← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 9

Lập tức tôi cảm thấy tội lỗi ghê gớm vì đã đối xử quá tệ với má, khi bà cố hết sức để sửa soạn cho Vern và Quái thú đến chơi. Dự định cho chúng đáp xe lửa từ Waterloo xuống chơi trong bốn ngày và hai mẹ con tôi sẽ đón chúng ở ga Bickleigh. Tôi gởi tin nhắn cho chúng về thông tin này, nói rằng tôi sẽ cho chúng xem một chuyện rất kỳ thú, có ý nói đến Thung Lũng Hạnh Phúc và cái giếng. Bởi vì đó là kế hoạch của tôi. Tôi sẽ cho chúng xuống cái giếng. Tôi sẽ không lấy cái thang dây đi, chơi vậy thì quá mạng. Nhưng tôi muốn chúng cũng có cái kinh nghiệm mà tôi đã trải qua, trước cơn ác mộng hay giấc mơ đó, về việc cái nắp đậy của tâm trí mở ra và những trái bóng ý tưởng nhiều màu chen chúc nhau bay ra.

Tôi đã nghĩ rất nhiều về những chuyện đã xảy ra và tôi gần như không quá kinh hãi như trước. Cái giếng có một số điều bất bình thường, chỉ vậy thôi, như là cái kho thóc ma quái. Nói thế này có vẻ như thách thức lại sự giải thích thuận lý, nhưng Mungo lại rất khôn ngoan trong việc điều khiển và uốn nắn cảm nhận của người khác theo ý mình, biến mọi việc trở nên kỳ dị hơn là thực chất của chúng. Với cách đó, một tay ma giáo và láu cá có thể áp đặt quyền năng của hắn lên người khác. Nhưng tôi đã không cần tới Mungo. Tôi có thể gài những trò này với Vern và Quái thú, chơi tay trên chúng, làm cho chúng phải nể tôi lại. Tất nhiên, hoàn toàn để cười vui thôi.

Vern gởi tin nhắn lại nói rằng hắn sẽ mang đến một ít thuốc phê. Hắn viết THUỐC PHÊÊÊÊ. Tôi nhắn lại bọn mình không cần chơi thuốc phê đâu thì cũng vui tới bến rồi. Có nhiều khi Vern làm tôi rét. Tôi không biết nó nói thuốc phê là ý muốn nói cái gì. Có thể chỉ là mấy viên thuốc nhức đầu của má nó, hay có thể là một thứ gì đó tệ hơn nhiều mà nó chôm được từ phòng mạch của má nó. Tôi cố không nghĩ đến chuyện đó nữa.

Đồng thời tôi cố tỏ ra ngoan ngoãn với má. Tôi còn xung phong giúp bà trong việc trang hoàng lại ngôi nhà. Tôi dẹp chuyện gọi Brian Boland là Cá Chua. Thật ra tôi chấm dứt việc gọi ông ta như thế. Và tôi lập ra một cái danh sách mua đồ để nấu món cà-ri gà với rau tươi từ một cuốn sách gia chánh có tên là Thái-ngon-hết-ý! cho má hết hồn chơi. Cái danh sách bao gồm cà tím, ớt đỏ, nước mắm và xả. Nói chung, những đồ nấu này rất phức tạp và lạ lẫm đối với vùng Manuresville và chắc chắn là không mong gì Lão Khắm có bán. Nhưng tôi nghĩ rằng cứ đến đó xem sao, làm cho lão bận rộn chút chơi.

Tôi cũng tò mò về vụ Gavin’s Deli. Làm sao mà thằng Mungo chơi được cú bịp đó chứ? Tôi chỉ nghĩ được một cách giải thích duy nhất: nó chẳng phải là trò bịp của Mungo khỉ khô gì cả. Câu trả lời nằm trên tivi. Một công ty đang làm bộ phim nhiều tập về một tay đồng tính tên là Gavin mới dọn về Manuresville để mở tiệm ăn. Và họ mượn cái ổ chuột của Lão Khắm để dựng phim. Trước khi quay mỗi hồi thì những tay thiết kế phông cảnh thay đổi cái phòng hơi ngạt của Lão Khắm thành tiệm Gavin’s Deli. Đó là lý do mọi thứ trong tiệm lại sạch bóng khi tôi và Mungo tới đó: tỏi và xúc-xích và những trái ô-liu xanh lóng lánh trong bình là làm bằng nhựa. Các máy quay được giấu kỹ đang quay và Gavin - anh chàng tài tử đóng vai Gavin - đang diễn. Khi quay xong họ gom tất cả các thứ hàng hóa bằng nhựa và cành lá cũng bằng nhựa trên các cửa sổ lại, và đổi lại như cũ. Đó là giả thiết của tôi và tôi sẽ hỏi ông Tiêu Hành Tỏi Ớt xem có phải vậy không. Sau đó tôi sẽ hỏi về củ xả và mấy món linh tinh...

“Cà tím Thái Lan hả?” Lão Khắm hỏi. “Tao có cà tím Hà Lan nè.” Lão nhặt lên một vật trông giống như xác một con chuột chũi. Vỏ màu tím đã chuyển sang màu nâu và nhăn nheo thấy ghê.

“Không, chúng hoàn toàn khác với mấy thứ cà thường,” Tôi đáp. “Chúng nhỏ thôi và có màu trắng xanh, và dùng để cho vào nấu các món như cà-ri, gà với rau tươi của Thái.”

Lão Khắm lại mặc cái áo len đan cũ mèm. Cái tiệm nồng các mùi thường khi: thuốc lá, rau ủng, và phô-mai thúi. Lão nheo cặp mắt mọng nước ngó tôi. Các ngón của một bàn tay vỗ nhè nhẹ tới lui như thể lão bị chứng co giật kinh phong. “Hổm mày đã tới đây rồi, phải không?” lão hỏi.

“Đúng vậy.”

“Lần đó kiếm mua cái gì hả?”

“Chorizo.”

“Lại nữa. Cút đi.”

Tôi không tin nổi. “Cái gì?”

“Tao hổng chơi cái trò của mày. Cút ra.”

Bàn tay co giật của lão thò xuống dưới lôi ra một cái gậy bự giấu sẵn dưới quầy. Nó trơn láng, bằng gỗ, có tay cầm bằng da đen và quai: cái dùi cui của cảnh sát.

Chơi trò miền Viễn Tây à nghen. Vụ này ngầu hơn vùng Camden à. Tôi bước giật lùi ra cửa rồi với tay ra sau cầm cái nắm cửa để có thể chuồn thiệt lẹ. “Được rồi, ra thì ra, có sao đâu,” tôi nói. “Tôi hỏi ông một câu nghen? Khi nào thì họ quay tiếp hồi kế của phim Gavin’s Deli vậy? Vì có lẽ họ sẽ trả cho ông đủ tiền để dẹp tiệm mà về hưu luôn, rồi một cha Gavin thứ thiệt sang lấy cái tiệm và bán cà tím Thái, chorizo và ô-liu và các món khác thứ thiệt, rồi tôi không phải hì hà hì hục đạp xe đến tận Bickleigh vì các thứ tào lao và mùi thối của cái tiệm ông như một cái cống.”

Lão Khắm bị lừa. Lão thở nặng nhọc, lồng ngực kêu lách cách, nhưng khi lão đi quanh cái quầy thì lão biến thành một cái bóng mờ. Tôi không kịp thoát ra cửa. Lão giơ cái dùi cui lên và nện mạnh xuống cánh tay tôi. Tôi nghĩ, nếu mình không kịp giật tay ra thì lão đã nện gãy nó rồi. Mắt lão trợn trừng vào mặt tôi, cái dùi cui đập vào bức tường, rồi tôi cũng mở được cửa và thoát ra. Tôi la lên: “Ô! Cha khùng nè, ông hổng có quyền làm vậy đâu nhé. Tôi sẽ báo cảnh sát.”

Cha khùng hôi hám này có thể bị nhốt vô tù vì chuyện vừa làm, đó là ý nghĩ của tôi khi đang đạp xe dọc trên lề đường cái. Người lớn không được vô cớ hành xử bạo lực với trẻ con, hay thậm chí vì cái cớ vớ vẩn là bị chọc quê. Nhưng tôi biết má không muốn dây dưa với những chuyện như vậy. Bà sẽ nghĩ rằng tôi đã làm trò khỉ gì đó để chọc giận lão. Và bà không muốn trở nên không thân thiện với dân địa phương. Bà sẽ nói ở vùng này thì khác, người ta hành xử theo luật lệ khác và tôi nên làm quen đi thì hay hơn. Được thôi, trong tình huống đó thì tôi sẽ sử dụng luật của chính mình. Tôi dừng xe lại nhắn tin cho Vern, bảo nó khi về đây thì mang theo cái bình xịt sơn. Cái tiệm của Lão Khắm sắp được sơn phết trang hoàng lại rồi nghen.

Bạn sẽ nghĩ rằng ở Bickleigh trong số những tiệm bán máy trợ thính, thang nâng tự động và khung chống dành cho người tàn tật được đông đảo khách hàng biết ơn chắc là có một cửa tiệm bán cà tím Thái và những thứ tương tự. Nhưng không. Tôi đến tiệm bán thức ăn Bickleigh, xem xét cái siêu thị mini, thậm chí tôi hỏi cả cửa hàng dược phẩm vì thấy một bà béo ngồi trong cửa sổ và có vẻ như bà khoái ngốn sạch thức ăn mỗi khi có cơ hội. Nhưng bà trong cửa hàng dược phẩm trả lời ở Bickleigh này không có nhu cầu về các loại thực phẩm lạ của ngoại quốc. Bà nói ông hàng thịt làm xúc-xích tỏi tây, bông cải, thịt lợn rất ngon, tại sao tôi không mua những thứ đó đi? Tôi suýt bảo bà ta nhét những cây xúc-xích của bà vào nơi mà mặt trời không chiếu đến, chắc hẳn đó là trò tiêu khiển của bà vì ở Bickleigh thì còn có chuyện gì khác để làm nữa chứ?

Tôi chào thua và đạp xe lòng vòng đến cửa hàng từ thiện. Không dưng tôi thấy chán. Tôi định để chiếc xe đạp ở phía sau chiếc Skoda và xin quá giang má về nhà khi bà xong việc trong nửa giờ nữa. Bà sẽ không phiền đâu vì chúng tôi là những người bạn mới và thân thiết nhất. Đúng là vậy đấy.

Trước đây tôi chưa từng đến cửa hàng từ thiện này. Nếu tôi mà biết ai ở đó thì tôi chẳng bao giờ bước vào làm gì.

Má đang đứng sau quầy và bà đang tỏ ra dịu dàng đến phát ớn với một bà nhà quê nọ. Thậm chí chính bà cũng bắt đầu có bề ngoài và ăn nói như bọn họ, chuyện không có gì đáng ngạc nhiên lắm rồi bà sẽ trở thành một kẻ nhà quê như họ. Bà mặc một cái áo khoác ca-rô xơ lông kinh dị làm cho bà trông giống như một kẻ làm nghề sưởi ấm bồn cầu cho mấy bà hoàng. Và giọng của bà đã đổi – không hoàn toàn sang trọng, nhưng nó đã mất đi khá nhiều chất London.

Sau khi đỏ mặt vì thẹn, có vẻ như bà vẫy tay với tôi qua vai bà nhà quê, tôi mỉm cười và nhún vai, có ý nói là: má cứ từ từ không vội, tôi sẽ đi lòng vòng xem này xem nọ cho vui, và bà khẽ gật đầu rồi tiếp tục câu chuyện đang nói dở. Nhiều khi thật là tài tình, cái cách hai má con tôi trao đổi được với nhau những điều phức tạp mà chỉ cần gật đầu, đỏ mặt, vẫy tay và nhún vai. Tôi quyết định khi về đến Lòng Chảo tôi sẽ đốt nến và mở giàn máy nghe nhạc ở dưới nhà nghe những bản nhạc tao nhã - như album của Elvis Costello, cái album mà má làm bìa và cũng là nguyên do mà bà gặp ba.

Bà nhà quê đi ra, nói: “Chúng tôi sẽ gặp chị ở buổi nói chuyện tối nay chứ? Hứa hẹn thú vị lắm đó.”

Má nói: “Chắc chắn tôi sẽ cố hết sức.” Khi người đàn bà đi khỏi, má nói: “Chào cưng, thật là bất ngờ thú vị đó nghen.”

“Con chỉ... Con quá giang xe má về nhà nhé? Con hơi mệt.”

“Tất nhiên là được.”

Một bà từ phía sau đi ra, ôm một mớ quần áo đầy trên đôi tay ú na ú nần, má nói: “Ồ Mungo nè, đây là Rosemary Strickland.”

Tôi nhìn bà và không thể tin nổi. Đó là bà Bựa Kẽ Chân.

“Rosemary nè, đây là Mungo, con trai tôi.”

Bà Bựa Kẽ Chân thả mớ áo quần trên một đống các bao rác đen và lấy tay lau trán. Làn da có màu vàng phô-mai của bà trở nên phơn phớt hồng và bà đang tươm mồ hôi. Bà ngó kỹ tôi. Cái miệng ăn bom của bà mở há hốc ra và đôi mắt đảo lia lịa cho tới khi nhìn rõ được tôi. “Mungo hả?” bà hỏi.

“Má nè,” tôi nói với má, “đừng bận tâm về chuyện quá giang nữa. Con không muốn lòng vòng đâu nên...”

Má nói: “Không sao đâu mà, chừng mười phút nữa là má sẽ xong việc ở đây. Vậy là ổn mà, phải không nào?”

“Không, không đâu. Gặp má sau nghen.”

Trên đường về nhà thì di động rung lên trong túi, tôi dừng xe xem tin nhắn của Vern. “KHONG CO HANG DOM DAU MAY HAY TIN DI”. Tôi gởi tin nhắn lại: “quên hàng đi, đừng quên bình sơn xịt”.

Khi về tới nhà, tôi lấy vài cái tách ra và đặt ấm nước lên cho sôi trong lúc ngồi chờ má về. Tôi băn khoăn không biết bà Bựa Kẽ Chân có nhận ra mình không. Cái cách bà nhìn tôi, cái cách bà hỏi “Mungo hả?” thì lời đáp cho câu hỏi đó phải là có. Nếu đúng vậy thì bà đã nói gì với má chưa? Lại nữa, bà có một thằng nhóc không, và thằng nhóc đó có tình cờ mang tên là Mungo không?

Khi nghe tiếng chiếc Skoda nghiến bánh trên lối vào, tôi bật nút cái ấm cho nước sôi lên. Tôi muốn bận rộn việc gì đó khi má vào bếp.

Má ném mấy cái túi lên bàn bếp, tôi hỏi: “Má uống tách trà nghen?”

“Cám ơn.” Bà bỏ giày ra, để chân trần, rồi ngồi xuống cái bàn bếp. “Con có chuyện gì vậy hả?”

Tôi đặt tách trà của má trên bàn trước mặt bà. “Con thấy thích tập thể dục.”

“Ba mươi giây trước đó thì con “mệt hết hơi”.”

“Không, nó là... mà nè, bà Strickland là ai vậy hả má?”

“Cô chứ không phải bà. Cô ấy là em gái của ông cảnh sát địa phương. Má mới cho cô ấy xuống xe. Người thường xuyên cho cô ấy đi nhờ không đến được.” Má nhìn tôi từ bên trên tách trà của bà. Bà đưa tách trà lên miệng bằng cả hai tay, trề môi ra như con dã nhân để uống.

“Cô ấy có con cái gì không?”

“Không. Hôm nay con vui chơi thế nào?”

Với cái cách mà bà đổi đề tài câu chuyện, tôi biết ngay rằng ngoài việc bà Bựa Kẽ Chân không phải là mẹ của thằng quái nguy hiểm đó ra, bà còn không thóc mách gì về tôi nữa. Hay quá, thưởng cho cụ Bựa Kẽ Chân một gói kẹo gum đi. Tôi đáp: “Ô, không có gì đáng kể, chỉ bị một cha khùng hành hung bằng dùi cui thôi.”

Má đặt cái tách xuống, vẻ mặt đầy lo lắng: “Con nói chuyện gì vậy?” Tôi kể cho bà nghe chuyện xảy ra với Lão Khắm, và bà thở phào nhẹ nhõm. “Cho con bài học để nhớ mà giữ mồm giữ miệng, đừng có ba hoa chích chòe,” bà nói ngay khi tôi dứt lời.

Tôi không tin nổi thái độ của bà. “Người lớn không được quyền hành hung trẻ con như thế chứ,” tôi nói.

“Không có chuyện đó nữa đâu.”

“Ổng không đánh trúng con mà, phải không nào?”

“May mà con kịp rút tay lại đó chứ. Ổng cố đánh mà.”

Có tiếng bánh xe nghiến trên sỏi ở lối vào nhà. Tôi bước lại cửa sổ ngó ra. Chiếc xe Cá Chua, đúng là Cá Chua. “Ông Brian,” tôi cố gắng nói. Rồi một hình ảnh của cơn ác mộng vụt hiện về. Tôi thấy ông đến bên ngoài Ngôi Nhà Trái Thơm. Tôi thấy nắm đấm của ông giáng vào mặt má. Tôi biết mình bất công – thậm chí không thể bắt lỗi Cá Chua về những điều tôi tình cờ mơ thấy trong đầu mình, chỉ mình mình biết – và tôi quyết tâm hành xử đàng hoàng, vì ý má muốn vậy.

Má ra mở cửa trước cho ổng. Tôi cố lắng tai nghe xem họ có hôn nhau không nhưng tôi không chắc lắm. Khi vào bếp, ông Cá Chua nói: “Chào chàng trai trẻ. Mọi chuyện tốt đẹp chứ?”

Trong đầu tôi, mấy cái sân bóng đá đầy nhóc khán giả đang phát bệnh nhưng tôi chỉ đáp: “Dạ, cám ơn chú.”

Ông Cá Chua đặt cái túi lên bàn bếp và má lấy trong đó ra nhiều lon sơn nhỏ. Má sắp chúng thành hàng và nói: “Chú Brian mang sơn mẫu đến nè.”

“Hay quá,” tôi đáp, “bảnh thiệt ha.”

“Hãy làm căn nhà sáng sủa tươi vui lên nhé,” ông Cá Chua nói, ổng xoa hai tay vào nhau và nhướng mày với tôi.

“Má định nói với con,” má nói với tôi: “tối nay má ra ngoài. Má sẽ làm mì Ý cho con trước khi đi. Con thấy sao?”

“Không sao đâu. Má đi đâu vậy?”

Ông Cá Chua nói: “Có buổi thảo luận ở hội Liên hiệp Phụ nữ về đề tài “Những cái giếng của vùng Old Wessex”.”

“Cái gì?” Tôi hỏi, hơi lớn tiếng. Tôi hết nhìn ông Cá Chua đến nhìn má, và họ nhìn lại tôi, tôi thấy mình nóng ran cả mặt.

“Chuyện gì vậy?” má hỏi.

“Không có gì cả.” tôi đáp, nghĩ thầm trong một thoáng, họ đã biết chuyện gì đó. Tôi đổi đề tài. “Vợ...” tôi suýt nói “Bà già Flapdoodle”. “Vợ chú cũng đến đó chứ?”

“A, aaà... Felicity tổ chức nó từ ban đầu nhưng giờ bà ấy không thấy khỏe nên...”

Má vội nói: “Đây là một đề tài thú vị lắm Mungo à. Rất nhiều ngôi nhà cũ kỹ quanh đây có giếng sâu.”

“Thật vậy sao?” tôi nói.

Ông Cá Chua nói: “Chúng ta có một cái ở ngôi nhà Hedge End Hall, mặc dù giờ thì nó bị ngăn lại rồi. Bà Plunkett-Snipe đã hoàn tất một cuộc nghiên cứu về chúng.”

Tôi hỏi: “Bà ta có bà con gì với bà Plunkett-Strawberry không?”

Ông Cá Chua hỏi lại: “Ai?”

Má lắc đầu với tôi. Cái lắc đầu nhẹ hều chỉ thoáng rung một cái, nhưng tôi thấy được. “Mungo thiệt là vớ vẩn.” bà hỏi tôi: “Con muốn ăn mì Ý với nước sốt gì? Có loại sốt thịt bò hay sốt kem jambon” Bà lấy ra hai lọ trong túi giấy đựng đồ.

“Sốt thịt bò đi.”

Má lấy mấy cái chảo nhỏ ra và lăng xăng làm đủ việc, cất thực phẩm mới mua vào tủ lạnh và chạn đựng thực phẩm, vừa nấu mì sốt thịt bò cho tôi luôn.

Ông Cá Chua ngồi nghịch với mấy cái lon sơn. Ông nói với mấy cái lon sơn: “Giếng đúng là thứ rất hấp dẫn. Người ta có thể xác định tuổi của ngôi nhà qua phương thức kiến tạo cái giếng của nó. Và một số giếng được cho rằng có những lối đi và đường ngầm bí mật dẫn ra ngoài, có nghĩa là chúng rất hữu dụng trong việc cất giấu đồ đạc.” Đột nhiên ông cười phá lên như thể gặp chuyện gì thật mắc cười.

“Như những thứ gì?” tôi hỏi.

“Đồ buôn lậu.”

“Là thứ gì chứ?”

Má nói: “Những thứ hàng bất hợp pháp.”

Ông Cá Chua nói: “Để nhân viên quan thuế không tìm được.”

Tôi nói: “A, như là ma túy.”

Má đóng sập cánh cửa tủ lạnh lại và nói: “Mungo.” Cái lối nói ngắn và gằn giọng đó có nghĩa là: đủ rồi nghen. Đó là cách mà ba nói. “Con có thích lấy cái bào bào một ít phô-mai không?”

Tôi biết là mình hơi quá lố. Có thể nếu tôi mà làm vậy thường xuyên quá thì bà sẽ gửi tôi đi sống với một người bà con xa đại bác bắn không tới nào đó mà tôi chưa từng nghe nói tới, một ông cậu ở Na Uy chẳng hạn, người theo một giáo phái khắc kỷ và tham gia những trò vớ vẩn trẻ con. Thậm chí Manuresville cũng còn đáng ưa hơn thế. Dám lắm à. Đúng là tôi đang gây nguy hiểm cho cuộc đến chơi của Vern và Barry. Nhưng khi cha nội Cá Chua xớ rớ quanh đây là tôi không kềm lòng được. Chả đúng là một tay quá xá đáng ghét. Tôi lấy cái bào ra khỏi móc và má đưa tôi một tảng phô-mai Cheddar và một cái tô.

“Chú chưa từng ăn loại phô-mai chính hiệu Parmesan à?”, tôi hỏi, nhưng má chỉ trợn mắt và lắc đầu, có ý nói rằng bà sẽ nổi điên lên nếu tôi không chịu câm miệng lại.

Mọi người im re. Ông Cá Chua đang búng búng tay vào mấy lon sơn, tôi thì bào phô-mai, còn má thì cúi xuống xem lửa ga như thế nào dưới đáy chảo nước sốt.

Chẳng ai nói lời nào. Nên tôi buột miệng.

“Má nè, vậy chứ cuốn sách của ông cố viết về cái gì vậy?”

“Tại sao giờ này con lại mang chuyện đó ra nói, hả Mungo?” Bà hất đầu về phía tôi, mắt má trợn dữ hơn nữa.

“Con chỉ muốn biết thôi.”

“Có phải đây là chuyện mà tôi nên biết không hả?” Ông Cá Chua hỏi, miệng nở nụ cười muốn bịnh. “Ngẫu nhiên nhà có ông tổ nào đã qua đời hả?”

“Chúa lòng lành ơi, không phải là chuyện như vậy đâu.” Má nói, “Chẳng có gì quan trọng cả. Chỉ là một cuốn sách nhỏ về khoa học có từ lâu rồi. Thật ra thì nó giống một cuốn sách mỏng sơ sài í mà. Mungo cứ hỏi về nó nèo nẹo vì...”

Tôi hỏi dồn: “Nếu nó chẳng có gì, tại sao nó làm cho ông ngoại có những hồi ức tệ hại đến nỗi phải liệng nó đi?”

“Mungo, thôi ngay đi! Con muốn ra vẻ khôn ngoan quá hả, má không muốn vậy đâu!”

“Ô-kê, rồi nè! Đừng nổi cơn tam bành lên chứ, bồ tèo ơi!”

Không khí nặng nề thêm, ông Cá Chua chảy mồ hôi ròng ròng như thể ông bước trên chảo của má. Rồi ông nói: “Màu xanh lá cây Sherwood là một sắc màu thú vị.” Ông nói từ “sắc màu” theo một lối được cường điệu, như thể ông nghĩ nó là một từ rất vui nhộn vậy.

Má vội vã tham gia ngay, chắc để ngừa trường hợp tôi lại trở nên chua cay, nhưng tôi không định ra vẻ như thế. Bà nói: “Đúng vậy.” Rồi bà nói với tôi: “Hôm nay con làm chuyện gì khác nữa, hả Mungo?”

“Con kể với má rồi. Con bị Lão Khắm đánh.”

Má nói với ông Cá Chua: “Nó muốn nói cái tiệm trên đường cái. Nó hỗn và phải xưng tội.” Bà nói với tôi: “Làm ơn đừng gọi ông ta như vậy, cưng à. Má muốn nói là sau khi...”

Ông Cá Chua hỏi: “Già Maurice à?”

Tôi hỏi: “Xưng tội hả?”

Má nói: “Có lẽ người ta nên làm việc đó thường xuyên hơn.”

Tôi nói: “Má à! Mấy hôm nay má theo cánh hữu ghê quá, không thể tin nổi.”

Má nhìn tôi chằm chằm như xuyên thấu tim gan. “Con thích uống một ly rượu bổ không hả Mungo? Chắc là con khát lắm rồi.”

“Không đâu, cám ơn. Rượu bổ thảo dược không phải là đồ uống của con.” Tôi liếc nhìn ông Cá Chua xem ông có cười câu nói đùa của tôi không nhưng thậm chí ông không hiểu nổi nó.