← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 10

Vern và Barry tiến vào, kéo lê theo cái mùi London. Không phải. Tôi đang đứng trên sân ga khi tàu tiến vào. Má ngồi trong xe chờ ở bãi đậu. Tôi nhìn những cửa sổ chạy vụt ngang, càng lúc càng chậm dần. Rồi con tàu gầm gừ và ngừng hẳn, những cánh cửa xoang xoảng mở ra, và con tàu biến thành một con cá có mười cái mang. Một vài người xuống tàu: một bà có chiếc xe đẩy hành lý, một cha gần chết chống hai cây gậy. Nhưng không thấy Vern và Barry đâu cả. Tôi chạy dọc theo sân ga, ngó vào các toa. Chỉ còn lại vài người trên tàu, đang đọc báo hay há hốc miệng ngủ. Đến phút cuối cùng không có dân Camden nào xuống tàu.

Kiểu tụi nó là vậy đó. Chắc tụi nó lên nhầm tàu rồi và đang trên đường đến Brighton. Hay cái kiểu thằng Vern hồi nào tới giờ, sáng nay thức dậy nghĩ rằng: đi thăm một thằng tiêu tùng rồi trong cái làng bị thời gian quên lãng để làm khỉ gì nhỉ? Nên nó nhắn tin cho Barry và chúng hẹn gặp bù khú với nhau ở Lock thay vì về đây. Chúng không thèm quan tâm gì đến tôi. Tôi là một thằng chết rồi.

Tôi nhìn tay nhân viên tàu lửa thổi còi trên sân ga và nhấc cái vợt bóng bàn màu trắng của hắn lên. Cái đuôi tàu màu vàng càng lúc càng nhỏ khi nó biến dần vào sâu trong vùng đất quê mùa, và tôi lắc mạnh đầu để hất đi một giọt nước mắt đọng trên má. Đột nhiên tôi nổi giận. Tôi không thấy thương hại cho mình. Đừng bao giờ là nạn nhân, ba thường nói thế, và giờ đây, theo lời ông, tôi sẽ không bắt đầu trở thành nạn nhân. Một cách nào đó tôi... Rồi má đang đi xuống sân ga, vung vẩy cái điện thoại di động, và tôi dừng dòng suy nghĩ lại. “Mẹ của Vernon mới gọi.” bà nói lớn: “Tụi nó đi trễ. Tụi nó đang trên chuyến tàu kế, vậy là mình phải chờ thêm một giờ nữa. Thiệt là bực mình. Má sẽ lòng vòng xem các tiệm hàng và thư viện. Con sẽ làm gì nào?”

Tôi cố không tỏ vẻ nhẹ nhõm. “Ô, tốt quá, con sẽ ngồi chơi trong xe chờ vậy.”

Má quay lại xe mười phút trước giờ chuyến tàu sau đến.

Bà ngồi coi những bảng màu sơn và bỏ lơ tôi.

“Thế thì cuốn sách đó có gì quan trọng vậy?” tôi hỏi, nhìn một bên mặt bà để xem phản ứng.

Má thở dài rồi nhắm mắt lại. “Ước gì má chưa bao giờ nhắc gì về nó.” Má nói. “Chẳng có gì quan trọng cả, đúng vậy, phải không Mungo? Chấm dứt chuyện này nhé.”

“Thế thì tại sao nó lại gợi cho ông những hồi ức tồi tệ chứ?”

“Bởi vì...” Má ngần ngừ. “Bởi vì cha của ông ấy, ông nội của má – Mungo Groves – là một người xuất chúng, khá nổi tiếng và được mọi người kính trọng, và rồi mọi chuyện trở nên tệ đi với ông. Cuối đời ông không được hạnh phúc.”

“Vì sao vậy má?”

“Ông kết thúc đời mình trong một nơi thảm lắm.”

“Ở nhà thương điên à?”

Má thở dài. “Con trai má thông minh lắm. Ông viết một cuốn sách về đoạn cuối của đời mình và nó làm ông ngoại của con nhớ về thời gian bất hạnh đó, chỉ vậy thôi. Thế nên ông ngoại vứt bỏ nó đi. Sao, thỏa mãn chưa?”

“Chưa. Cuốn sách nói về gì vậy?”

“Các lý thuyết khoa học, như má nhớ được thì về vũ trụ và những thứ như vậy. Giờ thì cảm phiền nhé, má cần phải coi mấy cái bảng màu này.”

Những cánh cổng băng ngang bắt đầu lóe sáng và rúc lên. Tôi mở cửa xe. Má ngước lên nhìn nói: “Hãy vui vẻ cùng nhau nhé, phải không nào? Con có dự định gì rồi?”

“Không có gì nhiều lắm.” tôi đáp, và bước xuống xe.

Trở lại sân ga, thoạt đầu tôi nghĩ rằng Vern và Barry cũng trễ mất chuyến tàu này. Bọn người vớ vẩn thông thường xuống tàu, tay nhân viên dưới sân ga thổi còi, và tôi quay trở lại lối ra, cảm thấy mắt mình lại bắt đầu cay lên. Rồi có chuyện gì bất thường. Tay nhân viên sân ga la lên: “Đóng cửa lại! Lên lại tàu đi!”

Tôi ngoái lại. Phía dưới xa của sân ga, một cánh cửa mở ra. Hai thằng nhóc nhảy ra khỏi toa tàu, mang ba-lô và một chai nước to. Một thằng la to: “Chờ đã. Đây có phải...? Đang ở đâu đây?” Thằng nhóc đang la là Vern, thằng kia là Barry. Tôi biết chúng tôi phải làm gì.

Tôi chạy dọc theo sân ga. Tôi vừa ghi một bàn. Vạch sơn dọc theo sân ga là đường biên ở sân vận động Emirates. Vern và Barry là đồng đội của tôi. Chúng vừa đưa banh cho tôi làm bàn, một đường banh một chạm giữa chúng tôi với nhau, một đường chuyền sà, tôi phóng người lao đến đánh đầu vào góc hẹp. Tôi chạy thẳng một mạch đến tận mặt chúng, vươn trán đến trước và dang tay ra để chúng tôi kết hợp lại với nhau và biểu diễn một cú ăn mừng bàn thắng.

Vern bước lui cười khúc khích, vỗ hai tay như thể nó đang xua đám ong độc. “Ê nè bồ tèo, dội rồi phải không?”

Barry đang nhìn sân ga. Hắn nói: “Vern đang phê phê đó.”

Tôi thõng tay hai bên hông. Tôi thấy mình đần quá, giống lần tôi chơi trò biểu diễn Tượng Thần Tự Do trước mặc thằng Mungo vậy. “Ồ, không.” tôi nói.

Barry nói: “Nó chui vào phòng vệ sinh chơi mấy thứ mà nó chôm được của má nó.”

Vern cười khúc khích rồi giơ tay làm động tác chậm một cú đấm lưng chừng trên đầu. “Ồ, đã vậy đó.”

Tôi nhặt chai nước và ba-lô của Vern lên. “Thứ hàng gì vậy?”

“Lát nữa tao sẽ cho mày một ít.” Vern vỗ vỗ vào túi quần trước rồi nháy mắt với tôi.

“Nè, cẩn thận đừng để má tao biết nhé? Mình phải về nhà trước. Rồi đi chơi sau.”

“Mình sẽ chơi trò gì đây? Ăn trộm bò hả?” Vern lại cười khúc khích.

Barry nói: “Vern!” và qua cái cách nó nói thì tôi hiểu, đó là chuyện mà chúng đã bàn với nhau trên tàu. Chúng đã ngó ra ngoài cửa sổ thấy những cánh đồng và bò, và chúng nói: Có cái khỉ gì để chơi ở dưới kia nhỉ? Ngoài cái vụ ăn trộm bò ra. Rồi chúng cùng cười rũ ra với nhau, và Barry nói: Đừng nói vậy với Mungo, nó sẽ giận đó. Và việc đầu tiên mà Vern làm là nói điều đó với tôi. Cái kiểu của Vern là vậy.

Vern rất ngoan khi ngồi trong xe. Thật đáng ngạc nhiên khi nó làm được như vậy. Mới phút trước cà tưng như khỉ, phút sau thành một Thiếu gia Khả kính. Khi chúng lên xe, má nói: “Chào các chàng trai. Gặp lại hai cháu thiệt là vui. Mungo nó mong hai cháu lắm.”

Barry chỉ chào lại: “Chào cô.” rồi ngó xuống đôi giày của nó, còn Vern thì nói: “Bọn cháu cũng rất vui được gặp lại cô, cô McFall à.”

Má nói: “Cám ơn cháu, Vernon.”

Thằng Vern này, nó đúng là một tay điệu đàng, miệng lưỡi cứ ngọt lịm như đường phèn.

Tôi ngồi ở ghế sau với Vern, Barry ngồi trước kế bên má. Trời nắng và nhiều gió. Chúng tôi hạ kính xe xuống và tiếng máy của chiếc Skoda dội lại từ những hàng rào trong khi chúng tôi chạy lên con đường dẫn về ngôi nhà vườn. Gió thổi tóc chúng tôi bay bay, đặc biệt là tóc của Vern. Má cố lớn tiếng hỏi Vern về chiến trường nào ba nó đang làm phóng sự trong lúc này, nhưng không ai có thể nghe rõ nên bà thôi hỏi, rồi chúng tôi không ai nói năng gì nữa. Tôi cứ ngó cái ba-lô của Vern, tự hỏi trong đó có bình xịt sơn không, không biết nó có nhớ mang theo một cái không đấy.

Gặp lại Barry và nó quả thật là kỳ quái. Chúng nó vừa giống như trước vừa khác lạ. Tóc của Vern dài hơn một tí, còn Barry trông mập hơn. Nhưng chuyện không phải chỉ có thế. Chúng như hai bản sao của nhau. Rất dễ nhận ra, chúng nói chuyện giống y nhau, ăn mặc áo quần giống y nhau. Nhưng chúng không hoàn toàn là mình.

Chúng không nhìn thẳng vào mắt tôi, đó là điều tiết lộ tính chất bản sao. Và chúng nhìn (tôi muốn nói nhìn mà không nhìn - chỉ liếc) tôi như thể tôi cũng là một bản sao, một bản sao của tôi được làm bằng rơm rạ và cứt bò. Tôi có cảm giác rằng chuyện này có dính líu với Mungo. Việc tôi gặp Mungo đã làm thay đổi tôi, cho tôi một bí mật mà chúng không biết, và Vern và Barry cảm nhận được sự thay đổi đó. Nếu gặp Mungo thì chúng sẽ xem hắn như thế nào nhỉ? Chúng sẽ cười nhạo hắn, và thật vậy, hắn trông giống như cái kiểu thằng mán nhà quê đến Camden mới một ngày và mua một gói cỏ khô với giá ba mươi pao mà nghĩ rằng đó là cần sa. Nhưng ở hắn có thứ khác - những trò bịp điên rồ - mà rất chiến theo kiểu riêng. Nửa nhà quê, nửa kỳ quặc. Có thể tôi đang trở nên giống hắn. Vern và Barry vẫn là dân Camden ngon lành nhưng tôi đã biến đổi mình thành một tay ăn trộm bò đến quá nửa.

Giờ đây tôi chỉ băn khoăn về việc mới có vài tuần thôi mà cuộc đời mình đã thay đổi đến thế nào bởi vì Vern và Barry là mấy tay bạn đời của tôi. Chỉ còn bốn tuần nữa là đến cuối mùa nghỉ hè. Tôi đã thấy ngôi trường mới của mình, nó giống như một trại lính - đến cả má mà còn cho là như vậy - và tôi không thấy mình hạp với nó chút nào. Có lẽ tôi phải để tóc rẽ ngôi giữa và mặc hàng dởm đã lỗi mốt cả hai chục năm thì tôi mới không là tay nổi bật. Và khi đó tôi sẽ rất ngượng nếu gặp lại Vern và Barry, hay nếu gặp lại thì chúng sẽ gọi tôi là đồ quê mùa. Và chuyện này sẽ là thật. Từ từ, như trong một cuốn phim khoa học giả tưởng mà ban đầu bạn không để ý đến mọi chuyện, tôi hẳn sẽ biến thành một kẻ nào khác. Chẳng mấy chốc tôi sẽ trở nên giống như Mungo, tôi sẽ bắt đầu có những ý nghĩ cực đoan về dân đồng tính.

Rồi trong lòng tôi nổi giận. Tôi sẽ cho chúng thấy rằng ở vùng này còn nhiều chuyện để làm chứ không chỉ ăn trộm bò và làm nhục những kẻ đồng tính. Với một ngôi nhà và một cái giếng, tôi sẽ làm cho chúng bạt vía.

Chúng tôi bỏ đồ đạc lại nhà rồi tôi nói rằng cả bọn sẽ đi chơi. Má hỏi đi đâu, tôi đáp chưa biết, chỉ la cà đâu đó đã. “Tốt, đừng làm trò gì ngu xuẩn nhé.” bà nói. “Mấy đứa biết đó, giờ thì mấy đứa không còn ở Camden đâu nhé.” Vern cười khặc khặc.

Chúng tôi phải đi bộ vì tôi không có chiếc xe đạp dư nào. Vern hỏi: “Không có xe buýt à?”

Tôi lắc đầu và bước ra khỏi lối vào nhà. “Mình đến cái chỗ thú vị này nghen. Tụi bây không tin nổi đâu. Đi thì hơi phê một chút, nhưng đáng công lắm.” Tôi quay lại chờ chúng đi lên cho kịp mình, rồi tôi nói với Vern: “Ê, mày có mang theo cái bình xịt sơn mà tao nhắn tin không?”

“Bạn hiền, cái gì vậy, nói lại đi?”

“Cái bình xịt sơn.”

“Mày đâu có nhắn tin gì về bình xịt sơn nào đâu?”

“Có tiếng gì vậy?” Barry hỏi.

Tôi lắng nghe. Tôi không nghe thấy gì cả ngoài tiếng chim chóc, nhưng tôi mừng vì có chuyện để làm tôi không phải nghĩ rằng Vern là một thằng nói dối tồi tệ và vô dụng. “Tiếng gì đâu?” tôi hỏi.

Barry dừng lại, nghiêng đầu qua phía cái hàng rào: “Đó kìa.”

“Cái gì đâu? Cái tiếng riiiiì riiiiì đó hả? Cào cào đó cha nội ơi.”

Vern thúc cùi chỏ Barry và nói: “Tao trân trọng thông báo cho mày biết là mày đã rớt bài thi để trở thành thân hữu danh dự của các ngài thờ phượng cứt bò rồi à nghen.”

Chúng tôi cứ bước tiếp. “Mọi chuyện thế nào? Có gì vui không?” tôi hỏi Vern.

“Chẳng có gì đáng kể. À nè, mày biết nhỏ Sue Blass chứ?”

“Tất nhiên là biết.”

“À, tao quên mất chuyện mày với nó.” Nó ba xạo.

Nó từng ghen với tôi như quỷ.

“Nhỏ đó là con cà chớn,” Barry nói.

“Sao vậy?” tôi hỏi.

“Vì nó đang chơi trò tí tởn với anh thằng Barry,” Vern đáp, nhìn tôi cười khặc khặc.

“Nhưng chả đã hai mươi hai rồi.” tôi nói.

“Đúng vậy. Thì đã sao?”

“Chả đã hai mươi ba.” Barry nói.

Chúng tôi phải bước lên lề đường khi có một chiếc xe chạy ngang. Hai phút sau lại có thêm một chiếc khác làm chúng tôi lại phải dừng chân, vụ này làm Vern bực mình điên lên. Đó là chiếc Discovery. Nó là xe của cha nội Cá Chua. “Ồ, không.” tôi buột miệng và cúi đầu xuống.

“Cha nội nào đó?” Vern hỏi.

“Cha này khoái má tao. Chả là một tay cà chớn lắm.”

“Tao mới giơ ngón tay ra dấu chửi chả,” Vern nói.

“Chiến lắm.”

Chúng tôi tán thêm một hồi, rồi Vern nói: “Chán quá đi.” Barry co cẳng đá một hòn đá văng tưng.

Lẽ ra tôi nện cho Vern một cú. Bốp. Cú này là cho cái tội quên cái bình xịt sơn và không chịu để ý cóc khô gì cả. Thêm một cú đúp cho phù mỏ. Cú đó là vì nó chỉ kể với tôi về nhỏ Sue Blass để chọc quê tôi, và dù sao đi nữa cũng nên có một đạo luật chống lại việc một thằng hai mươi ba tuổi đi rù các em cỡ Sue Blass trên trần gian này. Nhưng tôi bình tĩnh lại. “Ráng chút nữa đi,” tôi nói, “sẽ đáng công lắm mà, tao hứa.”

Barry lại co cẳng sút một hòn đá khác.

Đi lộn chỗ rồi, tôi biết ngay điều đó khi chúng tôi lên được đỉnh đồi. Đúng là có một thung lũng, mở rộng phía trước mặt chúng tôi giống như một chiếc đĩa màu xanh và vàng, lung linh mờ ảo trong màn hơi nóng. Vern chống nạnh nói: “Chúa tể của những chiếc nhẫn hay cái giống gì đây?” Đó là cái cách hắn nói “chiến quá” nhưng tôi hầu như không để ý vì tôi đã thấy những thứ dưới chân đồi: cái kho thóc bằng kim loại và hàng rào bảo vệ của cái công ty phân bón toàn cầu của gia đình Cá Chua.

Barry hỏi: “Tiếng động gì vậy?”

Vern nói: “Thôi rồi, lại nữa rồi. Chắc đó là một con khủng long săn mồi tốc độ đang nhào tới đây để bắt thằng Barry bởi vì tụi đó thích cái đầu tóc nhớp nhớp. Mày có mấy con đó ở vùng này không mậy, Mung?”

“Có chứ. Mấy con bự tổ bố vàng khè.”

Vern cười hô hố nhưng tôi đang bận rộn dò phải và trái, cố tìm cho ra đường tới Ngôi Nhà Thung Lũng Hạnh Phúc.

“Không, nghe nè,” Barry nói. “Có tiếng gì quang quác.”

Vern nghe ngóng: “Tiếng gà chứ gì.” Hắn gập khuỷu tay vào hai bên hông vỗ vỗ và giả làm tiếng gà kêu. “Ê, tụi mày có biết không, ở nông thôn có nhiều gà hơn là người ta. Gà cai quản chuồng gà.” Rồi hắn chợt nghĩ ra là mình có thể nói tếu: “Hiểu chưa? Tao biết là mày hổng hiểu đâu, thằng quỷ Barry à. Cái chỗ tụi mình sắp tới là ở đâu vậy? Tao đang chán mớ đời rồi, nói thiệt đó.”

“Hay là vầy, tụi bây nè,” tôi nói. “Hay là đổi kế hoạch đi, nghen? Giờ mình trở về nhà vườn nghe nhạc, chịu không?”

Vern nhướng mày, nói tiếng Tây-Ban-Nha: “Que?” (Cái gì vậy?)

Tôi chỉ xuống đồi nói: “Tuốt dưới đó kìa. Tao đã không nhớ là nó xa tới vậy. Chắc phải đi bằng xe hơi mới tới đó được, mà cũng không có giống gì hay ho cho lắm đâu.”

“Vậy thì thôi,” Vern có vẻ bực mình.

Liếc nhanh qua Vern để chắc hắn đồng tình, Barry phọt ra: “Thật là tệ như cứt bò.”

“Vầy mới đúng nè,” Vern tiếp lời ngay. “Đây là một cái quận cứt bò. Đưa tao ra lẹ ra khỏi cái quận cứt bò này ngay trước khi tao biến thành một tay nhà quê cứt bò bi giờ.”

Trên đường trở về ngôi nhà Lòng Chảo tôi đi phía trước Vern và Barry để chúng không thể nhìn thấy mặt mình, khuôn mặt đang căng cứng và đỏ ửng, tôi không thể kềm được môi dưới run lên từng chặp. Khi nào thì cái ngày quê độ kinh khủng này mới chấm dứt đây, và hai thằng bạn mà tôi đã mất mãi mãi sẽ trở lên tàu để trở về nơi lành mạnh và văn minh được biết tới là London, tôi phải hành động quyết liệt lên. Tôi sẽ chuồn đi trước khi đời sống quê mùa và sự cô độc hủy hoại vĩnh viễn bộ óc của mình.

Tôi bước lên bờ đường để cho một chiếc xe chạy vượt qua. Đằng sau tôi, Vern và Barry đã chơi cú gì đó với chiếc xe mà tôi không thấy được. Chiếc xe bấm còi và Vern la lên “Đồ bí rợ ngủ gật.”

Giờ thì Vern và Barry có đầy đủ chứng cớ để xác quyết rằng tôi đã chết, còn tụi nó thì sống nhăn răng. Có thể thấy chúng đang sống qua cái cách tụi nó lặng lẽ thì thào với nhau, và tiếng cười rộ của chúng. Và tụi nó đúng, tôi đã chết ngắc trong lòng rồi. Nhưng vẫn chưa quá trễ. Tôi lại nghĩ tới lời ba nói đừng bao giờ trở thành nạn nhân, và tôi biết mình phải làm gì.

Vern nói: “Ê tụi bây, đoán thử coi cái gì nè?” Hắn lấy từ trong túi quần jeans ra một cái chai và lắc lắc: shuh shuh shuh. “Tới giờ uống thuốc rồi.”

Cả bọn đang ngồi trong phòng ngủ của tôi nghe nhạc. Má vẫn còn ở cửa hàng từ thiện và Vern mới lặp lại là hắn đang chán phèo như chó ngáp ruồi. Hắn đưa cao cái chai lên.

“Cái gì vậy?” tôi hỏi.

“Ê, cần phải biết nguyên tắc cơ bản chớ, phải không? Mày chỉ cần biết là, nó ác liệt lắm à nghe.”

“Mày chơi mấy bi lận?” tôi thắc mắc.

“Chơi ba bi là đủ thăng hết biết rồi.”

Tôi nghĩ: ít ra vụ này sẽ nhanh lẹ hơn Kế hoạch A.

Vern mở nắp chai. Tôi đưa tay phải ra, Vern lắc ba viên thuốc vào lòng bàn tay tôi. “Tao đi lấy ít nước.” tôi nói.