- IX -
Phải chiến mà thắng, phải cướp mà lấy.
Năm năm sau, đầu phố Khách Lovéa, người ở những xứ xa đi qua đều phải lấy làm lạ thấy một tòa nhà sàn sơn xanh làm theo lối Tây lạc vào những cửa tiệm lụp-xụp tối-tăm của các Khách-trú.
Trong một khu đất chừng năm mươi mẫu, giồng toàn cây, tòa nhà kia với mái ngói đỏ, với cửa chớp sơn vàng, với tường sơn xanh đứng lừng-lững như một anh đại-phú mặc áo gấm nhìn một cách ái-ngại những thằng nghèo quần áo tả-tơi bao vây xung-quanh.
Những tiệm Khách tường gỗ mốc-meo, những nhà sàn Cao-mên lợp gianh thấp lẹt-đẹt lại càng làm cho tăng cái vẻ tráng-lệ của tòa nhà tây kia.
Trước cửa nhà, ngay cầu thang đi thẳng xuống một vườn hoa hồng điểm cho cảnh vật một vẻ vui cười.
Hàng đàn chim bồ-câu chíu-chít đậu ở trên mái chốc chốc lại bay lên rồi lại bay về, làm cho cái nhà này có vẻ ấm-cúng.
Đường cái lát gạch sạch như ly như lai, những cái ghế đá đỏ lúc nào cũng bóng lọng, đủ tỏ chủ-nhân bất cứ việc gì cũng để mắt đến.
Khắp vườn không có một đùm cỏ, không có một cái rác, chủ-nhân đã truyền được cái tính cẩn-thận sạch-sẽ của mình cho gia-nhân đầy-tớ.
Vào khoảng năm giờ chiều hai thằng bé một đứa phỏng lên năm, một đứa lên ba, xúng-xính trong hai bộ quần áo pyjama ở trên thềm bước xuống. Thằng nhớn cầm cái kèn vừa đi vừa thổi, thằng bé con xách một cái lẵng nhỏ theo sau.
Đàn chim bồ-câu ở trên mái nhà thấy hai đứa, sà cả xuống đậu khắp bên người rồi ùa vào mổ cái lẵng.
Thằng bé con cuống-quít, thét:
– Mẹ! Mẹ!
Một thiếu-phụ thướt-tha trong bộ quần áo lụa trắng từ trên nhà chạy xuống sẽ xua đàn chim, rồi cầm lấy cái lẵng:
– Sao ai bảo con không chờ mẹ, cứ chanh-lanh.
Rồi mắng yêu thằng bé lớn:
– Sao con không đuổi chim đi cho em.
– Con còn thổi kèn. Thằng ấy nó nhát lắm. Một chút thì la.
Thiếu-phụ dắt hai con lại ngồi trên ghế đá. Rồi mở nắp lẵng, bốc một nắm thóc vung ra. Đàn chim kéo đến, xúm-xít xung-quanh, mổ thóc lia-lịa.
Thằng bé con chạy đến vồ những con chim đang cúi cổ mổ, nhưng đều vồ trượt.
– Thôi, con đừng làm tội, để nó ăn, chóng ngoan.
– Không, mẹ bắt con chim trắng kia cho em ôm.
Thiếu-phụ lại bốc một nắm thóc, nhưng lần này thiếu-phụ không vung ra, chỉ để nguyên trong lòng bàn tay, rồi xòe ra. Năm sáu con chim bay đến đậu lên cánh tay, lên bàn tay. Thiếu-phụ sẽ nắm một con đưa cho thằng bé.
– Không con chim trắng kia cơ.
– Nó có đậu lên tay mẹ đâu mà bắt được.
Thằng bé con phụng-phịu quay mặt đi. Thiếu-phụ thả con chim rồi nắm cánh tay thằng bé:
– Con cứ vòi-vĩnh như thế thày về mẹ mách bây giờ. Thôi anh Hà đưa cái kèn cho em mượn, nó thổi.
– Không, nó chưa biết thổi.
– À, anh hư thế nhé, không chiều em nhé.
Thằng bé lớn cực bất-đắc-dĩ phải đưa cái kèn ra. Nhưng trước khi đưa, nó còn phồng má, trợn mắt thổi cho đến một hồi thật mạnh như đế tỏ lòng phẫn-nộ.
Vừa lúc ấy, hai con chó Tây thật lớn ở ngoài cổng chạy vào nhảy cỡn và vẫy đuôi chạy xung-quanh ba mẹ con.
Thằng bé lớn reo lên.
– A! Thầy đã đi bắn về!
Rồi nó giật ngay lấy cái kèn ở tay em nó:
– Em phải thổi kèn chào thầy chứ.
Rồi nó chạy ra cổng, vừa chạy vừa thổi inh-ỏi. Thiếu-phụ cũng dắt đứa con nhỏ theo ra.
– Nào đã thấy thầy đâu.
– Chó về là thầy sắp về. Đi ra đầu đường đi mẹ.
Cũng chẳng để thiếu-phụ trả lời, nó kéo áo lôi đi.
Thiếu-phụ với đứa con nhớn thì thủng-thẳng đi lại đầu đường.
Còn thằng bé con tròn như cái hạt mít lon-ton chạy trước. Đi được độ bốn trăm thước bỗng có một thiếu-niên nấp ở sau một bụi cây xô ra chĩa súng:
– Giơ tay lên.
Ba mẹ con đều cười khanh-khách.
Thiếu-niên đến ôm lấy thằng bé con công-kênh lên vai vừa cười, vừa bảo thiếu phụ:
– Người ta đã biết chó về trước là y như mẹ con kéo nhau ra đón người ta. Thằng Vũ nó được ngồi cổ thế này nó khoái lắm.
Thằng bé nhớn lại sờ cây súng:
– Thầy để con đeo.
– Nặng, con đeo làm sao được.
Thằng bé nhất định không nghe cố giằng lấy. Thiếu phụ bèn nạt:
– Hỗn nào, thấy thầy cưng cứ làm nũng bậy, lại phải đòn bây giờ. Có bắn được gì không? Ngựa anh đâu?
– Bắn được mấy con dím và một con nai. Ngựa buộc ở kia.
– À thế ra buộc ngựa một nơi, để nấp làm ăn cướp, định bắt người ta nạp tiền mãi-lộ đấy phải không?
– Thì đúng, nhưng đây không lấy tiền. Đây chỉ…
– Quỷ… yêu tinh.
Rồi thiếu-phụ chìa má cho chồng hôn. Quay nhìn thằng Hà bị mắng còn xịu mặt, thiếu-niên liền xoa đầu bảo:
– Thôi, đừng đeo súng, để thầy dắt ngựa đến cho mà cưỡi, rồi chốc nữa chúng nó khiêng nai về, thầy cắt một bộ móng cho mà chơi.
– Thầy cho con xem mổ nữa cơ.
– Được.
Thiếu-niên dắt ngựa lại, mếch hai con đặt lên yên:
– Ôm nhau cẩn-thận không ngã đấy.
Rồi thiếu-niên dắt cương cùng vợ thủng-thỉnh về nhà.
Lên đến thềm, một u em đã bế một đứa bé ước chừng năm sáu tháng chờ ở đấy.
Thiếu-phụ bế con nựng-nịu:
– Còn anh Điện này cũng phải bắt thầy cho cưỡi ngựa, bắt thầy công-kênh chứ!
Thằng bé hai tay sờ-soạng, mà đầu thì cứ rúc vào ngực. Thiếu-niên nắm hai chân con lắc-lắc:
– Anh đói, đòi bú. U em lấy ghế để mợ ngồi cho em bú.
– Có đói đâu, vừa bú xong, anh ấy hư thế đấy. Lúc nào cũng nhều cái mồm ra đòi măm măm.
Thằng bé đòi bú không được khóc thét lên.
– Thì cho bú một tí. Tội nghiệp, nó nhớ cái vú quá. Nào ra thầy bế, rồi thầy bảo mẹ cho bú nào.
Thiếu-niên giơ tay, thằng bé không theo cứ ôm ghì lấy mẹ.
Thiếu-phụ vạch áo cho con bú, rồi vừa hít vừa vỗ đít nựng:
– Gớm, nó dính mẹ quá. Không rời ra một chút xíu nào.
– Nó dính lắm thì khổ nhiều. Nghe người ta mướn vú, có phải hôm nay được đi bắn với người ta không. Hôm nay, em đi thì thế nào cũng được bắn mấy con dím, nó lại gần người quá. Anh cứ tiếc mãi không có em ở đấy.
Thiếu-phụ xoa đầu con:
– Đi bắn cũng chả sướng bằng ở nhà nựng cái anh chó này.
Rồi nhìn chồng:
– Quái làm sao mình cứ thích cho tôi mượn vú mới được chứ, không sữa nào tốt bằng sữa mẹ.
– Thì người ta muốn cho mình nhàn. Chứ chúng nó cứ dính như sơn thì còn đi được đến đâu, còn vui được cái gì.
– Chả cái gì vui hơn là ở nhà hú-hí với con. Em phải đi đâu độ nửa giờ là sốt cả ruột. Mà có đi đâu, cũng chẳng thấy cái gì vui.
Kéo hai đứa nhớn lại gần:
– Đây ba cuộc vui của tôi đây. À Hà, con vào bàn giấy lấy hai phong thư ra đây cho thầy xem.
– Thư của ai, nói gì?
– Thư gửi cho cậu, chứ có phải gửi cho em đâu.
– Gửi cho tôi thì mình xem cũng được chứ sao.
– Em chả xem thế.
Bức thư thứ nhất là của một người bạn ở Saigon gửi về:
Sài-gòn, le 1er Mars 1931.
Ông Vĩnh
Lúa bây giờ xuống giá quá, trong bốn tháng sụt từ 5p.70 đến 3p.l0. Mà rồi đây còn xuống không biết đến thế nào, 2p.50 hay 2p. chưa ai có thể biết được. Nếu có ai lên mua thì liệu mà bán đi, chứ không thể chờ đến Septembre vụ nước lớn mới chở ra Chợ-lớn, Bình-tây bán được đâu, vì tôi dám chắc chỉ có sút, chứ không có thể lên. Tôi vay của nhà băng hơn ba vạn, bán hết lúa giả còn thiếu, họ dọa tịch-ký, lôi-thôi lắm. Ông cũng liệu mà bán đi may mới đủ giả, chứ không để lúa xuống giá thì nguy to. Thị-trường thóc tôi xem ra chẳng hứa cho ta một hy-vọng gì.
Chúc ông bà và các cháu mạnh khỏe.
Thành-xuân-Phát
Tái-bút. – Nhớ có về Sài-gòn đưa bà và các cháu về chơi tôi nhé, nhà tôi nhắc mãi. Từ giờ, cứ mười lăm ngày tôi lại đánh dây thép báo giá lúa cho biết.
Bức thư thứ hai là một cái ngân-đơn của nhà Đông-Pháp ngân-hàng báo cho biết số tiền Vĩnh nợ tính đến 29 Février là 21.215 đ. 40.
Vĩnh xem xong, đưa cho vợ:
– Nếu giá lúa cứ xuống thế này thì cái cơ-đồ anh gây dựng trong bao năm không khéo sập mất. Lại đến công-cốc mà thôi.
– Thế lúa nhà ta cả đồn-điền lẫn thóc lấy nợ có bao nhiêu?
– Hơn bốn vạn giạ. Đằng thẳng như trước 1p/một giạ thì bán được hơn bốn vạn đồng, giả nợ nhà băng còn thừa hai vạn. Đóng thuế, giả tiền công còn hơn một vạn. Nhưng cứ giá lúa bây giờ thì giả nhà băng còn thiếu ít nhiều mà tiền thuế, tiền công chưa có. Nhưng lúa còn xuống nữa!
– Thế anh xem có ai mua thì bán đi có được không?
– Bây giờ lúa xuống giá cứ đùng đùng, ai người ta lên đây mua. Mà chờ đến mùa nước lớn, đem ra Chợ-lớn, Bình-tây bán, thì không biết còn xuống đến thế nào. Lại còn tiền bao, tiền thuyền mỗi thăng gần một hào. Không khéo tay trắng, chúng ta lại hoàn tay trắng.
Vĩnh nói xong thở dài. Vân bèn bế con đặt vào lòng Vĩnh mà bảo:
– Hết thì lại gây dựng một phen nữa, chứ mình cần gì phải buồn. Tay không mình làm nên cơ-đồ, chứ có phải của cha ông để cho đâu mà cần phải tiếc.
– Đã đành rằng thế, nhưng trước kia có anh với mình thì thế nào cũng được. Bây giờ có ba đứa này, chúng ta không thể để cho chúng nó thiếu-thốn. Nghèo lấy đâu cho chúng nó ăn học. Mà không ăn học thì sau này chúng nó sao thành người được. Tôi lo là vì hậu-vận chúng nó mà lo, chứ đã có cái gan làm việc, có cái chí làm giàu, thì keo này thua ta bày keo khác, chứ việc quái gì mà nản lòng. Nhưng trông thấy chúng nó thế này mà không có một món tiền để bảo-đảm tương-lai, ai mà chẳng lo?
☆
Vĩnh lên đây ra công khai phá trong năm năm, 500 mẫu đồng gianh đã thành ruộng. Thôi từ sáng đến tối, phơi mình ngoài nắng, đốc-thúc cu-ly, chẳng quản nhọc-nhằn, nên mới có cái kết quả như thế. Lại khéo ăn ở được lòng người Cao-mên, nên cửa hàng bán rất chạy. Cho ai vay, người ta cũng giả.
Người Khách ở đây trước ghét chàng, nhưng sau thấy chàng khôn ngoan, quyết liệt, biết không làm gì được cũng đem lòng sợ. Sợ rồi nể. Nể rồi yêu. Vì bất cứ ai có việc gì chàng cũng sẵn lòng giúp. Chàng là người giao-thiệp rộng, quen biết nhiều, nên giúp họ được nhiều việc đắc-lực.
Vĩnh lại mầy-mò đi chơi đây chơi đó, nên mới ở Lovéa có năm năm mà biết rõ các vùng lân-cận hơn một người Khách đã ở đây hai mươi năm. Bắn giỏi, can-đảm, cương-quyết, thích mạo-hiểm, lại nuôi được nhiều thủ-hạ giỏi, giặc cướp nghe tên đã nể. Không có một thung-lũng nào, mà Vĩnh chưa từng đi bắn đến. Quen thân với quan phủ, quan đồn, quan sứ, các thầy kiện ở Nam-vang, ai có việc gì, Vĩnh cũng sẵn lòng giúp. Vĩnh mới lên, tàn-ác bao nhiêu, sau thấy người ta đã tòng-phục mình, lại tử-tế bấy nhiêu. Thành thử ra ai cũng yêu. Chàng lại có những thuật rất mầu-nhiệm để mua chuộc lòng người. Giặc cướp bị bắt giam ở phủ Lovéa, chàng đều cho người nhà mang cơm vào, thuốc hút đến trại giam cho tử-tế.
Các tay đầu trộm đuôi cướp thấy chàng vừa gan dạ lại vừa nhân-hậu nên mến lắm. Trâu bò của chàng, không ai cướp trộm bao giờ. Mà dù có muốn cướp cũng không nổi. Chàng đốc thúc thủ-hạ đi đón đường sang Xiêm cướp lấy lại cho kỳ được.
Kẻ nghèo khó bệnh tật ai đến cầu cứu, chàng vẫn cưu-mang. Chàng lại mua các thứ thuốc Tây thường dùng như quinine, thuốc đau mắt, thuốc ho, thuốc lở, phát không cho họ, nên cả vùng đều ca-tụng chàng là phúc-đức.
Trong các tiệm Khách ở đây, bất cứ có việc vui mừng gì cũng mời chàng đến ăn tiệc.
Đối với người Cao-mên, thì vợ chồng chàng đi đến đâu, cũng được họ kính-trọng.
Cả xứ ai có việc gì khó-khăn cũng đến hỏi chàng. Chàng đối với họ vừa là một cố-vấn, vừa là một phúc-tinh.
Trước kia, Vân chưa có con mọn thì đi đâu, Vĩnh cũng dắt Vân đi. Ai ai cũng khen là một đôi vợ chồng tốt số. Từ khi Vân có con thì chẳng đi đến đâu cả, suốt ngày ở nhà hầu-bạ và chơi rỡn với con. Lâu lâu, Vĩnh rủ đi Sài-gòn, thì Vân đem cả con đi
Vĩnh cứ đinh-ninh làm dăm năm nữa kiếm lấy mươi vạn rồi cho vợ về Bắc để tiện việc học-hành cho các con, vì chàng xét thấy, muốn thành thân, thành người phải về Bắc rèn luyện, chứ ở Cao-mên thì chẳng những hoàn-cảnh không tốt mà sự học cũng chẳng ra thế nào.
Ai dè đâu, bỗng có sự nghiêng ngửa gây ra bởi nạn kinh-tế bất ngờ.
Sáu cái giây thép của bạn gởi cho chàng trong ba tháng sau đã làm cho chàng lo-sợ và buồn-bã không cùng.
Từ 3$00 một tạ lúa sụt xuống 2$00, rồi 2$50, 2$30, 2$10, rồi 1$80. Nhưng không thể để lại vụ sau được, chàng phải nhăn mặt về Chợ-lớn bán. Tiền đài-tải, tiền đóng thuế, trừ đi rồi còn giả nhà băng thì chàng còn thiếu hơn 1 vạn. Chàng muốn bán đồn-điền, nhưng lúa đã xuống giá như thế thì đồn-điền, ai còn dám mua.
Ba cái máy cày Fordson vì không có tiền mua Mazout phải bỏ xó. Mà nhân công đắt, làm ruộng thế thì sao cho đủ vốn. Trông vào cửa hàng thì lúa đã không có giá. Cao-mên ai còn có tiền mà mua. Mình phải bỏ ra cho họ vay để lấy lúa vụ sau, nhưng lúa đã thế thì cũng không thể cho họ vay được nữa. Mà tiền đâu cho họ vay.
Vĩnh xét thấy buôn bán cũng không được và làm ruộng cũng không được bèn gọi gạt cái đồn-điền trước kia đánh giá 5, 6 vạn cho nhà băng lấy 2 vạn. Nhà băng không thuận, bảo Vĩnh cứ làm. Nhưng nhà băng lại không chịu xuất vốn ra cho Vĩnh nữa thì còn làm sao được.
Vĩnh xét thấy không thể khoanh tay chờ chết — mà nào có một mình chết, bao nhiêu người thân yêu chết theo mình— bèn tính kế đi buôn hàng lậu ở Xiêm.
Mới ngỏ ý ấy cho Vân biết. Vân giẫy lên không chịu:
– Đường lối rừng rú hiểm nghèo ma thiêng nước độc, lại giặc cướp như ong, mình đi như thế nhỡ chẳng may có thế nào thì mẹ con em biết trông cậy vào đâu?
– Thế mình định để anh ngồi chờ cho chết đói cả nhà à?
– Em còn nghề may quần áo tháng kiếm hơn 4, 5 chục chết đói thế nào được?
– 4, 5 chục ấy chỉ đủ ăn, chứ ba đứa con nó nhớn lên lấy gì cho đi học. Hay để cho nó thành Cao-mên đi cầy.
– Thành gì thì thành, chứ mình đi như thế em không chịu đâu.
– Mình trẻ con quá, nước độc thì anh không sợ rồi, vì cái thân anh đã dạn-dầy thế, còn nước độc nào phạm vào được. Trộm cướp thì nó làm gì được anh một khi anh đã có khẩu súng trong tay.
– Mình đừng quá tự tin như thế. Cướp Lào, cướp Xiêm là ghê lắm. Lại còn nhà đoan, họ bắt được có phải bị tù tội không?
– Cứ như mình thì chẳng làm nên cái quái gì. Một khi người ta đã định làm một việc gì thì không nên nghĩ đến tù tội và cái chết. Cái số mà chết thì ngồi đây với mình cũng chết. Mà nói dại, anh đi như thế, nhỡ trộm cướp có đón đường bắn chết thì cũng thôi, chứ cần gì.
Vĩnh vừa nói vừa cười.
Vân chạy đến bịt mồm chồng và đấm thùm-thụp:
– Mình chỉ nói dại. Mình chết thì ai trông nom che-chở cho các con.
– Mình sẽ thay anh.
– Em thay thế nào được.
– Sao lại không được. Ví-dụ bây giờ anh mắc bệnh lăn đùng ra chết mình không phải thay anh sao?
– Thế thì lại khác. Mình chỉ bạo mồm. Thôi tính cái gì thì tính chứ đi buôn lậu thì em chịu thôi. Mình mà đi, em nhất quyết không cho đi đâu. Ba má còn giầu, ta hẵng vay ba má vài nghìn cho đỡ lúc này.
– Anh chịu. Trước kia chưa có con, anh còn không vay. Bây giờ có con thì anh lại càng không thể vay. Mà ví dù ba má cho vay thì ăn hết vài nghìn rồi làm cái gì nữa. Gặp hồi kinh-tế này, công nợ ba má vị tất đã đòi được. Không khéo rồi họ lại quịt hết. Hôm nọ, anh đi Siemreap, ba ta-thán, có mấy người họ nợ hơn một vạn mà họ không trả. Ba má tuy có bụng tốt nhưng ta cũng không thể ỷ lại vào đấy được. Mà làm cái gì bây giờ cũng không được nữa, chỉ có kế đi buôn lậu. Giời cho xong xuôi hai chuyến là lại nổi cơ- đồ. Mình đừng nên lo, cứ để cho anh đi.
Vân nắm lấy tay chồng, khóc rưng-rức:
– Không, không em ghê lắm.
Vĩnh bế vợ lên lòng an-ủi. Hai đứa con nghe tiếng mẹ khóc vội chạy vào, ngơ-ngác nhìn cha mẹ, Vĩnh bế cả hai đứa cho ngồi bên lòng mẹ.
– Em nên vì tương-lai của hai đứa con này, can-đảm để cho anh đi. Em nên nghĩ xa-xôi một chút. Em cứ tưởng-tượng giá vợ chồng mình trong túi không có một xu, để chúng nó bò nheo, bò nhóc mà xem. Nếu em không để cho anh thừa dịp này liều cố một chuyến thì cơ-hội đã trôi đi không bao giờ trở lại! Lúc ấy, hối đã muộn. Rồi đây nghèo kiết không có tiền cho chúng nó học, ở chết cái xứ Cao-mên nầy để chúng nó ngu dốt thì sinh ra chúng nó tức là một cái tội, tức là đem cái khổ, cái nhục buộc vào cho chúng nó. Mình phải nên lo đến cái đời bỏ đi của chúng sau này, nếu vợ chồng ta nghèo. Mình nên can-đảm để cho anh đi. Anh đoan chắc với mình rằng không hề gì đâu. Anh cũng lo anh chết lắm chứ vì anh yêu mình và thương con. Anh biết chắc, không thể chết được, anh mới dám đi. Mình phải nên biết tin ở tài lực anh. Mình phải vì các con mà can-đảm. Cái đời chúng ta bây giờ không kể đến nữa. Chỉ kể cái đời chúng nó. Mình thử ngẫm mà coi: cái đời chúng nó sau này nếu vợ chồng ta nghèo kiết, thì sẽ ra làm sao. Mình nên nhớ rằng anh thương yêu mình nhiều lắm. Anh biết rằng anh lỡ có mệnh hệ nào thì mình khó sống lắm. Ấy thế mà anh dám đi, thế nghĩa là anh đã dám chắc rằng anh không chết mà nhà đoan không bắt được anh. Anh đi. thế nào anh cũng phải đi.
– Nhưng mình đi thì mình buôn gì mới được chớ. Mà vốn đâu?
– Thiếu gì cách buôn, thuốc phiện đem sang Xiêm lại tải hàng-hóa ở Xiêm về. Còn vốn ấy à? Khối vốn. Chỉ sợ mình không có cách kiếm tiền ; có cách kiếm tiền khối người bỏ vốn. Thế trước kia, anh khai đồn-điền thì có một đồng xu vốn nào. Anh quen nhiều, tiếng Khách biết, tiếng Xiêm biết, lại có tiếng là người đứng-đắn, biết làm việc. Anh sang Xiêm dò la việc buôn bán, nếu xét ra có thể kiếm được, anh về Nam-vang gọi vốn, khối người bỏ, em bằng lòng cho anh đi chứ?
– Em vẫn sợ sợ thế nào ấy!
– Em nhát như cáy. Người nếu không mạo-hiểm thì có làm nên cái trò-trống gì bao giờ. Có ai ngôi dưng mà tiền đến tận miệng đâu. Của cải của giời. Ai có gan là người ấy được. Cái luật giời là phải chiến mà thắng, phải cướp mà lấy. Thì vua chúa đời xưa chẳng qua cũng chỉ là những người liều mạng mà thôi.
– Nhưng chúng mình đã có con.
– Đã có con lại càng phải liều mạng xông ra giật cho con.