- VIII -
Một con sông nhỏ, nước trong veo, lững-lờ chảy như uể-oải, như còn đắm-đuối nhìn rặng xoài xanh um đang nghiêng mình soi bóng trong gương nước.
Lác-đác trên những đỉnh ngọn cây, những giang, sếu, hạc vươn cổ nhìn trời, nhìn nước.
Một đàn cò trắng ở đâu bay về sà xuống mé sông.
Trên những cành cây ruối rủ xuống mặt sông dăm ba con chim bói cá lông đỏ thắm, xanh biếc đang ngất-nghểu lim-dim như những tín-đồ nhập định.
Sát ngay vệ sông, một dẫy chùa mái uốn cong.
Chạy theo dọc sông, một con đường đất đỏ vàng.
Bắt đầu từ cổng chùa, mười lăm nóc nhà ngói, tường đóng ván xếp hàng bên đường. Những nhà ấy tuy to nhỏ có khác, nhưng đều một kiểu kiến trúc giống nhau, ngói cong trát xi-măng, cửa mở ra đường để cho ta nhìn thấy những đồ tạp-hóa và những cái đầu trọc.
Một vài thím xẩm, đầu tết bím, chạy đi chạy lại lăng-xăng. Ta ngỡ là lạc sang một xóm nhỏ bên Tầu, nếu không có những chú Cao-mên cao lêu-đêu, đen trùi-trũi vừa đi vừa hát nghêu-ngao trước cửa các tiệm.
Các chú ấy vào các tiệm Khách tìm rượu uống.
Ngoài những tiếng hát nghêu-ngao của mấy chú say rượu ấy, ta chẳng còn nghe thấy tiếng động gì hết. Phủ Lovéa nằm im-lìm như say cái nắng tháng mười.
Ngoài đường chẳng có cái gì là hoạt-động, tuy đó là một phố của xứ Lovéa. Vài đứa bé con Khách, đầu nhẵn thín, chạy từ cửa tiệm nọ sang cửa tiệm kia.
Dăm ba cô gái Cao-mên áo đỏ, áo xanh, sam-po (một thứ váy) thắt đuôi, đội những cái thúng từ trong các cửa tiệm đi ra.
Chẳng có bóng dáng một đứa trẻ Cao-mên. Chẳng có một cái nhà sàn.
Thì đã bảo đó là một phố Khách. Nhưng sao đã có Khách ở mà trông hiu-quạnh vắng-vẻ thế? Sao người Khách đã đến tụ-họp ở đây mà không có sự buôn bán tấp-nập?
Hẵng chờ xem lúc mặt trời sắp lặn..
Tiếng xe bò kẽo-kẹt inh trời. Xe bò hàng đoàn ở hai đầu đường kéo về như nêm cối, rồi chui vào các cổng ở ngay bên cạnh các cửa tiệm.
Người ta đánh bò hàng đàn xuống sông uống nước. Các ông con trời “tíu-lớ” ngậu xị.
Phố Lovéa bỗng dưng biến đổi. Buổi trưa lặng lẽ bao nhiêu, thì bây giờ ầm-ỹ bấy nhiêu.
Nếu ta lại theo các xe bò xem đỗ ở đâu thì ta phải giật mình. Đỗ trước những cái vựa thóc dài hàng ba, bốn mươi thước.
Cái nào cái ấy to gấp mấy mươi những cửa tiệm của họ. Thóc, những thóc, toàn thóc. Thóc đỏ ối, thóc vàng xòe, thóc đen sẫm. Bao nhiêu xe bò trọng tải mỗi xe hàng mười tạ đều đầy ăm-ắp những thóc.
Thóc từ đâu mà tải về đây lắm thế?
Cả xứ Lovéa hàng mấy vạn người Cao-mên cầy ruộng đều đem thóc đến cả đây dâng cho các chú! Thóc của mấy chục vạn mẫu ruộng, của cả phủ này đổ về đây, chứa vào những vựa thóc của mười mấy tiệm Khách.
Nếu ta xét kỹ cách thức người Khách làm sao lấy được hết lúa của người Cao-mên thì ta phải giật mình cho xứ Lovéa và cả xứ Cao-mên.
Người Cao-mên nào nghèo nhất cũng cầy hơn mười mẫu đất mà trong nhà chỉ còn vài chục nồi thóc! Các chú chẳng cày cấy gì mà tiệm nào cũng có hàng năm sáu vạn nồi.
Ấy là mới kể mười cửa tiệm ở ngay gần phủ Lovéa, còn rải-rác các làng không thể tính là có bao nhiêu tiệm. Tiệm nào nghèo nhất cũng hàng vài nghìn nồi trở lên. Thì ra người Cao-mên còm-cọm làm quanh năm đem thóc đến cống-hiến cho các chú.
Bất cứ ở xó-xỉnh nào trong xứ Cao-mên, chìa khóa kinh-tế đều về tay các chú.
Những người Cao-mên làm ruộng: Bố chết ư? đến đặt thóc non cho các chú để lấy tiền tống-táng! Lấy vợ ư? đặt thóc non cho các chú! Có kiện cáo ư? Đặt thóc non cho các chú! Thiếu thóc ăn ư? đặt thóc non cho các chú! Muốn quần-áo, xà-phòng,dầu hỏa.. nhất nhất cái gì cũng đổi bằng lối đặt thóc non.
Ta thử làm một con tính nhỏ.
Một cái sarong mua sáu hào, các chú đánh giá bán là một đồng. Anh Cao-mên, anh không có một đồng ư? anh đổi lúa non. Một thăng lúa ngày mùa bán tám hào thì đặt lúa non chỉ có ba hào hay hai hào rưỡi. Ấy là anh nào có trâu bò cầy ruộng, chứ không thì chỉ có hai hào hay hào rưỡi thôi. Một cái sarong phải đổi ba thăng rưỡi. Cái sarong sáu hào thành-thử ra hai đồng tám. Nhưng người Khách đã cho thế là đủ đâu. Lúc bán thóc đi thì họ dùng cái thăng nhỏ nghĩa là bằng hai thùng sắt tây. Nhưng khi đi lấy lúa của người Cao-mên họ lại dùng cái thăng lớn bằng gỗ, có khi thành ra hai thùng rưỡi sắt tây. Cái sarong sáu hào mà người Cao-mên phải giả đến ba đồng. Khắp thôn-quê xứ Cao-mên gần gần như thế.
Một gia-đình Cao-mên cày mười mẫu ruộng, trung bình được ba trăm giạ (ở Cao-mên gọi là thăng) thì nợ các chú năm sáu trăm. Để một ít thóc về làm giống và vài chục giạ về ăn, còn giả các chú ráo, ấy là các chú còn thương-hại cho đem về đấy, chứ lấy hết cũng phải chịu.
Thóc còn nợ lại đến sang năm một lãi thành hai. Ăn tiêu lại nhờ vào lưng các chú cho đặt thóc non, đời đời kiếp kiếp bao giờ cũng vẫn nợ.
Ngoài các cửa tiệm chính-thức đặt thóc non đến mùa lúa lại còn những chú đánh xe bò, đem hàng đi đổi thóc. Một lọ nước hoa bằng ngón tay, mấy thanh đường thẻ, vài hạt muối, một tao lúa rồi.
Buổi sáng, các chú ai có khỏe-mạnh đều theo xe bò ra đồng lấy thóc nợ, chiều mới về. Họ chỉ vất-vả từ tháng mười cho đến tháng giêng là mùa gặt, mùa đòi nợ, còn các tháng khác chỉ toàn đánh mã-chược. Ấy thế mà phong-lưu. Battambang là cái lẫm thóc của xứ Cao-mên thì Lovéa là cái lẫm thóc của xứ Battambang.
Xứ Lovéa đồn-điền bát-ngát, lại còn hàng mấy mươi vạn mẫu đồng gianh chưa khai-khẩn. Làm ruộng ở đấy dễ-đàng lạ thường. Cầy vỡ, bừa rồi gieo mạ, chứ không thể cấy xuể. Mà quanh năm chẳng phải tát một gầu nước nào. Đến mùa, nước sông dâng lên ăm-ắp tràn vào các ruộng.
Suốt phố Lovéa là Khách, cái gì cũng Khách. Khách bán thịt, Khách bán hủ tiếu, Khách bán kẹo. Nhất nhất một đồng xu của người Cao-mên đều chạy vào túi người Khách. Khách lên đây chiếm-cứ không biết đã bao nhiêu năm.
Nhưng năm 1927, ta thấy lọt một gia-đình người Việt-Nam.
Trước cái nhà nhỏ ở đầu phố Khách cứ khoảng năm giờ, ta thấy một thiếu-nữ mặt mũi xinh tươi trạc độ mười bẩy, mười tám, mặc một bộ quần-áo bà-ba lụa trắng thập-thò như có ý đợi chờ ai.
Vụt thấy bóng ngựa phi nước đại ở đầu đường là trên miệng hoa lại nở một nụ cười.
Một thiếu-niên cao lớn mặc lối đồng-tử-quân, vai vác súng, mặt mũi đầy bụi nhảy xuống nắm tay thiếu-nữ dắt vào nhà.
Mặt, cánh tay, cổ chân người thiếu-niên rám nắng đen bỗng tương-phản hẳn với nước da trắng mịn của người thiếu-nữ. Thiếu-nữ trông nhu-mì bao nhiêu thì thiếu-niên trông gân-guốc bấy nhiêu.
Thân-thể thiếu-niên xương-xương rắn như sắt trông thở ra sức mạnh. Hai đường răn bên má làm tăng cho vẻ cương-quyết của cái cằm vuông. Giao mi sâu như đánh dấu cho khuôn mặt ấy một nghị-lực. Làn môi ngạo đời trễ ra. Tiếng nói choang-choang, khô-khan cộc-lốc, đanh-đá như quát, như vụt. Lông mày lúc nào cũng cau như lúc nào cũng giận, cũng tức. Mắt lúc nào cũng long lên, nhìn ai cũng như muốn dò, muốn xét, muốn lùa thấu tim gan.
Cái roi gân bò đầu bịt đồng lúc nào cũng ngoe nguẩy như muốn tìm người để đánh.
Không đứng đâu yên, không ngồi chưa yên, chân tay lúc nào cung cử-động, mình mẩy như ứ những sức thừa không thế thì không chịu được.
Nhìn thiếu-niên ta như thấy một sức mạnh tàn nhẫn hiện hình lên. Rồi ta tưởng chừng như một đời con người này không thể yêu, không thể cảm, không thể nói với ai một lời âu-yếm dịu-dàng.
Thiếu-nữ dắt thiếu-niên đến một cửa hàng liền bá cổ hôn.
.…(sách bị xóa mất mấy hàng)….
– Thế này đủ rồi, người ta mồ-hôi mồ kê bẩn-thỉu thế mà không gớm à?
Nói xong cười sằng-sặc. Cái cười ấy làm cho khuôn mặt biến đổi hẳn. Bao nhiêu vẻ cương-quyết, bao nhiêu nét tàn-nhẫn tiêu-tán hết. Chỉ còn một vẻ yêu-đương đắm-đuối ở hai con mắt say-sưa. Và một vẻ hoan-lạc ở trên làn môi hé nở để lộ ra hai hàm răng trắng như ngà.
Thiếu-nữ lấy tay bóp mũi thiếu-niên mà bảo:
– Từ rầy không được nói cái câu chuyện gớm ấy nghe không? Ai đời vợ lại gớm chồng.
– Bẩn thì phải gớm chứ.
Vừa nói, vừa lắc lắc cái đầu thiếu-nữ:
– Cô em gái tôi kỳ-quái quá. Yêu chồng chứ yêu được cái mồ-hôi và bụi-bậm như thế này à?
Thiếu-niên buông tay, cởi cái thắt lưng đạn. Bụi bay lên mà thóc thì bám đầy.
– À, anh, hôm nay anh có mệt không?
– Mệt, nhưng trông thấy em thì hết mệt rồi. Mình là liều thuốc bổ của anh mà không biết à? Còn chờ gì mà không rót một chén thuốc bổ cho đây uống.
– Quỷ, lúc nào cũng pha trò. À, hôm nay có đổi được nhiều thóc không?
– Hơn hai trăm thăng. Nhưng sang năm, ta vỡ đồn-điền của ta thì không còn thì giờ đi đổi nữa. Cũng tiếc, nghề đổi thóc phát-tài quá. Ngủ gật một vụ cũng kiếm được hơn nghìn đồng lãi. Tôi đổi rẻ hơn tụi Khách, nên họ đổi của tôi nhiều lắm.
– Sang năm em đi đổi thay anh.
– Thôi tôi can. Nắng cháy má hồng, về Siemreap, ba má không nhận ra con gái của ba má nữa. Mà sang năm, mình còn bận một việc khác cần hơn việc đổi thóc.
Thiếu-nữ nghe nói, mặt hớn-hở nắm tay chồng, khẽ đặt vào bụng mà bảo:
– Nó đạp mạnh ra phết. Chắc sau này nó nghịch lắm.
– Ừ nhỉ, để tôi đánh dạy nó ngay từ bây giờ không sau này không dạy được.
– Thôi tôi can ông. Sau này không bằng lòng đánh đâu đấy. À, mình thích con giai hay con gái?
– Con gái để cho nó giống mình.
– Không, không, em bằng lòng con giai cho nó giống cậu nó.
Vừa lúc ấy tiếng xe bò kẽo-két ở cửa. Thiếu-niên vùng dậy:
– Yên, yên, xe bò nhà ta đã về. Để tôi trị cho thằng Srok này một trận, tôi bảo nó bao phen phải khâu bao cho nó tử-tế mà nó lười không chịu nghe làm cho hôm nay vãi bao nhiêu là thóc.
Thiếu-niên với lấy cái roi gân bò.
Thiếu-nữ giằng lấy:
– Gớm mình ác lắm.
Thiếu-niên không buông:
– Mình biết đâu, ở đời này cũng có lúc cần phải ác. Không ác nó khinh-nhờn mình. Mình biết đâu đến những cái lẽ mà người ta cần phải tàn-nhẫn..
Thiếu-niên xuống vựa thóc, thiếu-nữ chạy theo.
Tám cái xe bò đỗ ven vựa thóc. Thiếu-niên đến gần một cái xe bò vạch một lỗ thủng cho người đánh xe nhìn rồi bảo:
– Srok, mày có biết hôm nay mày làm hại bao nhiêu thóc của tao không? Tao đi ngựa sau thấy thóc chẩy từ phum Takmau cho đến Réamséna. Tao đã bảo mày bao phen cái bao lót xe nào rách phải vá lại tử-tế trước khi đi cơ mà!
Rồi nắm chắc roi gân bò, thiếu-niên quất thẳng Srok túi-bụi. Thiếu-nữ can không được phát khóc lên. Thiếu-niên vẫn chẳng dừng tay. Thiếu-nữ thấy kinh người liền rú lên chạy vào nhà.
Một lát sau thiến-niên vào. Thiếu-nữ mặt còn đầm đìa nước mắt trách:
– Anh tàn-nhẫn quá, không biết xót thương là gì. Đã một lần đánh thằng A-Phủi gần chết, nay lại thằng này.
– Công việc trong nhà thì anh chịu nghe hết mệnh lệnh của mình, nhưng công việc ngoài, mình phải để mặc anh. Anh có vì giận mà đánh chúng nó đâu. Anh bình tĩnh xét thấy rằng phải đánh thì đánh. Lên cái xứ rừng-rú này có phải như ở Siemreap đâu. Thằng nào mạnh, thằng ấy được. Nếu mình để cho nó khinh-nhờn mình được một lần thì nó khinh-nhờn mãi. Bây giờ mới có chục thằng cu-li mà còn bảo không được. Sau này vỡ ruộng mướn hàng trăm người thì làm thế nào. Mình phải ra uy cho chúng nó sợ. Có uy thì rồi mình làm ân cho nó, nó mới hiểu cái ân của mình, và nó mới biết cám ơn. Chứ ai mình cũng tử-tế thì nó cho mình là đần, nó bắt nạt. Hiền với bụt, chứ không thể hiền được với ma.
– Mình thì đối với ai mình cũng ác.
– Mình nhầm, thế sao anh đối với mình anh như con cừu. Mình có biết tại làm sao anh đánh thằng khách Ả-Phủi không? Anh đi đổi lúa, nó cũng đi đổi lúa, thì việc gì đến nó mà mỗi khi thấy anh nó lườm nguýt và đi nói xấu anh. Mình có biết hôm anh gặp nó ở ruộng, tại làm sao mà anh đánh nó không? Nó cậy đông người nên lúc anh đem hàng đến đổi cho mấy người Cao-mên nó đang đổi, nó dọa anh nếu đỗ xe lại đổi tranh của nó, nó đánh. Anh chẳng thèm để ý. Anh cứ đem hàng ra đổi. Khi người Cao-mên thấy hàng anh tốt hơn, đổi rẻ hơn, đổi cho anh thì nó bô bô:
– Anh duon, pà dắt, anh cắp cà bai ảnh (thằng An-nam, coi chừng tao chặt đầu mày).
Anh cũng chỉ cười. Mình xem anh nhịn đến thế là cùng. Nhưng khi người Cao-mên đổi lúa cho anh, xúc thóc cho anh, nó cầm giật lại thì anh không chịu nổi nữa. Anh lại gần đấm cho nó một cái vào cổ ngã dụi xuống. Bọn đầy-tớ nó xông vào thì anh phải hò đầy-tớ anh đánh chứ. Anh phải trả giá thằng Um, thằng Pà-Dao một tháng lương đắt gấp hai đứa khác là cốt chỉ để dùng trong những lúc ấy. Anh phải mượn những đứa đầy-tớ có võ và có gồng ngải là vì anh biết rằng mối lợi bọn Khách chúng nó đương chia tay nhau, nay mình đến cướp một phần của nó, chắc nó phải thù ghét mà sinh sự với mình. Mình yếu, mình không đề-phòng trước là nó đánh chết. Bất quá một thằng đi tù, cả xứ nó nuôi. Đấy, mình xem, từ ngày anh diệt cho thằng A-Phủi một trận nên thân, có thằng Khách nào dám ngó ngang anh nữa đâu? Tại làm sao trước kia anh dắt mình đi chơi phố, chúng nó cười rộ lên chế? Thế mình xem từ ngày anh đánh thằng A-Phủi vỡ đầu mà ông đồn lại còn xử cho anh được kiện thì anh với mình đi qua, chúng nó có dám ê, ê nữa đâu. Mình cứ để yên mặc anh. Hẵng trị cho chúng nó sợ, rồi mới làm thân được. Rồi mình xem. Chỉ ít lâu là chúng nó phải tùng-phục anh. Ở cái xứ giặc cướp, phải dữ hơn giặc cướp thì mới được yên thân. Thôi, lau nước mắt đi, em Vân, anh van em, em cố xét rõ mà hiểu hành-vi của anh thì em sẽ không cho anh là tàn-nhẫn.
Vân đã nguôi lòng:
– Nhưng thấy đánh thế, người ta ghê cả mình.
– Thì ai bảo cứ ra xem.
Nghe những lời Vĩnh đàn-giải với vợ, ta đủ rõ ngay rằng chàng đã được huấn-luyện ngay ở trong trường đời.
Sự thực-tế đã khiến cho chàng nhìn rõ thấy một yếu tố của sự sống: sức mạnh. Chẳng những cần phải “ mạnh ” đế thắng người. Mà chính mình lại cần phải “ mạnh ” để thắng mình.
Một tang-chứng. Nếu Vĩnh mà không có một nghị-lực cứng rắn thì hôm đầu đi đổi lúa sẽ là hôm cuối cùng. Giời tháng mười xứ Cao-mên nắng như đốt mà phải bêu ngoài nắng từ sáng cho đến tối, thì một cái cơ-thể chưa từng chịu gian-lao như Vĩnh chịu làm sao được. Đi đằng sau xe bò, bụi bay lên trùm cả đầu tóc. Lại phải nói ra-rả suốt ngày thì người ta mới đổi cho mình. Mài lúa lùa vào áo sơ-mi ngứa ran. Một ngày, Vĩnh khát nước uống không biết bao nhiêu bận. Bình nước đem đi hết, khát quá, phải uống nước lã. Mà ruộng ở Cao-mên xa nhà chừng mười hay mười-lăm cây số chứ có gần đâu. Vĩnh tuy cưỡi ngựa, nhưng vì cưỡi không quen, da ở xương khu sứt. Mỗi khi xuống ngựa mà lại phải lên thì mông như phải bỏng.
Về đến nhà, Vân thấy Vĩnh hai mắt lờ-đờ, mặt đỏ gay, mệt không nói được, khuyên Vĩnh không nên đi nữa. Vĩnh chỉ mỉm cười. Chiều tối hôm ấy, Vĩnh không ăn được cơm, mà về đêm Vĩnh thấy mình mẩy đau như dần, phát sốt, phát rét. Nhưng sáng mai, ba giờ đã bò dậy. Vân can không cho đi, Vĩnh chỉ trả lời:
– Sự nhọc-mệt, một khi mình đã không chịu thua nó thì nó phải chịu thua mình.
Quả-nhiên được dăm hôm thì quen, nhưng nhìn Vĩnh ngày nay, người ta không nhận được ra Vĩnh thuở trước nữa. Từ ngôn-ngữ cử-chỉ đổi hết. Chỉ khi nào đối với Vân thì còn là Vĩnh yêu đương thuở xưa mà thôi.
Khi ở Siemreap, từ giã ông bà Nam-Phát bước chân ra đi, người quen biết và bè bạn ai cũng đồ chừng cho Vĩnh sống cái đời ấy độ mười hôm là bò về.
Vĩnh chỉ mỉm cười không nói. Khi bắt tay vào việc, chàng đã có một cái chí quyết thắng. Mà dò hỏi nghị-lực mình thì nó giả nhời có thể thắng được.
Chàng mở cho Vân một cửa hàng bán tạp-hóa cũng như các tiệm khác. Vân lại có tài khâu vá mà ở đây thì người Cao-mên thường chỉ mặc toàn quần áo may sẵn, nên Vân mua một cái máy khâu tập may.
Vân bảo cho người Cao-mên biết nếu mặc quần áo sẵn, thì không vừa, trông không đẹp. Muốn đẹp, mua vải của Vân, Vân sẽ may cho. Muốn kiểu gì cũng được. Một vài người mặc thử thấy đẹp bảo nhau kéo đến nhà Vân may đông lắm
Thứ nhất là đàn-bà con gái, Vân lấy một vài mẩu lụa xanh đỏ kết thành hoa, đính vào áo cho, họ đều bằng lòng lắm. Áo cánh đàn-ông Cao-mên gần như áo ta ăn công sáu hào. Mà áo của đàn-bà thì may như áo sơ-mi ngủ trùm vào đầu, Vân lấy công bốn hào, thêm cho một cái hoa. Cứ những tiền công may cũng kiếm được một tháng gần trăm bạc.
Các tiệm Khách thấy cửa hàng vợ chồng Vĩnh đắt hàng đều ghen ghét và hậm-hực. Họ kiếm đủ cách làm khó-khăn để cho không ở đấy được. Vĩnh thường bảo vợ:
– Nếu không xin phép mua được cây súng thì có lẽ mình không thể ở đây được.
Lovéa lại gần biên-giới nước Xiêm, cướp trộm là việc thường ngày.
Ăn cướp ở Cao-mên rồi chúng vào rừng sang Xiêm, không ai còn dám đuổi.
Chẳng những thế, hơi xích-mích, là người Cao-mên dùng đến võ-lực. Kẻ sát-nhân trốn sang Xiêm thì pháp-luật cũng không làm gì được.
Trước Vân cũng lấy làm sợ-hãi. Nhưng thấy Vĩnh cứ thản-nhiên như không, Vân mới yên lòng.
Vĩnh đến nơi thì là mùa gặt, nên chàng thử đi đổi lúa để cho biết cách thức và tiện dịp kiếm thêm ít lãi để khai-khẩn đồn-điền.
Nhiều khi Vân thấy chàng vất-vả quá thường phàn-nàn.
– Thật em không hiểu mình. Thiếu gì nghề mà mình phải đem thân ra đày-đọa thế này.
– Càng đem cái thân ra đầy-đọa bao nhiêu thì càng lợi ích vào thân bấy nhiêu. Đàn-ông chúng anh như viên đá tảng đầu ghềnh, càng sóng gió ba đào càng tròn, càng nhẵn.