← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 20

Đó là hai ngày trước khi họ tìm ra tôi. Dấu hiệu sự sống của tôi chỉ còn leo lét, đó là điều người lính cứu hỏa đã lôi tôi xuyên qua cái đường hầm và vào trong hầm rượu, nói với má. Lúc đó nước đã rút hết và ông ta tìm thấy tôi ngồi sụp ở đáy giếng. Người ta nghĩ rằng một thứ sinh lực nào đó trong tôi đã giữ cho cơ thể cầm cự được đủ dài để tôi sống còn. Chuyện khác thì tôi không kể với họ. Tôi không kể với họ điều gì.

Má kể với tôi Tally là đứa có ý kiến nên tìm trong hầm rượu. Tally nói là tự nhiên nó nghĩ tới điều đó, nhưng không ai tin như thế. Má nghĩ là tôi và Tally đã lén lút bồ bịch với nhau, đã thám hiểm cái hầm rượu đó từ trước và tìm thấy cái đường hầm bí mật dẫn tới đáy giếng. Đó là nơi bọn buôn lậu dùng để giấu rượu lậu trong thế kỷ mười tám và không khó khăn gì để tìm ra chỗ ấy. Bạn chỉ cần đọc cuốn sách mỏng của PlunkettStrawberry về đề tài này, có bán ở mọi cửa hàng buôn bán hòm cổ có tiếng.

Dù sao đi nữa, má cũng kể cho tôi nghe những gì đã xảy ra. Mọi người cùng nhau ngồi quanh đống lửa ở ngôi nhà Hedge End Hall. Mọi người ở đây là má, Brian (tôi phải ráng nhớ để gọi ông ấy như thế), Felicity và Talullah. Họ đã lo phát bịnh, nhấp nhỏm trên ghế, má nói vậy. Đã hai ngày trôi qua kể từ khi tôi mất tích.

Hệ thống điện thoại di động bị hỏng nhưng cảnh sát đã tìm được cách liên lạc hỏi người ở London và loại trừ khả năng tôi đã trốn lên đó lần nữa. Tuy nhiên, theo lời của má, làm sao tôi lên đó được, khi mà hệ thống giao thông cũng đã tê liệt luôn? Mấy đội cảnh sát với chó nghiệp vụ đã mất cả một ngày để lùng sục các cánh đồng và cánh rừng xung quanh Bickleigh. Có thể tôi đã bị mắc kẹt dưới một cái cây bị đổ nào đó (hay chết đuối trong ao nước lắm, điều mà họ đã không muốn nói ra). Trong lúc mọi việc này xảy ra, Brian và Felicity (thấy chưa, tôi đã quen vụ tên gọi đó rồi) đã đưa má lên Ngôi Nhà Hedge End Hall, nơi đó vẫn còn vững vàng chống lại cơn bão – duy chỉ có một chỗ hư hại, ngoài việc một vài mảnh ngói trên mái nhà bị mất, là vài máng xối khắc hình đầu thú – và có máy phát điện riêng.

Tới ngày thứ nhì thì như thể mọi khả năng đều vô vọng, và má nói bà đã không còn hy vọng thấy tôi còn sống bằng xương bằng thịt lần nữa. Brian đã đốt một đống lửa và mọi người uống trà và im lặng, rồi Tally chạy ào vào phòng với vẻ rất kích động. Má nói rằng cô nhỏ đã rất dịu dàng và lo lắng suốt, và giờ thì cô nói: “Tại sao mình không tìm trong hầm rượu?”

Cá Chua - ồ, xin lỗi, Brian chứ - nói: “Con nói cái gì vậy?”

Tally nói: “Ba biết mà, cái hầm rượu”. Cô nhỏ dậm chân trên sàn nhà. “Có một cái đường hầm bí mật dưới đây nè, phải không nào? Con vừa có một linh tính rất mạnh rằng ảnh ở dưới đó.”

Felicity nói: “Má đâu biết mình có một đường hầm bí mật”.

Brian nói: “Làm ơn đi mà, Talullah, nếu con muốn nói điều gì thì hãy chắc rằng nó có lý chứ.”

“Con nói thiệt mà,” Tally nói.

“Nghĩ kỹ lại coi cưng,” Brian nói. “Tại sao Mungo lại vô trong hầm rượu nhà mình và tìm một đường hầm bí mật? Nó chẳng hề biết có cái hầm rượu ở đó. Ngay cả má con cũng đâu biết nó ở đó nữa kìa.”

Má nói rằng Tally mỉm cười. “Có khi anh ấy không vô trong hầm rượu,” cô nói, “có thể anh ta tới đó từ cái giếng.” Tally rời căn phòng. Không ai nói gì. Đồng hồ tích tắc trên lò sưởi. Năm phút sau Tally trở lại, la ầm lên. “Con nghe tiếng ai đó đang rên! Gọi đội cứu hỏa mau!”

Họ để tôi ở lại Ngôi Nhà Hedge End Hall vì các bệnh viện đã quá tải những nạn nhân của cơn bão. Sau khi bác sĩ đã khám cho tôi, một y tá tới với bình nước biển và đặt một đường truyền vào mạch máu ở lưng bàn tay tôi trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Tôi từ từ tỉnh táo lại sau vài giờ. Không phải lần đầu tiên, tôi nghĩ rằng mình đã chết. Tôi không nhận ra căn phòng, và má đang đứng quay lưng ra ngoài cửa sổ, nên đầu của bà ngược sáng và trông như đầu thiên thần. Má cúi xuống ôm tôi và nói: “Ô, cưng ơi, con tỉnh rồi.”

Và tôi biết mình còn sống, tôi trở lại là Mungo McFall. Nhưng sự nhẹ nhõm đó không kéo dài. Khi tôi nhớ lại những chi tiết trong vài phút trước khi tôi bất tỉnh, thì thắc mắc bây giờ là: Mungo Boland là ai và ở đâu?

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” tôi hỏi.

Và đó là lúc má giải thích về Tally và cuộc giải cứu. “Hồi đó con cứ giả bộ là con ghét nói tới con bé ấy vậy mà hai đứa lại là bạn bí mật của nhau!” Má nói: “Con thật là một chàng trai lạ lùng và tuyệt vời quá ha.”

Chuyện này chẳng có lý chút nào. Tôi lắc đầu. “Vậy lúc người ta tìm thấy con, thì không có...” tôi ngập ngừng.

“Có gì kia?” Má hỏi.

“... có ai khác ở đó với con không?”

“Ai nào? Mungo, con đang nói với má là ở đó còn có ai khác đang mất tích nữa à? Bởi vì nếu như vậy thì mình phải báo cho cảnh sát biết ngay.”

Má đã đi được nửa đường đến cửa. “Không, không có đâu,” tôi vội vàng nói. Rồi tôi nói tiếp, rất nhỏ, biết lỗi nữa – “Ý của con chỉ là, má biết mà, cái người mà con có nói tới hồi trước.”

“Con muốn nhắc tới Mungo? Ôi cưng của má ơi.”

Mày là đồ khùng! Mày là đồ khùng! Chắc má đang nghĩ vậy.

Má tới bên giường ôm tôi một lúc lâu. “Hứa với má đi,” bà nói thì thầm trong tóc tôi, “dù cho con có tuyệt vọng hay buồn hay cô đơn đến mức nào đi nữa, thì con đừng bao giờ diễn cái trò giống như vậy nữa nghen.”

Da của tôi đã thành trắng bệch và nhăn nheo, tôi trông như một thằng đồng bóng. Nhưng không có tổn thương lâu dài. Hai ngày sau đó tôi không gặp một ai ngoại trừ má. Bà đem đồ ăn, thức uống, và giúp tôi đi vệ sinh khi cần, rồi ngồi ở cuối giường trò chuyện, nhưng rất thận trọng không nói về những chuyện thật nghiêm trọng mà cả hai má con đều biết là sau cùng thì cũng phải nói với nhau cho ra lẽ, khi nào tôi khỏe lại. Những điều cơ bản như ba chết và tôi bị tâm thần. Tóm lại, tôi thích cái ý nghĩ mình là một thằng khùng, cái ý nghĩ tất cả mọi chuyện có liên quan với Mungo là sản phẩm của sự tưởng tượng quá mức và điên loạn của tôi. Thậm chí tôi cố tin vậy. Nhưng những bằng chứng sờ sờ kia chống lại tôi.

Tôi biết ngay rằng tôi ở đâu, tất nhiên là tôi biết. Sau khi má đã giải thích rằng chúng tôi đang ở tại Ngôi Nhà Hedge End Hall, là sở hữu của Brian và Felicity, tôi đã hiểu ra điều đó khá là nhanh. Tôi đang ở trong Ngôi Nhà Thung Lũng Hạnh Phúc. Cái lò sưởi trong phòng ngủ của tôi, cái lò sưởi có bình hoa khô trong đó và trông không giống như nó đã được sử dụng trong nhiều năm qua, là một trong những lò sưởi đã trông như thể đang treo lơ lửng giữa không khí. Cửa phòng là một trong những khung cửa đã mở vào hư không. Nhưng Ngôi Nhà Thung Lũng Hạnh Phúc không hiện hữu trong thực tại của tôi, giờ thì tôi biết điều đó. Tôi biết là Mungo đã nói sự thật, rằng hắn đã cứu mạng tôi, và rằng bây giờ thì chắc là hắn đang quay mòng mòng ở đâu đó, như một chiếc vớ trong tiệm Bosch.

Có lần, từ phía xa của ngôi nhà, tôi nghe tiếng búng đàn và âm vang của một cây đàn ghi-ta điện, theo sau đó là đoạn nhạc lặp đi lặp lại nghe như tiếng một đoàn xe lửa. Tally đó, má nghĩ như thế. “Nhưng con nghĩ là con bé chơi cello chứ,” tôi nói.

“Con nghĩ nhiều chuyện quá.” Má nói, rồi nháy mắt. Bà đang đứng bên cửa sổ nhìn ra những rặng cây xanh sậm và màn mưa phùn phủ nhòa lên chúng. “Tới đây ôm má cái coi.”

Chúng tôi đứng cạnh nhau bên cửa sổ. Phía ngoài đầu của má, cái máng xối có hình đầu sói hiện ra thật rõ. Đôi tai của nó trở lại và nó đang phun ra một xoáy nước vô tận. “Con nghĩ thế nào nếu mình dọn nhà trở lại London?” Má nói mà không nhìn tôi.

“A!” Tôi nhảy cà tưng vì vui, một mình làm một màn ăn mừng làm bàn của đội bóng Arsenal.

“Mừng là ý kiến đó được chấp nhận”.

“Má không xí gạt con đó chứ?”

“Má không xí gạt con đâu, cưng. Má nghĩ mình bỏ thời gian về Bickleigh để rút kinh nghiệm và tiếp tục sống. Má trở thành một người tin vào việc bỏ lại sau lưng quá khứ và tiếp tục đời sống mới.”

Tôi cảm thấy khoái lắm, nhưng hơi có mặc cảm tội lỗi. Đột nhiên cuộc đời tôi có vẻ sáng sủa quá trong khi Mungo, người đã cứu vớt nó, chắc là đang phải lăn lóc ở đâu đó. Làm sao tôi có thể biết được điều gì đã xảy ra với hắn?

Má ôm chặt lấy tôi. “Làm sao mà con lại nghĩ là ba của con không phải là ba ruột, hả? Con giống ổng quá trời mà. Ổng hay nói cái gì đây ta? “Tôi ghét miền quê. Tôi ghét cây cối.” Và cái gì nữa? “Cho tôi...””

“Những dãy cao ốc. Và tiệm bánh mì thịt nướng, tiệm xăm mình và tiệm bán ủng và... và...”

“Con nghĩ gì về ba?”

“Rất chiến,” tôi đáp và má cau mày, không tin tôi.

“Thiệt đó. Con biết ba luôn luôn ở quanh đây theo cách riêng của ba và chỉ điều đó là quan trọng. Nè, sau cùng rồi con có thể làm món cà-ri rau tươi của Thái cho má ăn nghen. Má không thể tìm đồ nấu ở quanh đây đâu. Và con sẽ trả lại má món tiền mà con đã chôm. Con xin lỗi nghen.”

“Thôi bỏ đi Tám,” má nói và hai má con cùng cười.

“Ngộ hé, con biết đó,” má nói, “nhưng hầu như má không bao giờ rời Bickleigh. Khi má mười tám tuổi, thì má có được một chỗ trong khóa học căn bản ở London, rồi má lên đó một ngày để xem trường đại học như thế nào và má ghét nó ghê gớm. Má chưa bao giờ ở London trước đó và nó làm má sợ thấy mồ. Bọn mặt mũi láu cá ở khắp mọi góc phố. Má về, nói với bà ngoại, đừng hòng là má lên đó sống. Mình không sao biết được chuyện gì có thể xảy ra ở một nơi như vậy. Hừm!”

“Thiệt vậy à?” Tôi nói, giả vờ ngạc nhiên.

“Dù sao đi nữa, má vui khi nói rằng ông ngoại đã thuyết phục má cứ thử một chuyến xem sao, và tất nhiên má đã thích. Rồi má gặp ba và tất cả mọi chuyện còn lại đã xảy ra đó.” Bà sụt sịt khóc.

“Sẽ không giống như ngày xưa đâu, vậy nghen, khi mình trở lại London. Để khởi sự lại từ đầu, má không biết có nơi nào vừa túi tiền mình không? Mình có thể phải sống xa ra ngoài, con hiểu điều đó phải không, cưng?”

“Con hiểu điều đó. Mình có thể làm lại từ đầu. Con sẽ tìm bạn mới, con không quan tâm điều đó đâu.”

“Mình có thể tới Whipnade một ngày nào đó nếu con muốn. Tới thăm mấy con sói. Má sẽ đưa con tới đó.”

Tôi lắc đầu nói: “Không.”

“Không à?” Má có vẻ ngạc nhiên.

“Con tin vào chuyện bỏ qua quá khứ và tiếp tục đời sống mới,” tôi đáp và má làm bộ cú lên đầu tôi vì tội hỗn hào.

“À, dù sao đi nữa,” má nói, “con có thể vẫn gặp Vernon và Barry. Má đã quên hết mấy vụ đó rồi. Thật ra nó cũng mắc cười ha. Tụi con trai chúng mày, má không hiểu nổi.” Bà bật cười lớn.

“Con không nghĩ là con muốn gặp tụi nó. Tụi nó sẽ không bao giờ giống...” Tôi sắp sửa nói “Mungo.” “Vern là một thằng điên,” tôi nói tiếp: “Má không thể tin nổi những gì nó đã làm đâu. Có lần nó...”

Má bịt tai lại. “Má không muốn nghe đâu.”

“Đồng ý, đồng ý,” tôi nói và má buông tay ra khỏi hai tai. Rồi tôi nói: “Vậy còn chuyện giữa má với... Má biết con nói ai mà, ra sao rồi...” Tôi hất đầu về phía cửa, ám chỉ người chủ của ngôi nhà này.

Má trợn mắt, cảnh báo tôi đừng nói lớn quá và nói: “Ai vậy? À, ý con muốn nói ông CÁ CHUA!”

Rồi cả hai má con khúc khích cười.

Rồi má lắc mạnh đầu, nhắm mắt lại nói: “Má đã nghĩ cái giống gì vậy không biết nữa? Con có bỏ qua cho má không?”

“Hay quá,” tôi nói, “má có biết con đã học được cái gì trong mùa hè này không? Đó là thế giới này như là một...” Tôi làm bộ tìm lời để diễn tả cho đúng. “... như một cánh rừng, và đời người giống như một lối đi qua khu rừng này. Mình nghĩ nó như là một tuyến đường thẳng băng nhưng trên mỗi bước ta đi thì có vô số những bước khác mà mình có thể đi. Cho nên...” Tôi không nhớ được nên nói tiếp như thế nào.

Má cau mày. “Con học ý nghĩ đó từ đâu vậy? Má nghe quen quen.”

“À... a... đó là những điều mà ba thường hay nói.”

“Sao cũng được, nói tiếp đi,” má nói. “Má đang nghe nè. Nghe thú vị lắm đó.”

“Ô, con không nhớ nữa rồi,” tôi nói. “Mà coi chừng, tai vách mạch dừng đó.”

“Nghe thâm thúy lắm, má nghĩ vậy đó,” bà nói.

Trong buổi sáng ngày thứ ba khi tôi đang tịnh dưỡng, Tally ló đầu vô từ cánh cửa. Đó là lần đầu tiên tôi thấy con bé ở khoảng cách gần như vậy, và con bé nhìn hoàn toàn khác so với những gì tôi nghĩ về bề ngoài của nó. Mái tóc vàng óng của con bé có những vật ngộ nghĩnh cột vào: cái nơ, sợi dây, hột nút, và cái kính nặng nề gọng đen của nó nhìn vậy mà rất oách và ngộ, không như mọt sách chút nào. Nó mặc đồ vải thô bạc màu, rộng thùng thình. Tôi làm bộ ngủ để hi hí mắt quan sát con bé. Bờ vai con bé nhìn hơi suôn. Tôi tưởng tượng mình đặt tay lên đó. Phần trên của đôi cánh tay của con bé vừa giống cánh chim vừa giống đồ sứ chưa tráng men, vừa cứng cáp mà cũng vừa mỏng manh.

Sau một phút, tôi mở hẳn mắt ra và nói: “Chào em.”

Con bé nói: “Anh thấy trong người thế nào? Em cố vào thăm anh nhưng má anh lúc nào cũng kè kè như vệ sĩ đang làm nhiệm vụ ấy.”

Tôi kinh ngạc. Giọng con bé nói rất London. “À, đúng vậy,” tôi đáp. “Nè, cám ơn nghe vì... em biết vì cái gì mà.”

Tally cười và nói: “Nè, không có gì đâu.” Rồi con bé thì thào. “Nghe nè, em chưa nói hết mọi chuyện với cảnh sát đâu và cả với ông cà chớn mà người ta gọi là cha em. Em đã gặp tay bồ tèo của anh và ảnh nhờ em chuyển cho anh một lời nhắn bí mật? Vậy tên ảnh là Mungo hả? Em đâu có hiểu chuyện đó bởi vì em tưởng anh mới là Mungo, nhưng chắc đây là một chuyện riêng của mấy ông con trai... Dù sao đi nữa, ảnh bảo nói với anh là ảnh rất ngon cơm. Ừ, ảnh không xài chữ đó nhưng đó là ý ảnh muốn nói.” Con bé thấy sự biểu lộ cảm xúc của tôi. “Đừng lo, em chưa nói với ai đâu. Ảnh bảo tốt nhất là đừng bép xép, bởi vì có vẻ như má của anh ghét ảnh lắm?”

“Đúng vậy,” tôi nói. Tôi thấy hạnh phúc và sự nhẹ nhõm ngập tràn cơ thể như ánh nắng tỏa chiếu trên các cánh đồng. Mungo còn sống! Mungo thật là chiến! Vào giây phút đó không có điều gì khác là quan trọng, kể cả cái chết của ba tôi. Tôi cảm thấy như thể tôi hạnh phúc như thế này mãi mãi. “Ở... đâu... em gặp hắn ở đâu?” Tôi hỏi, vẫn cố giữ vẻ mặt tỉnh bơ.

“Ồ, wow, thiệt là ớn, phải không? Em đang chơi đàn ghi-ta trong phòng mình và không nghe tiếng ảnh vào, ảnh làm em sợ muốn chết, em tưởng ảnh là ma...”

Và đó là cách tôi hiểu ra Mungo đã cứu tôi như thế nào. Hắn đã nói với Tally rằng hắn ít khi đường đột xông vào nhà người ta nhưng đây là trường hợp khẩn cấp bởi vì bạn của hắn đang rất là yếu ở dưới giếng. Hai người đã xuống đó từ dưới chuồng gà, rồi nước trong giếng dâng lên và họ không thể thoát ra được. Bạn của hắn ngất đi và hắn tưởng là cả hai sắp chết đuối. Rồi trong giây cuối - hắn nói hắn đang vùng vẫy, thử đủ mọi cách, tưởng đã tuyệt vọng - thì hắn tìm ra lỗ dưới nền của đáy giếng, và trong cái lỗ có một cái khoen. Hắn kéo mạnh cái khoen đó thì một cái cửa sập mở vào hầm bí mật của dân buôn lậu dẫn đến hầm rượu của nhà Tally. Trong lúc nước mưa đang chảy ra khỏi giếng, thì Mungo từ hầm rượu leo lên tìm người giúp. Tally xuống hầm rượu, nghe tiếng tôi rên rỉ thì chạy lên la làng chói lói. “Gọi 999!” [28]

“Từ đó ảnh biến mất, bốc hơi mất,” Tally nói. “Nói là ảnh không thể lòng vòng quanh đây, ảnh có một đường về rất xa để trở lại nơi ảnh đã từ đó tới. Theo cái cách ảnh nói, thì như là ảnh đang sống ở Bắc Cực hay sao đó. Nè, có phải anh là người yếu thần kinh không?”

“Cái gì!” Tôi la lên. “Hổng có chuyện đó đâu! Chúa ơi! Ai nói với em như vậy?”

Tally nhún vai, cuộn cái nơ trên tóc quanh ngón tay. Rồi con bé chỉ tay vào tôi và cười to. “Lên dây thiều, lên dây thiều. Máy anh đã chạy ngon chưa? Em lên dây ngon không?”

Cửa chợt mở, má bước vào phòng. “Ô, xin lỗi...” bà nói.

“Không sao đâu bác,” Tally đáp lại, “cháu cũng tính đi đây.”

“Trước khi cháu đi,” má nói, “cô đang nghĩ vầy nè Tally. Có lẽ, khi Mungo và cô trở về London rồi, cháu có thích tới ở chơi với má con cô không?”

“Tuyệt quá.” Tally đáp.

“Mungo nè? Con nghĩ sao?”

“Sao cũng được,” tôi đáp, nhưng đôi mắt tôi sáng lên.

Tally bước ra cửa, đặt tay lên cái nắm cửa. Rồi cô quay lại đối diện với chúng tôi. “Ô, suýt nữa là quên mất.” Cô mò trong túi yếm của bộ đồ vải thô đang mặc. “Anh biết cái anh chàng mà em vừa mới kể với anh, ảnh cũng tên là Mungo đó?” Con bé nháy mắt với tôi và chìa ra một vật bằng kim loại rồi ném nó lên giường. “Ảnh biểu em đưa cho anh cái này nè.”

HẾT