt xuống cái hố sâu thẳm tối đen đó.

Hắn chạy xuống đồi, đôi chân to đùng lội qua các lạch nước mưa bắn lên tung tóe, và bắt kịp tôi. “Mày muốn gì?” tôi hỏi, “chuyện gì đang xảy ra? Nói cho tao biết.”

“Nếu tao kể với mày,” hắn đáp, “mày sẽ không tin tao đâu.”

“Thử xem.”

Mungo lắc đầu: “Tuy nhiên, tao sẽ cho mày biết. Với một điều kiện. Mày phải tin tưởng tao.”

“Mày hứa là sẽ cho tao biết chứ?”

“Mày hứa là tin tưởng tao chứ?”

Hắn trông nghiêm quá xá làm tôi không nín cười được. “Mày làm tao thích thú lắm,” tôi nói.

Khi chúng tôi đi bộ ngược lên con đường làng nằm ở phía xa con đường cái, tôi đẩy chiếc xe đạp bằng một tay, Mungo hỏi: “Mày nghĩ một cái tổ kiến bình thường to cỡ chừng nào?”

“Chả biết.”

“Thôi nào, đoán thử xem.” Tôi nhún vai: “Chà, cao cỡ chừng này.” Mungo dang các đầu ngón tay ra khoảng năm cen-ti-mét làm hiệu. “Trong Thung Lũng Hạnh Phúc chúng cao khoảng chừng này.” Và nó giơ tay phải ra song song với mặt đường và cao khoảng hai mét.

“Vậy à?” Thật khó mà làm mặt tỉnh bơ. Thằng khỉ này thật là khùng. Nhưng thú vị.

“Theo sát tao và làm theo tao nhé.” Hắn nói.

“Ái dà dà, thưa xếp.”

Đứng ở đỉnh đồi tôi nhìn xuống những ống khói cao và cánh rừng sâu hình trái xoan hứa hẹn nhiều chuyện kỳ thú. Chúng tôi leo lên xe và phóng đi qua làn bụi nước. Ở chỗ tận cùng con đường mở ra, chúng tôi chạy dọc theo một hàng rào sắt có những mũi nhọn ở trên cùng, rồi đến hai cánh cổng sắt trang trí hoa văn đính vào các bản lề han rỉ trên cột cổng bằng gạch cao chừng bốn mét. Gạch màu xanh và trơn rêu. Các cánh cổng hoen rỉ sang một màu nâu sậm trông thật buồn thảm.

Mungo gật đầu ra dấu về phía trụ cổng bên tay trái và đi vòng ra đằng sau. Giữa trụ cổng và hàng rào là một khoảng trống, vừa đủ rộng để nghiêng người lách vào. Mungo đi vào trước rồi tôi đẩy chiếc xe qua cho hắn. Đến lượt tôi. Tôi hít vào một hơi, đẩy vẹt những cành cây trên đầu, lặng lẽ đi vào Thung Lũng Hạnh Phúc.

Chúng tôi đứng trên lối mòn chạy vòng xuống đồi xuyên qua khu rừng dày. Cả hai bên khu rừng, mặt đất được trải thảm bằng cây cỏ màu sáng và xanh rì như loài rêu tôi từng thấy trong rừng cây hoa chuông khi đi với ba. Dây thường xuân bao bọc các thân cây, còn cành cây thì rêu xanh phủ dày. Vạn vật im lìm, tĩnh lặng và một vài tiếng động dường như được khuếch âm vang lên thật to. Tiếng mưa rơi đều trên bụi cây thấp nghe như tiếng rì rì của một ấm nước chạy điện. Thỉnh thoảng, có tiếng lách tách của một giọt mưa rơi từ trên cành lá xuống mặt đất. Và không khí thật dịu dàng, như thể được trộn lẫn với một loại tinh dầu thơm dịu mà má để trong phòng tắm.

Tôi giấu chiếc xe trong bụi rậm gần trụ cổng. Mungo nói nhỏ: “Tốt nhất là thì thầm nho nhỏ thôi nghen.”

“Sao vậy?”

“Đây là khu bảo tồn thiên nhiên. Vì vậy mình đến được mấy tổ kiến bự khổng lồ. Không ai được phép vào đây, ngoại trừ mỗi năm hai lần khi bọn sinh viên đại học đến trong những khóa đi thực địa. Có một tay Ireland mang súng săn đi tuần, và hắn sẽ bắn nếu bắt gặp mày.”

“Giỡn hoài? Mấy chả đâu thể mang súng đi lòng vòng bắn thiên hạ được. Ở tù à.”

“Mày hãy nói như vậy khi bị dính một viên kẹo đồng vô đầu.”

“Thôi được, thôi được,” tôi thì thào.

Chúng tôi đi xuống lối mòn. Cơn giông vẫn ầm ầm, mưa rơi không ngớt suốt cả ngày. Áo quần dính sát vào người tôi và cỏ ướt đẫm cao ngang gối làm chân tôi ngứa ngáy. Tôi thấy những tấm bảng sơn tay được đóng đinh cao trên cây đang phai mờ và hư vỡ, trông như thể chúng đã treo trên đó cả hàng chục năm rồi. Một tấm ghi: “Đất tư” và một tấm khác ghi “Cấm xâm nhậ-”

Mungo thấy tôi nhìn các tấm bảng liền nói: “Mày không nên đi vào rừng. Kelly đặt bẫy dưới đó.”

“Kelly là ai vậy?”

“Cha Ireland mang súng săn. Chả giấu mấy cái bẫy có răng sắc như dao lam, phập một cái là cẳng mày đứt lìa à.” Mungo lấy tay ra dấu thành mấy cái vuốt sắc rồi phập chúng lại với nhau. “Ê, nhìn nè. Tổ kiến.” Hắn chỉ một nấm đất cao khoảng một mét nằm kề bên lối mòn.

Mưa xói thành nhiều lỗ nhỏ tí trên nó. Mungo xoa hai tay vào nhau. “Mình sẽ nhóm lửa khi lên tới đó.”

Trước mặt chúng tôi, về bên trái của lối mòn, một cái cây sậm đen, trông thật ác hiểm, vươn lên cao như một tòa nhà. Mungo nói: “Ngôi nhà nằm phía sau cái cây tuyết tùng của xứ Li-băng đó.”

Chúng tôi đi thêm mười thước nữa, bên ngoài những cành có hình thù mái chèo của cái cây khổng lồ đó, hông của ngôi nhà hiện ra. Đó là một ngôi nhà cao bằng đá màu vàng bệch có nhiều cửa sổ. Một số cửa sổ phô ra những cái bóng lởm chởm của kính vỡ vẫn còn đó. Hầu hết chúng đều tối đen, cho biết đã mất hết kính rồi. Trên cao, có vẻ như nghiêng về phía chúng tôi qua bầu trời sũng mưa, những ống khói cao hiện ra từ ngọn đồi mà chúng tôi băng qua và ở giữa những ống khói là một ngọn tháp có gắn mặt đồng hồ.

Rồi tôi nghe tiếng động. Thứ tiếng nước đang đổ xuống ầm ào. Tôi nhướng mày với Mungo và nó làm điệu bộ run rẩy bằng các ngón tay. “Chúng chỉ sống động khi trời mưa thôi.” hắn nói.

“Cái gì kêu vậy?” tôi thì thào.

“Chó sói và chim cú, vân vân.”

“Tao ngả mũ chào thua mày luôn,” tôi nói.

“Mày nói gì vậy?”

“Ba tao sẽ nói vậy nếu ổng có mặt ở đây.”