← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 6

“Đi nào, rồi mày sẽ thấy.” Mungo nói xong đi xuôi con đường mòn quanh về phía phải và dẫn đến một sân hiên trước tòa nhà. Đây là chỗ nước mưa dội xuống của ngôi nhà, giống như một cái xô khổng lồ có xoi lỗ bên hông. Nước đổ thành những đường cung xoắn khổng lồ từ trên cao gần mái nhà. Ở chỗ nước rơi xuống đất, bắn lên những luồng nước bùn. Chúng tôi nhảy cà tưng, giả bộ tránh luồng nước, giả bộ như chúng tôi chưa bị ướt chèm nhẹp rồi.

Tôi nhìn dọc theo một hàng cửa sổ lớn, ở thấp sát sàn nhà, kéo dài hết chiều dài của mặt tiền. Bên trên những cửa sổ này là những cửa sổ nhỏ hơn, và trên chúng là những chỗ nước trào ra. Mungo nói đúng. Chúng là lũ thú vật. Chúng là những con thú gầm gừ, miệng há to tua tủa răng và mắt trố ra chòng chọc. Có con xù lông dọc theo sống lưng. Có con ngửa đầu ngước lên trời. Tất cả đều phun ra một dòng nước bất tận, sôi sục lèo xèo trong miệng khi vọt ra. Chúng là những máng nước được đẽo bằng đá.

“Máng xối,” Mungo nói. “Chúng phải thò ra khỏi tòa nhà nếu không thì nước sẽ chảy thẳng xuống những bức tường. Và rồi tường sẽ nứt mất vì chúng được làm bằng đá vôi.” Mungo có thói quen cùng lúc nói ra những điều vừa kỳ thú vừa chán ngắt. “Thấy không kìa?” hắn chỉ. “Sói sói heo rừng chó chó chim đại bàng. Còn quanh đây, nhìn này.” Hắn chạy đến đằng cuối xa của ngôi nhà. “Có thấy thằng người loắt choắt lom khom trên kia không?” Trên đỉnh nhọn mái nhà ở một bên hông tôi thấy được một dáng người. “Một con quỷ. Mày có biết tại sao không? Lát nữa tao sẽ cho mày biết. Khi mình nhóm lửa. Đi nào.”

Mungo đi tiếp vòng ra sau ngôi nhà, ở chỗ ấy các cửa sổ và cửa lớn nhỏ hơn. Một cánh cửa để mở hé. Mungo tì vai vào đẩy, mở ra một khoảng vừa đủ cho chúng tôi len vào. Tôi theo hắn vào bên trong Ngôi Nhà Thung Lũng Hạnh Phúc.

Chúng tôi ở trong một hành lang hơi hẹp nằm phía sau nhà. Sàn nhà lẹp nhẹp bùn, và tuy không sáng lắm tôi cũng thấy được nhiều dấu chân. Các bức tường tô sần sùi, cứng và ẩm ướt như vách trong một hang động. Lạnh cóng. Tôi rùng mình và cảm thấy hai cánh tay nổi da gà. Mungo dẫn đường đi xuôi hành lang về phía có ánh sáng trời. Chúng tôi đi dưới một cái vòm rồi vào trong một căn phòng lớn đến nỗi tôi nghĩ rằng có thể bỏ nguyên cả ngôi nhà của mình ở Gloucester Crescent vào trong nó.

Căn phòng cao suốt từ nền đất cho đến tận mái nhà. Trên cao kia, mặt dưới của những viên ngói lợp mái lộ ra. Ở những chỗ mất ngói, những vạt ánh sáng trời soi xuyên qua và trong ánh sáng mưa rơi xuống thành một đám mù sương trông như biến tan vào thinh không trước khi chạm mặt đất. Một phần ba của bức tường từ dưới lên, và một phần ba bên trên nữa, những lò sưởi nổi lên như từ giữa không trung. Trên các bức tường khác, những khung cửa mở vào trống không.

“Họ không bao giờ hoàn thiện được nền nhà,” Mungo nói. “Một ngày nọ họ biến mất và để mặc lại như thế.”

“Ai làm vậy?”

“Tao sẽ kể mà.”

Bất ngờ có tiếng đập cánh và tiếng chít chít trên mái nhà.

“Dơi đó. Cỡ chừng hơn kém cái móng ngựa, và loài dơi muỗi.”

“Làm sao mà mày biết được những điều này?” tôi hỏi.

Nhưng Mungo đang đi qua căn phòng khác, căn phòng này nửa tối nửa sáng vì người ta đóng những tấm ván che cửa sổ lại. Tôi bước từng bước nhỏ ngập ngừng trong lúc Mungo đi lại thoải mái như thể hắn có mang kính hồng ngoại nhìn ban đêm.

“Lấy củi ở góc nhà rồi lôi vào giữa,” hắn nói, “tao sẽ nhóm một bếp lửa.”

Tôi nghe một tiếng tách một tiếng xòe rồi cái bật lửa cũ bật sáng lên trong tay Mungo. Hắn châm một cây nến trên bệ lò sưởi, mang cây nến qua một góc phòng và giơ nó trên một đống củi, rồi quay lại giữa phòng và chầm chậm huơ cây nến một vòng. Những mảnh vụn đen còn lại trên sàn nhà cho biết trước đây người ta đã từng đốt lửa ở đây.

Mungo vò giấy báo cũ lại và sắp những thanh củi nhỏ thành một hình chóp nhọn ở trên đống giấy báo rồi chất đống củi mà tôi mang lại lên trên cùng. Hắn quỳ xuống, châm lửa đốt giấy báo rồi khum tay thổi lên. Lửa bùng cháy. Và giờ đây, có cái để so sánh, tôi nhận thấy mình đã lạnh cóng rồi. Tôi hơ lòng bàn tay, rồi xoay người hơ mông và phía sau hai chân cho ấm.

Mungo xoa hai tay vào nhau, nói: “Đỡ quá!” Rồi hắn nhặt cây nến, bước qua giơ nến lên về phía bức tường bên tay phải. Ở đó có ba hình vẽ vụng về được thực hiện bằng một que than trên mặt vữa gồ ghề. Cái bên trái là hình một đường xoắn ốc. Tôi không nhận ra được hai cái kế bên là những hình gì. “Có phải cái kia là bộ óc không?” tôi hỏi.

“Mê cung. Nhìn nè.” Mungo chỉ ngón tay lên lối dẫn vào cái mê cung và theo nó lòng vòng, xuyên qua những lối vào và lối ra, đến trung tâm. “Và cái kia là một cái biểu tượng uroboros [17] . Con rắn ăn cái đuôi của chính nó. Thấy chưa nào? Đó là cái đầu, và cái đuôi cuốn quanh thành một vòng tròn và chui vào cái miệng. Nó có ý nghĩa cuộc sống vĩnh viễn bất diệt.”

Tôi quay trở lại đống lửa và run cầm cập. “Tại sao thứ này lại ở đây? Ghê quá!”

“Có đủ thứ chuyện xảy ra ở Bickleigh. Săn thỏ, đá gà. Đổi vợ. Những cuộc truy hoan tình dục ngoài trời.” Nó chỉ vào cái biểu tượng uroboros. “Ma thuật đen. Nhưng nó không nằm ngoài sự bình thường, nó không chỉ xảy ra ở Bickleigh mà thôi, nó xảy ra ở khắp mọi nơi. Nó chỉ là con người, nhân loại nói chung. Nhân loại làm những chuyện khùng điên và kỳ dị. Họ luôn luôn làm và sẽ làm mãi.” Mungo nhún vai.

“Má tao sẽ thích lắm nếu mày nói vậy với bà. Đó là lý do nhà tao dọn về đây. Để thoát mọi thứ điên rồ ở London. Vậy mà ở đây thì lại có những thứ quái dị hơn nữa.” Tôi bật cười: “Nè, chỗ này là cái gì vậy?”

“Một cha khùng xây nó lên vào năm 1861.” Mungo bước quanh căn phòng chầm chậm vung vẩy ngọn nến soi từ bên nọ sang bên kia, vì thế ánh lửa lung linh tạo thêm những hình bóng in lên các bức tường. “Ổng là một tín đồ Công giáo. Ổng muốn giáo hoàng đến sống ở đây. Ổng gởi cho giáo hoàng một thư mời nhưng ngài không trả lời. Ngôi nhà được dựng lên đến như thế này thì hết cạn tiền. Một hôm trong năm 1869, thợ thuyền ném bỏ đồ nghề và bỏ đi.”

Mungo bước qua bệ lò sưởi và đẩy trượt một vật ra khỏi nó để đưa tôi xem. Nó trông giống như một cái boomerang [18] nhỏ. “Đồ lấy góc vuông của thợ, để đo thẳng góc.” Nó lắp cái đồ nghề trở lại. “Nó nằm ở đây gần một trăm bốn mươi năm rồi. Ngôi nhà đã như thế này từ lúc đó đến nay. Sinh viên đến vào mùa hè để nghiên cứu các loại thực vật trong Thung Lũng Hạnh Phúc. Ngoài ra thì không có ai được phép vào. Nhưng họ cứ vào. Người ta cho rằng ngôi nhà bị ma ám nhưng tao không tin. Tại sao nó có ma nếu chưa có ai từng sống ở đây?”

Tôi không trả lời. Mungo dựa vào bệ lò sưởi. Hoàn toàn yên lặng ngoại trừ thỉnh thoảng có tiếng nổ lèo xèo của bếp lửa và tiếng nước mưa chảy òng ọc xa xa trong những miệng máng xối. Tôi quyết định phá tan sự im lặng trước. “Vậy thì cuốn sách ấy nói về cái gì vậy?” tôi hỏi.

Câu hỏi có hiệu ứng như chứng thần kinh tác động lên Mungo mà trước đây tôi đã thấy. Hắn bắt đầu đi lên đi xuống, đầu lúc lắc, các ngón tay rung vẩy như cánh của loài côn trùng. Hắn quay lại tôi hai lần để nói, nhưng lại không nói gì. Sau cùng hắn nói: “Tại sao không dưng mày lại nhắc tới chuyện đó?”

Tôi muốn biết tại sao cuốn sách lại mang đến những hồi ức tệ hại cho ông tôi. Nhưng tôi vẫn không muốn để lộ cho hắn biết rằng tôi đã hỏi má chuyện này. “Tao không biết,” tôi nói, “đột nhiên tao nhớ ra vậy thôi.”

“Mày đọc nó chưa?” Hắn vẫn còn đang lên cơn xúc động.

“Không có chuyện đó đâu,” tôi nói. “Mày thật là một thằng tào lao, chắc chắn là không có một cuốn sách như vậy trên cõi đời này.”

Có vẻ như hắn thư giãn ra khi nghe tôi nói vậy. “Tao cũng chưa đọc nó,” hắn nói, “tao chỉ nghe người ta nói về nó thôi.”

“Chính là ở chỗ đó,” tôi nói. “Mày nghe người ta nói về nó làm sao? Mày nói là sẽ kể cho tao nghe mà.”

“Không phải vậy. Tao nói là tao sẽ bày cho mày thấy. Đó là chuyện kế tiếp. Nếu mày ấm rồi thì mình làm nha.”

Chúng tôi đi trở lại cánh cửa mà chúng tôi đã đi vào. Trên đường đi, khi Mungo ngoái lại kể về con quỷ trên mái nhà, thì tôi nghĩ: hắn đang nói dối về cuốn sách. Tất nhiên là hắn đã đọc rồi.

“Đó là dành cho lúc quỷ sứ bay đến thung lũng tìm nơi ghé chơi.” Mungo nói. “Khi nó thấy một ngôi nhà có con quỷ trên nóc thì nó nghĩ: “Ồ, chúng đã có một con quỷ ở đây rồi nên chúng không cần có thêm một con nữa”, rồi nó bay qua nhà kế bên.”

Hắn đang chơi nghịch với cái bật lửa trong lúc vừa đi vừa nói, bật cái nắp ra rồi đóng lại và bật lửa lên. Có vẻ hắn lại bối rối. Khi đến cánh cửa sau, hắn rẽ phải và cả hai phải trèo qua một đống xà-bần. Phía bên kia là một cái sân cỏ mọc rậm rì, tường nhà bao bọc ba mặt và mặt thứ tư để mở dẫn vào rừng.

Có một bầu không khí lạ lùng ở cái nơi lạnh lẽo và im vắng này, như thể trong nhiều năm qua không có dấu chân con người. Dường như mưa rơi xuống trong chuyển động chậm rãi. Mưa rơi lên thảm cỏ bao phủ những viên đá lát, rơi trên một sợi xích to và han rỉ buộc vào một cái vòng trên mặt đất, rơi trên chồng ngói xưa trông giống như những tai nấm dày mà tôi đã thấy mọc trên những thân cây chết ở Hampstead Heath. Và rơi trên vòng tròn bằng gạch cao ngang hông ở giữa sân.

Mungo đứng cạnh vòng gạch. Tôi biết ngay mà không cần nhìn xuống, nó là một cái giếng. “Nó sâu lắm.” hắn nói. “Nhìn cho biết nè.” Hắn ngó tôi chăm chăm không chớp mắt, như thể đang đánh giá tôi.

Tôi ngó qua miệng giếng. Xung quanh thành giếng trơn nhầy bị thứ gì trông như tóc màu xanh bao phủ.

Một hơi lạnh trong tủ đá tỏa ra. Tôi quay mặt đi.

“Đoán xem sâu chừng nào?” Mungo hỏi.

Tôi nhún vai. “Chừng bốn chục mét. Tao đã đo rồi.”

“Tất nhiên là mày đo rồi.”

Chúng tôi ngó nhau chằm chằm. Âm thanh náo động trong đầu tôi, một cảm giác cho biết có điều gì đó đang xảy ra mà tôi không thấy hay nhận biết được. Tôi chỉ biết là cả hai đứa đều nói dối và cùng biết điều đó.

Mungo lấy từ trong túi quần sau ra một tờ báo, xếp nó lại thành một cái dây hẹp, đốt cháy một đầu rồi giơ ra trên miệng giếng. Tôi sợ. Tôi không muốn đến gần cái giếng. Nhưng rồi tôi cũng tiến đến gần. Trong khi quỳ trên bờ giếng để nhìn tờ báo cháy rơi xuống, tôi cảm thấy như thể những xung lực đột nhập vào trong đầu và giờ đang chế ngự nó.

Mungo thả tờ báo ra, tờ báo từ từ bay xuống, chao liệng từ bên này sang bên kia, kéo rê làn khói và các cạnh cháy. Sau một vài mét thì những viên đá trơn nhầy nhường chỗ cho đá phấn bị vạt lởm chởm. Mắt tôi như một máy quay phim vi ti đang quay cảnh bên trong một động mạch bị nghẽn. Rồi tờ báo cháy trở thành một đốm sáng dưới xa, như vì sao độc nhất trên bầu trời. Tôi chờ đợi sau cùng sẽ có một ánh nước phản chiếu lên nhưng không thấy gì cả. Mảnh giấy báo tắt ngúm và bóng tối theo sau như thức giấc khỏi một giấc mộng.

“Khi tao tới đây lần đầu thì dưới đó có nước, nhưng đã mấy năm rồi,” Mungo nói. “Dưới đáy giếng khô queo rồi.” Hắn ngó tôi. “Ừa, nó hơi ẩm một tí, nhưng ngồi lên thì cũng được. Còn hơi thoải mái nữa kìa. Tuy lạnh.”

Mungo đi qua chồng ngói đến cánh cửa ở bức tường. Hắn mở hé cửa ra, quơ tay vào và moi ra một nùi dây thừng và những thanh gỗ mỏng: một cái thang dây cũ. Chúng tôi vừa khiêng vừa lôi nó đến cái giếng và để xuống đất. Những thanh gỗ trơn tuột, sợi thừng để lại những vệt xanh trên đôi bàn tay tôi. Mungo cột một đầu vào sợi xích han rỉ, rồi chúng tôi lại nhấc nó lên và thả xuống giếng. Cái cách chiếc thang dây trượt xuống, không gây ra tiếng động nào, gợi cho tôi nhớ đến một con rắn nuốt con mồi của nó.