← Quay lại trang sách

- X -

(Thiên này chép theo quyển nhật ký của một người bạn.)

Trên con đường Phnompenh – Sài-gòn, một chiếc ô-tô hòm kín mở hết tốc-lực.

Một thiếu-niên áo sơ-mi cụt tay màu cánh chả, quần kaki cộc ngồi bẻ lái. Bên cạnh thiếu-niên là mặt người Khách già mặt xanh bủng cấu ra thuốc phiện. Người Khách mặc một chiếc áo đoạn thâm dài chấm gót. Lâu lâu, ngưòi Khách ấy lại lau cặp kính trắng rồi thì-thầm với thiếu niên bằng tiếng Khách:

– Tôi thì tôi tin ông lắm. Tôi biết ông đã tính việc gì thì không sai. Nhưng tôi bây giờ bị lỗ vốn nhiều quá hết cả tiền, giá như trước kia thì một mình tôi bỏ ra rồi chia lãi với ông cũng được.

– Trước kia chưa kinh-tế thì nói gì.

– Vậy, ông có đến thì ông nói cho khéo, chứ họ đa-nghi lắm.

– “Xếnh-xáng” cứ yên tâm.

– Ông phải nói rõ cách-thức và sự lợi-hại cho họ biết thì họ mới chịu hùn vốn.

– Họ hùn thì họ ăn lãi.

– Đã đành rằng thế, nhưng mình cũng cần phải làm cho họ biết rằng họ có thể có lãi. Mình cũng cần phải tỏ ra rằng mình có thể làm được. Chứ ông tính bây giờ bỏ ra một lúc vạn bạc nhiều lắm. Phải làm sao cho họ tin cái bụng và cái tài của ông.

– Để đến nơi rồi tôi sẽ tùy cơ ứng-biến chứ bây giờ đã nói trước thế nào được.

– Ấy là tôi dặn ông thế. Anh em mình mà trúng cho mấy phát thì mới gỡ lại được cơ-đồ, chứ nhà băng bây giờ họ làm khổ quá, họ chỉ dọa tích-ký

– Tôi thì mời họ tịch-ký, họ chẳng tịch-ký cho.

Xe hơi đến Sài-gòn qua mấy phố rồi đến đỗ trước mặt tòa nhà có rào sắt làm theo lối kiến-trúc nửa Tây nửa Tầu tại đường Gustave Dumoutier.

Mới nghe tiếng còi xe hơi thì cánh cổng sắt có đục chữ Thọ từ từ mở, như đã có người đợi trước...

Hai người đến cửa thì đã có chủ-nhân, một người Khách cũng da xanh bủng cấu ra thuốc phiện, ra đón.

Vào đến phòng khách, thiếu-niên đã trông thấy một người Tây trạc năm-mươi ngồi ở đấy. Thấy khách vào, người Tây đứng dậy. Thiếu- niên bắt tay rồi chào bằng tiếng Tây thì người Tây giả nhời bằng tiếng Khách:

– Ông cứ nói tiếng Quảng-đông tôi hiểu cả.

Trà đãi khách vừa cạn mấy chén thì người Khách đi với thiếu-niên chỉ thiếu-niên mà bảo hai người kia:

– Ông này sẽ nói chuyện cho hai ông biết.

Rồi nhìn xung-quanh nhà. Chủ-nhân biết ý:

– Vậy mời các ngài lên buồng hút của tôi.

Một cái buồng tối om-om như trăm nghìn cái buồng hút thuốc phiện khác của những người Khách khác. Gian buồng chỉ lờ-mờ ánh-sáng ngọn đèn dầu lạc. Chủ-nhân đi trước bật đèn điện.

– Mời các ngài ngồi chơi xuống giường này.

Thiếu niên vì giường thấp chưa biết nên ngồi hay không thì người Khách đi với thiếu-niên vội bảo:

– Ông Simon và ông Vĩnh không muốn cởi giầy thì ngồi đôn kia.

Hai người mặc quần áo Tây kéo hai cái đôn lại gần giường. Còn hai người Khách thì nằm xuống hai bên bàn đèn.

Chủ-nhân tiêm luôn ba điếu cho người Khách đi với thiếu-niên rồi cười bảo:

– Tôi đã biết tính ông Phóc-Tai, không có ba điếu là chịu không làm gì được.

Ông Phóc-Tai hút xong ngồi dậy, lấy cái điếu hút thuốc bào bỏ thuốc vào kéo một hơi rồi bảo Vĩnh:

– Ông nói rõ cho hai ông ấy biết. Tôi thì tôi bằng lòng hùn phần một vạn rồi đấy. Tiền tôi đã đem sẵn về đây.

Nói xong, móc túi vật ra giường một tập giấy “xăng”.

Ông Simon sẽ gãi cằm bảo Vĩnh:

– Ông Lâm-Sâm và ông Phóc-Tai đã có nói chuyện qua với tôi, nhưng công việc thế nào ông cho tôi biết rõ thêm một chút.

– Từ Sài-gòn về Phnompenh, từ Phnompenh về Battambang thì không nói làm gì. Bởi ta ở địa-phận nhà, chẳng có gì là nguy-hiểm, mà cũng chẳng có ai khám xét. Từ Battambang lên Lovéa là chỗ tôi ở thì cũng thế. Nhưng từ Lovéa sang Xiêm thì phải đi qua rừng sâu bốn, năm-mươi cây số rất là nguy-hiểm, nguy-hiểm vì sợ cướp đón đường. Nhưng nó có một cái lợi là tránh được nhà đoan Tây và nhà đoan Xiêm ở ải địa đầu Aranya. Con đường từ Lovéa sang Xiêm, tôi xin bảo-đảm là vô-sự. Bởi bao nhiêu tay trùm cướp, trộm, tôi đã lót trước rồi. Mà dù họ có không nghe, manh-tâm tham-lam ra đón đường định cướp thì tôi cũng đủ phương-kế để chống-cự, để….thắng.

Thiếu-niên sẽ liếc mắt nhìn ba người một lượt để dò ý-kiến họ đối với nhời nói của mình thế nào, rồi lại chỉ tay vào cái chấm đen nói tiếp.

– Từ cái cửa hàng nhỏ Chiêng-Ca-Soài là chỗ hẹn những người chân tay đợi ở đấy. Họ sẽ đưa tôi và hàng đến Pachim. Con đường này thì ít cướp, nhưng lại sợ nhà đoan Xiêm hơn. Tôi cam đoan là đi lọt. Đến Pachim thì bạn hàng chúng ta đợi ở đấy. Bán được tiền bao nhiêu tôi sẽ đi Bangkok, đến nhà Đông-pháp ngân-hàng mua ngân-phiếu lấy tên một nhà buôn bán to ở đấy gửi về cho ông Phóc-Tai. Ông Phóc-Tai chỉ việc chờ ở Nam-vang hễ có giấy gọi là ra nhà băng lĩnh.

Thiếu-niếu nói xong, cuốn bức địa-đồ:

– Đường đất tôi đã nói rõ cho các ông biết. Các ông nghĩ thế nào?

Simon sẽ vuốt râu gật gật cái đầu như có ý hoài-nghi:

– Nhỡ cướp biết đón đường mà ông không địch nổi thì làm thế nào?

Thiếu-niên nắm tay khoa lên đập xuống giường:

– Tôi đã bảo vô-sự thì là vô-sự.

Simon lại nói:

– Thế còn nhà đoan? Nhỡ một hôm, ông trở về nói với chúng tôi rằng nhà đoan lấy mất cả?..

Vĩnh hiểu ý Simon muốn nói gì, chàng bèn nhìn thẳng vào mắt Simon mà nói:

– Ở địa-phận Cao-mên, nhỡ nhà đoan có bắt được thì các ông biết tin, tôi không thể dối các ông được. Nhưng ở địa-phận Xiêm, nhỡ nhà đoan có bắt được thì các ông không thấy tôi về. Một lẽ, pháp-luật Xiêm phạt tù người buôn thuốc phiện lậu như giặc cướp. Tôi mà để cho bị bắt thì tôi tù chết ở bên ấy. Mà cho dù chỉ bắt được hàng, không bắt được tôi, tôi cũng không mặt mũi nào sống vì tôi không thể sống được với cái lòng các ông ngờ vực tôi và… sự thất-bại. Các ông còn thấy tôi về là mọi việc trôi-chảy. Hễ không trôi là không thấy tôi về.

Lâm-Sâm thấy Vĩnh nói thế liền bảo:

– Ông Phóc-Tai là một người bạn tôi tin nhất, mà ông Phóc-Tai lại tin ông, thế là đủ. Bây giờ ông nói rõ cho chúng tôi cách-thức buôn bán và đài-tải thế nào, và lãi lỗ ra làm sao?

– Hẵng nói cách đài-tải. Phải làm sao có tay trong mua khắp lục tỉnh, Cao-mên thuốc phiện ty cho thật nhiều.

Phóc-Tai vội nói:

– Ta có thể mua thuốc ngang lãi hơn.

– Con đường từ Bắc, vào Sài-gòn, tôi không thuộc đất. Mà mua thuốc phiện ngang ở Sài-gòn thì chả có mấy, không bõ. Lại còn sự nguy-hiểm đài-tải thuốc ngang từ Sài-gòn đến Battanibang. Cứ thuốc ty cũng lãi rồi. Mua thuốc ty và sái nhất đủ số tiền của mình rồi đem tập trung cả ở Battambang. Công việc mua ấy về phần các ông. Từ Battambang sang Xiêm về phần tôi. Hoặc tải ngựa, hoặc tải voi, tiện đằng nào tôi sẽ làm đằng ấy. Nhưng tôi cho voi tiện hơn. Vì mình đi tháng mưa thì có thể hy-vọng ít bị nhà đoan bắt được. Lúc ấy rừng ngập, ngựa đi rất là vất-vả. Một lạng thuốc phiện ở đấy lấy ở ty thì mười một đồng mà một lạng sái nhất mua ở ngoài độ sáu đồng. Đánh lên hai-mươi phần trăm tiền phí-tổn, đem sang Xiêm bán được một lạng thuốc trung-bình hai mươi đồng và một lạng sái mười bốn đồng. Cứ trong ba chục đồng bạc ta bỏ ra lãi chừng mười lăm đến mười tám. Ba vạn đồng các ông bỏ ra lãi một vạn tám. Cứ ba tháng, ta có thể làm hai chuyến. Và nếu có thể, một tháng một chuyến, biết đâu.

Vĩnh nói đến đấy, Simon bèn ngửng đầu lên hỏi một cách lững lờ:

– Thế là chúng tôi phải bỏ ra mỗi người một vạn. Còn ông, ông có bỏ gì không?

Vĩnh liền đứng dậy, nhìn Simon và mọi người một cách kiêu-hãnh như một anh khổng-lồ nhìn mấy thằng bé tí-hon; hay hơn nữa như một tướng-quân đã từng trăm trận đánh, nhìn mấy thằng nhát gan:

– Tôi bỏ ra cái mạng tôi mà tôi chỉ xin các ông có một phần lãi, tưởng không quá lạm.

Rồi lấy ngón tay giữa chỉ vào ngực:

– Tôi đem lại cho các ông một cái ý-kiến, một phương-pháp kiếm tiền, bốn nghìn đồng bạc lãi tưởng không là đắt! Tôi lấy danh-dự để bảo-đảm ba vạn đồng bạc, tưởng ba vạn đồng không là nhiều.

Không biết trong cái giọng nói ấy có một vẻ quả-cảm khảng-khái đến thế nào, không biết trong cái nhìn ấy nó phát-lộ ra một ánh sáng cương-trực anh-hùng thế nào mà làm khích-động được lòng người. Simon liền đứng dậy nắm hai tay Vĩnh mà bảo:

– Tôi xin lỗi ông. Tôi đã từng bao phen chìm nổi, tôi hiểu một nhời nói khẳng-khái trong cái phút nghiêm-trọng. Tôi xin lỗi ông vì tôi đã ngờ ông. Tôi mong từ đây ông sẽ coi tôi như một người bạn, vì tôi rất lấy làm vinh-hạnh có một người bạn như ông.

Câu chuyện từ đấy bắt đầu vào thời-kỳ thân-mật.

Vĩnh. – Tôi đã sang Xiêm điều-tra kỹ-càng. Các ông không ngại. Thế nào cũng trôi-chảy cả. May ra trong dăm bảy tháng, anh em mình lại khôi-phục được cơ-đồ biết đâu.

Simon.– Tôi chẳng nói giấu gì ông. Tôi bị nạn kinh-tế làm cho khánh-kiệt. Vạn bạc này là viên đạn cuối cùng của tôi đấy. Mất thì tôi chỉ còn một cách: dí khẩu súng lục vào thái-dương.

Lâm-Sâm. – Tôi cũng thế. Nếu trong một năm nữa, không chạy được hai vạn giả nợ góp, thì họ cắm mất hết nhà cửa. Lúc ấy thì ra ở đường.

Phóc-Tai. – Tôi mà mất vạn bạc này thì chỉ còn một cách trốn về Tầu. Hoa hột vòng, xuyến của vợ con, bán hết lấy tiền đưa ông đấy

Vĩnh. – Các ông cứ yên tâm. Giời chẳng thế nào nỡ giết những kẻ có lòng như chúng mình, Tôi sẽ cố, hết sức cố. À, quên còn một việc tôi chưa nói với các ông. Tôi định thế này: Một khi sang Pachim bán hết hàng, lấy được tiền thì tôi xin cứ trích ra cái phần lãi của tôi, chỉ gửi về vốn và phần lãi của các ông thôi. Tôi còn muốn mua các hàng-hóa lậu đem về.

Ba người đồng thanh. – Được, chúng tôi bằng lòng vì đó là phần ông.

Vĩnh về Lovéa được nửa tháng thì một hôm nhận được một cái giây thép:

Mọi việc xếp xong rồi, mời ông ra Battambang ngay.

Phóc-Tai

Đó là cái hiệu báo ngầm cho Vĩnh biết thuốc phiện đã mua đủ đem đến Battambang.

Vĩnh liền gọi vợ đến dặn:

– Trong những công việc làm ăn, ai thì cũng muốn tính-toán cho hết nước để thắng, nhưng những sự bất ngờ thì không ai có thể dò trước được.

Vân đã ôm lấy chồng khóc òa:

– Thế thì làm thế nào?

– Im, đừng khóc, em phải xử ra một người vợ xứng-đáng với anh. Em phải nên có can-đảm. Nói dại, ví-dụ anh có chết đi thì ba đứa con chỉ trông-cậy vào có mình em.

Vân càng khóc to.

– Nếu thế thì anh không nói nữa.

Vĩnh làm bộ giận, quay đi. Vân chạy theo nắm lại.

– Em có bình-tĩnh nghe thì anh mới nói.

Vân gật đầu.

– Hôm nay anh bước chân ra đi, thì em cứ coi như là anh đã chết rồi vậy. Ba đứa con chỉ còn trông-cậy vào có một mình em. Em phải thay anh mà nuôi chúng nó. Em nên thương chúng nó đều nhau.

– Thì xưa nay em có quý đứa nào hơn đứa nào đâu mà anh nói thế.

– Anh nói thế, bởi vì xưa kia anh bị cha mẹ ghét nên lúc thiếu-thời phải đeo một cái đời hiu-quạnh buồn-khổ. Vẫn hay rằng bây giờ, chúng nó còn bé thì chưa biết đứa nào hơn đứa nào. Nhưng một ngày kia nó nhớn lên, biết đâu chẳng có đứa hư, đứa ngoan, đứa đẹp đứa xấu. Em có cam-đoan với anh như thế không nào?

– Em xin cam-đoan.

– Nói dại, anh có chết đi thì khi chúng nó nhớn lên phải đem chúng nó về Bắc học mới thành người được. Đất Bắc và thứ nhất Hà-nội là tinh-tú, nhiều thầy hay, bạn giỏi. Gia-dĩ lại có một hoàn-cảnh tốt lợi cho sự tiến-thủ của thiếu-niên. Chứ ở đây thì không làm gì nên thân. Phải về Bắc rèn-luyện nhiên-hậu muốn đi đâu mới đi được. Em đã nghe ra chưa?

– Em xin vâng, nhưng sao anh cứ nói gở thế.

– Thế không phải là nói gở. Thế nghĩa là phòng-ngừa tương-lai.

– Nhưng về Bắc thì em biết ở đâu?

– Cái đó là việc của em. Cũng như nếu anh có chết, làm gì để kiếm kế mưu-sinh nuôi chúng nó thì tùy em. Hoặc về nhà, song khó lòng mà về ở nhà với thầy me được. Nhưng thế nào cũng phải về Bắc, thời-gian sẽ đem lại cơ-hội cho em. Nhưng đó là việc còn lâu; chờ bao giờ chúng nó lớn thêm vài tuổi đã. Em phải can-đảm, em phải kiên-nhẫn, em phải nhẫn-nại, nghĩa là em phải bắt chước những cái tính của anh trong khi làm việc.

– Em bắt chước anh thế nào được?

– Một khi có ba đứa con cần phải che-chở, cần phải đùm-bọc thì khắc bắt chước được. Nói dại anh có chết, đừng buồn-rầu. Buồn rầu mà chết thì ba đứa con…

Vân lại ôm chồng khóc òa lên:

– Anh đã lo xa thế thì anh đừng đi nữa có được không?

– Anh lo xa mà anh phải đi, cũng như bây giờ vì anh lo xa mà anh phải nói. Bây giờ thì không đi không được nữa rồi, anh đã lấy danh-dự thề với người ta rồi. Hàng đã xếp xong rồi. Nhưng nói phòng xa đấy thôi, em đừng ngại. Mấy thằng cướp, mấy viên-chức nhà đoan, có là cái quái gì mà anh sợ. Một khi mà cánh tay này chưa run, trái tim này chưa chùng, cái đầu này còn sáng-suốt thì chúng ta còn có quyền tin ở hậu-vận. Thì đây em trông mặt anh mà xem. Có phải là cái mặt đờ-đẫn xám-xịt của tên quân bại trận bước đến chỗ chết đâu. Anh sắp bước đến chỗ đắc-thắng.

– Thế bao giờ anh đi?

– Anh đánh xe hơi đi bây giờ.

Vân phát run lên:

– Chóng thế à?

– Chiều đi hay mai đi thì cũng là có một lần phải đi.

– Thế hẵng hôn các con đi đã.

Hai vợ chồng dắt nhau vào buồng.

Lúc ấy buổi trưa. Thằng Hà thằng Vũ ôm nhau nằm ngủ khểnh trên giường. Mặt hai đứa hồng-hào thơ-ngây trông mới dễ thương làm sao.

Vĩnh cúi đầu hôn hai con rồi quay bảo vợ:

– Ấy cũng vì muốn cho chúng nó bao giờ cũng có cái đệm trắng nằm, miếng cơm dẻo ăn, ông thầy hay để học, nên anh phải mạo-hiểm ra đi. Chứ anh cũng biết là thế này lòng mình khổ lắm. Nhưng khổ thì cũng phải chịu chứ biết làm sao. Cái đời chúng ta không nên kể đến nữa, chỉ nên kể đến cái đời chúng nó. Sự hạnh-phúc của chúng ta không nên nói đến nữa, chỉ nên nghĩ đến sự hạnh-phúc của chúng nó. Em hiểu chưa?

– Em hiểu rồi. À còn hôn em bé nữa chứ.

Con vú em bế thằng nhỏ lại. Vĩnh bồng nó thì nó cứ choài sang theo mẹ.

– Thì con cho thầy bế một tí-xíu để thầy đi cho may-mắn.

Rồi tưởng chừng như thằng bé đã lớn biết nghe, nàng hôn trán nó mà bảo:

– Thầy vì các con mà phải lăn mình vào nơi nguy-hiểm, con không biết sao?

Nói đến chỗ thương-tâm, Vân lại ứa nước mắt. Vĩnh dắt vợ ra hiên.

– Anh phòng xa thế chứ có quái gì mà phải lo.

Khi bước lên ô-tô, Vĩnh còn dặn với:

– Một kẻ nào đã mang cái mạng mình ra làm vốn thì thế nào cũng phải thắng, em đừng ngại.

Mà thắng thật, Vĩnh đi hơn một tháng thì về, Vân mừng như người chết được sống lại.

– Đấy anh đã bảo em, trong đời, anh không biết sợ thất-bại là gì mà. Nếu cứ trôi-chảy như thế này, dăm chuyến là gỡ hết nợ.

Thất-bại! Phải chờ đến lúc đậy nắp ván mới có thể biết được rằng mình có thất-bại hay không.

Thất-bại! Nó là việc người, nhưng cũng chính là việc giời.

Có gan không chịu thua giời thì thất-bại vẫn không là thất-bại. Đời người sống, chỉ có thể tự- hào là không bao giờ chịu để cái số-mệnh đè bẹp mà thôi. Sự thành-bại ở đời đối với con người quả-cảm chẳng có nghĩa gì. Có nghĩa là sự luôn luôn gắng công của mình mà thôi, có nghĩa là ở chỗ bị đời đạp ngã bao nhiêu phen mà vẫn dùng nghị-lực để cố ngóc dậy. Có nghĩa là ở chỗ không bao giờ chịu nhận mình là thất-bại.

Vĩnh đi một chuyến nữa lại về.

– Thì đây, anh đã bảo một khi đã đem cái mạng mình ra làm vốn, thì phải đắc-thắng. Anh nói có sai đâu.

Đắc-thắng! Đắc-thắng! Nó thuộc về ngày mai.

Ngày hôm nay loài người chỉ có thể biết được rằng mình thấy mình thôi.

Từ Cao-mên sang Xiêm có một con đường tắt đi qua rừng Prey Rénéam rất gần.

Tục truyền rằng xưa kia nước Xiêm muốn đánh úp nước Cao-mên mới bí-mật sai quân đẵn cây phá rừng làm con đường ấy, rồi thừa lúc bất thình-lình, trong nước Cao-mên không có phòng bị, kéo quân ra đánh. Người Cao-mên trở tay không kịp, bị thua, mới cắt những châu quận phía bắc nhường cho nước Xiêm.

Con đường độc-đạo ấy, ngày nay là đường của trộm cướp. Một khi cướp đã chạy vào con đường ấy thì quan-quân nào cũng không dám đuổi vì sợ chúng nấp bắn.

Không kể gì những sự nguy-hiểm như hùm, beo, rắn, rết, voi, trâu, bò rừng, còn một sự nguy hiểm nữa trong mùa nắng là vấn-đề nước. Nhỡ nửa đường hết nước là chết khát.

Con đường này rộng độ một thước hay hai thước. Hai bên dừa, ruối, mây, nứa bao phủ như một bức trường thành kiên cố. Nhỡ có gặp hổ báo đi giữa đường thì chỉ còn một cách chạy trở lại hay làm cho hổ báo sợ-hãi chay trở đi.

Mặt đường về mùa nắng thì phẳng-phiu như rải nhựa mà về mùa mưa thì lầy-lội. Vắt, hằng-hà sa số là vắt. Thấy động chân người là vắt ở các lá cây ném mình xuống. Vắt ở đây cắn rất độc, không có thuốc rịt ngay là sâu quảng. Ruồi rừng, muỗi rừng thấy người đi kéo ra vây như ong vỡ tổ. Lại còn những con bò-kẹp nằm giữa đường như những vỏ cây mục. Ai vô ý giẫm lên nó chích phải thì chỉ còn ngồi ôm chân mà khóc. Thứ bò-kẹp này người Cao-mên gọi là “cà-sa tầm ray”, nghĩa là cái vòi nhọn của nó có thể chích thấu da voi.

Con đường này thật như một con đường hầm đục trong rừng cây. Trời mưa hay trời râm thì tối om-om. Suốt dọc đường, cách độ sáu bảy cây sồi, lại có những chuồng trâu bò đóng gióng sẵn.

Một khách lạ vào đấy thấy những chuồng ấy tất phải bâng-khuâng tự hỏi sao lại có kẻ nuôi trâu bò ở đây.

Không, đó là những cái chuồng của cướp trộm đóng sẵn để khi cướp trâu bò được, về nghỉ chân ở đấy.

Từ Pailin, Backpééa, xuống Lovéa khắp vùng Battambang đường các ngả đều thông về cửa rừng Prey Rénéam. Trộm cướp, cướp ở đâu được đều về Xiêm bằng con đường ấy. Nhưng là trộm cướp cừ-khôi và có đông người, chứ những tay non thì vía cũng không dám đi qua con đường ấy.

Ban đêm, rừng xông ra chướng-khí mịt-mùng, kẻ nào không quen, ngủ đấy một đêm là y như về mắc bệnh sốt rét.

Những cây lim cổ-thụ cao vút trời rủ lá xuống khiến cho có vũng nước nào, nhựa lá ngấm ra, không ai còn dám uống.

Con đường này là chỗ gặp-gỡ của trộm cướp bốn giống: Xiêm, Lào, Cao-mèn và Cô-là.

Anh-hùng và quyết-liệt nhất là bọn Cô-là, vì giống họ là giống gồng ngải giỏi nhất

Phục hai tay súng thiện-xạ ở đấy thì một đội binh không thể đi qua.

Một khi quan-quân đuổi cướp mà chúng đã chạy vào cửa rừng thì chỉ còn đứng ngó, vì không ai dại gì mà liều mạng vô ích với chúng.

Đường quanh-co, chúng nấp ở những chỗ quẹo chữ chi, bắn mười phát chết cả mười.

Một người tay không vào đây là một người dại đến hiến mình cho thần chết.

Một người có súng dám mạo-hiểm vào đây là một người can-đảm.

Một người có đầy tiền trong túi hay chở hàng-hóa qua đây là một người không nghĩ đến cái chết, coi tánh mạng nhẹ như cái lông.

Một buổi chiều tà về tháng sáu, năm 1932, trời mưa như trút. Một đoàn người ủng-hộ ba con voi lưng đầy chứa hàng-hóa từ phía Xiêm về, cứ lẳng-lặng đi trong rừng Prey Rénéam.

Nếu ta tò-mò trèo lên lưng voi lật cái tấm vải sơn ra nhìn thì ta thấy toàn là lụa nhiễu và vải vóc. Ta phải lấy làm lạ sao bọn người kia chở những hàng-hóa đắt tiền như thế từ Bangkok về lại không theo con đường xe hỏa đến Aranya rồi chất ô-tô đem về xứ Cao-mên. Có phải vừa tiện, vừa mau chóng!

Hẵng nhìn quyển sổ và cái cầu của nhà Đoan ở Poipét là ải địa-đầu xứ Cao-mên giáp giới với Aranya. Hẵng đem so-sánh cái giá hàng ở Xiêm và ở Cao-mên.

Cứ tưởng-tượng một thước lụa ở Xiêm mua một hào hay hào rưỡi mà về Cao-mên bán 7-8 hào thì đủ rõ duyên-cớ tại làm sao, bọn người kia lại phải mạo-hiểm tải hàng-hóa đi như thế.

Đến Thuac Corbay, thì một người dáng chừng là trùm bọn ấy bỗng thét:

– Gần tối mà mưa lắm, các em hẵng nghĩ ở đây thổi cơm ăn đã.

Mấy người quản tượng người Cuội (đối với người Cao-mên, họ cũng như người Mán, người Mọi đối với người Bắc) trần trùng-trục, đen lùi-lũi đang ngất-nghểu ở trên đầu voi giơ tay vỗ xuống, ba con voi đứng lại.

Người trùm ấy bận quần kaki ăng-lê, áo da, ghệt da quấn kín chân, tay đeo găng da mầu nâu (dáng chừng để cho vắt muỗi khỏi cắn) lưng đeo súng trận, lại hai khẩu súng Mauser kiểu Pistolet automatique giắt ở dây lưng đựng đạn.

Voi dừng, người ấy tiến lại vuốt-ve rồi lấy tay vỗ-về:

– Cố đi các con, sắp về đến nhà rồi.

Người ấy rút ở túi một cái còi thổi lên mấy tiếng. Tám chín người Cao-mên lực-lưỡng mặc quần đùi, chạm đầy mình, tay cầm súng, lưng giắt dao chạy đến.

– Mưa lắm, mà voi đã mệt. Thầy-trò ta nghỉ đây một đêm, sớm mai lại đi. Bốn người cầm súng đứng canh hai đầu, hai người cầm-súng dẫn quản-tượng đi ngắt lá cho voi ăn, còn ba người thổi com.

Người trùm chỉ nói có thế, nhưng tiếng nói dõng-dạc, sang-sảng như tiếng gươm chạm nhau. Mọi người tản đi.

Người trùm ấy thuộc vào hạng người không có tuổi. Mặt đen sạm, má hóp, trán đã có đường nhăn, hai bên môi có hai cái hằn sâu.

Thấy cái mặt già như thế, ta đồ chừng người ấy gần bốn-mươi, Nhưng nhìn đến con mắt sáng ngời, đi đứng lẹ-làng, lại cái mỉm cười lúc nào cũng tươi, ta cho người ấy chưa đến ba-mươi. Đó là hạng người trẻ “già” mà giả “trẻ”.

Các gia-nhân đi rồi, người ấy móc túi lấy thuốc lá hút. Rồi lấy một cái ghế vải nhỏ đeo ở lưng voi đem xuống ngồi dưới gốc cây cho đỡ mưa.

Quần áo ướt đẫm, người ấy cũng chẳng buồn cởi ra để giũ nước. Hút vài hơi thuốc lá, người ấy tháo găng rồi thò tay vào ngực móc ví lấy ra một cái ảnh ngắm-nghía. Vừa ngắm-nghía vừa hôn.

Lúc ấy vẻ mặt biến đổi hẳn. Trước kia cương-quyết khắc-khổ bao nhiêu, bây giờ mơ-màng đắm-đuối bấy nhiêu.

Ai đã trông thấy người ấy năm phút trước, bây giờ phải cho là một người khác. Không có thể ngờ rằng cái vẻ mặt gân-guốc già cằn ấy đã có thể nhờ được một sức mạnh huyền-bí ở trong lòng mà chuyển thành ra dịu-dàng trẻ trung đến thế.

Ấy thế rồi tính tò-mò muốn cho người ta biết tông-tích người thiếu-niên ấy là ai. Mà cái ảnh kia là cái ảnh gì lại có phép nhiệm-mầu hoán-cải vẻ mặt người thiếu-niên một cách mau chóng như thế.

Vĩnh ngắm-nghía bức ảnh vợ, con một lát rồi đứng dậy đi bách-bộ nhìn địa-thế để liệu đóng trại nghỉ tối hôm nay.

Cơm nước xong thì tạnh mưa và vừa tối. Vĩnh gọi các gia-nhân lại dặn:

– Chỗ này là chỗ hiểm-nghèo. Ta có thể chạm trán với bọn cướp từ Xiêm kéo sang Cao-mên ăn cướp. Vậy mỗi đầu đường cách chỗ hàng-hóa 100 thước hai người súng ống sẵn-sàng đứng gác. Thấy động thì liền thổi còi tù-và hỏi. Nếu không thấy trả lời đúng khẩu hiệu thì là cánh cướp không quen, cứ việc bắn, vừa bắn vừa lùi về nấp ở xung-quanh hàng-hóa để bảo-vệ cho hàng-hóa. Động đụng không có lệnh của tôi thì người nào đứng đâu cứ đứng chết đấy, không nhỡ đi loạng-choạng, bắn phải nhau.

Rồi Vĩnh dẫn cả bọn đi dặn chỗ lúc động canh thì phải đứng đâu, lúc động thì phải lui về đâu. Mà nếu có kẻ cướp định manh-tâm đến cướp hàng-hóa thì họp nhau ở đâu.

– Phải cắt phiên nhau một tốp gác từ giờ cho đến nửa đêm, một tốp gác từ nửa đêm cho đến sáng. Còn một người luôn ở cạnh tôi, gác cho tôi ngủ. Ba quản-tượng thì trông voi và ngồi giữ hàng-hóa, nếu có mưa phải lấy thêm vải sơn đậy lên tử-tế.

Vĩnh nói, cả bọn nghe, không hỏi đi hỏi lại một lời hình như họ đã thông-thạo. Dặn xong, mỗi người đi mỗi ngả.

Người Cao-mên mà Vĩnh dặn ở canh Vĩnh lúc ấy trèo lên lưng voi lấy xuống một cái giường sắt nhỏ, căng giường và màn lên tử-tế. Vĩnh cầm cái đèn lồng treo lên đầu giường rồi cứ để nguyên quần áo chui vào. Nhưng mới nằm được độ nửa giờ Vĩnh lại chui ra, cuốn cái chăn cho nó thành hình người nằm để đó. Vĩnh vẫy người đứng canh gác cho mình ngủ lại ngồi chung một chỗ với bọn quản-tượng. Vĩnh phải đề-phòng như thế là để ngộ có ai đến bắn lén thì chỉ bắn cái giường không. Suốt đêm hôm ấy, Vĩnh không ngủ, hết đi lại đầu này xem những người canh gác có ngủ không, lại đi đến đầu kia.

Rừng sâu.

Đêm lạnh-lẽo. Với tiếng cú rúc, với tiếng trùng than.

Về khoảng mười giờ đêm. Vĩnh đang ngồi giơ chân ra gần đống lửa đốt cạnh mấy người quản-tượng để hơ giầy thì bỗng nghe thấy hiệu tù-và rồi tiếp bốn năm phát súng nổ liền ở đầu đường về Xiêm. Vĩnh vớ lấy súng, cả bọn nhổm dậy rồi cùng nép mình bò lại chỗ có tiếng súng nổ.

Hai người gác lùi về thấy Vĩnh liền khẽ bảo:

– Chúng con thấy một bọn có đèn “pin” đi đông lắm. Chúng con thổi hiệu tù-và, họ trả lời sai, chúng con bắn. Họ cũng bắn, hình như có người chết. Hình như bây giờ họ chạy cả.

– Có lẽ là một bọn không quen mình muốn sang cướp bên Cao-mên.

– Thưa thầy họ đông lắm, có lẽ tụi nó định đến cướp hàng-hóa của thầy trò mình.

– Cứ lặng yên, lắp đạn chờ. Đèn bấm đâu. Đừng có bấm nhé. Nghe tiếng động là cứ việc bắn cả ra.

Cả bọn tay lăm-lăm cầm súng cúi chờ…

Mười lăm phút, nửa giờ, rồi một giờ, chẳng thấy động tĩnh gì.

– Không phải bọn đến ăn cướp của bọn mình đâu mà. Bọn mình thì còn ai dám đến cướp. Mà có cướp thì họ phải đến đánh chứ lẽ nào chưa đánh đã lui. Thôi có lẽ một bọn không quen cánh mình định sang cướp Cao-mên nên không trả lời đúng hiệu tù-và của mình.

– Hay ta lại xem thầy ạ!

– Chờ một lúc nữa.

Nửa giờ sau, Vĩnh liền bảo:

– Nào có anh nào can-đảm dám cầm đèn bấm đi trước soi đường không?

– Con.

– Con.

– Con.

Bốn năm người đều thưa một lượt.

– Thôi, thầy biết các anh gan ruột cả. Anh nào cầm đi trước cũng được.

Đi được hai trăm thước thì thấy vết máu.

– Có đứa bị đạn, thầy ạ.

– Tội nghiệp!

– Tội nghiệp gì chúng nó hả thầy. Nó định đến cướp của mình cơ mà.

– Thôi các anh cứ đi nữa đi, xem có phải nó định đến cướp của mình không?

Đi được bốn trăm thước nữa thì thấy một người máu me đầm-đìa nằm phục ở giữa đường.

Người cầm đèn soi vào mặt rồi hò lên.

– Thằng này chưa chết, quái, sao trông quen quen. Anh em ai lại nhận mặt nó xem nào.

Vĩnh du mọi người tiến lên. Vừa cúi xuống định vén tóc nhìn mặt thì kẻ bị thương bỗng chống tay ngồi dậy rồi nhanh như cắt, sẵn dao cầm ở tay đâm Vĩnh một nhát trúng bụng.

– A Duon (thằng An-nam), bọn tao thù oán gì mày mà mày sai người nhà chặn đường bắn gẫy chân tao.

Vĩnh rú lên một tiếng, ngã vật xuống.,..

Liền lúc ấy, người đâm bị xả ra từng mảnh.

Cả bọn chém xong quay lại:

– Nó đâm trúng thầy ở đâu?

Không thấy Vĩnh trả lời, cả bọn khóc òa lên.

Soi đèn bấm thì con dao đâm còn thấy cắm ở bụng. Một người bạo tay rứt ra, máu vọt.

– Khổ chưa, nó đâm trúng mạng mỡ, không khéo thầy chúng ta chết mất, các anh em.

Người ấy vừa nói vừa khóc nức-nở.

– Thuốc dấu đâu rịt vào cho thầy, máu ra nhiều quá. Lòi cả ruột ra đây này.

Kẻ rịt, người gọi. Ai cũng khóc như cha chết.

Không có cảnh-tượng nào bi-tráng bằng cái cảnh-tượng của bọn người lực-lưỡng, khí giới đầy mình ấy đang khóc xung-quanh kẻ bị thương trong chốn rừng sâu, trong lúc đêm khuya này. Không có giọt nước mắt nào thành-thực xót thương bằng những giọt nước mắt của bọn người đầu trộm đuôi cướp, khóc con người nằm đấy.Trên lương-tâm họ mỗi người ít nhất cũng có mấy cái án-mạng, bàn tay họ đã bao phen đẫm máu, họ đã bao phen tàn-nhẫn, ấy thế mà trên những cái mặt quỷ-sứ ấy đều đầm-đìa những nước mắt. Họ khóc ngất đi như khóc một người tình-nhân trẻ-trung yêu-đương.

Một lát sau, Vĩnh mở mắt.

– Sao các em lại khóc thế? Sao các em hèn thế? Các em phải tỏ ra là những người bạn mạo-hiểm xứng-đáng với anh.

Rồi Vĩnh ôm bụng:

– Không khéo anh chết mất các em ơi.

Cả bọn rút dao, nghiến răng:

– Băm nó ra.

Vĩnh khoa tay:

– Tha cho nó, nó lầm mà chúng ta cũng lầm.

Vĩnh lại ngất đi.

Cả bọn khiêng Vĩnh đặt lên giường, xé vải buộc rồi đi tìm nước hòa thuốc, cậy răng đổ vào.

Chừng năm phút, Vĩnh cựa mình rồi rên hừ-hừ. Cả bọn mắt đầy lệ há-hốc mồm nhìn...

Vĩnh rên, rồi lại mở mắt:

– Các em, anh chết…anh chắc chết…làm thế nào khiêng anh về đến nhà… Làm thế nào, bảo toàn… những hàng-hóa ấy… cho vợ con anh… chỉ còn có thế thôi…

Cả bọn giơ dao hét:

– Chúng con xin cố. Chúng con xin thề.

Vĩnh nói được bấy nhiêu câu lại ngất đi. Cả bọn lại khóc.

Một người trong bọn liền ra hiệu cho im rồi bảo:

– Thầy mắng chúng ta hèn là phải. Bây giờ khóc ích gì. Phải làm ngay những lời thầy dặn. Hai anh nào khỏe-mạnh đi nhanh nhất khiêng thầy về Lovéa để thầy được gặp mặt vợ con trước khi chết. Còn chúng ta phải bảo-vệ hàng-hóa đến Lovéa giao cho cô.

Trưa hôm sau, hai người khiêng Vĩnh về đến nhà. Vân được tin run bắn người lên ngã khuỵu xuống. Hai người dìu Vân đến bên giường Vĩnh thì Vĩnh bỗng mở mắt.

Một người khiêng Vĩnh bỗng reo lên:

– Thầy còn sống cô ạ. Đi đường thầy chẳng mở mắt lần nào, chúng con lo không kịp.

Mở mắt thấy vợ và các con lăn-lộn bên giường Vĩnh, Vĩnh giơ tay vẫy vợ lại gần:

– Em đừng khóc nữa… Em nên can-đảm…em nên xử ra một người vợ xứng-đáng với một người suốt đời phấn đấu như anh.

Rồi sẽ hất đầu ra hiệu chỉ các con:

– Em nên nghĩ đến chúng nó.

Vĩnh nói xong liếm môi. Vân vội chạy rót cốc nước mang lại, toan cho Vĩnh uống thì một người Cao-mên khiêng Vĩnh lúc nãy vội cản:

– Cô cho thầy uống thì thầy chết không kịp giối-giăng. Chờ giối-giăng xong đã.

Vĩnh sẽ liếc nhìn hai người Cao-mên ra hiệu bảo lại gần.

Hai người liền đến quỳ bên giường.

– Cám ơn các em đã đem anh về nhà. Gửi lời cám ơn chúng nó nữa nhé. Bao giờ chúng nó đem hàng về tới nơi?

– Sắp tới.

– Thôi các em đi đi, không người ta biết, người ta đến bắt các em.

– Thì chúng con đi tù.

Vĩnh trừng mắt. Hai người vừa khóc, vừa lạy, vừa lùi ra.

Vân dắt các con lại gần.

Vĩnh cựa-cậy tay toan nắm lấy tay chúng nó, nhưng vì kiệt máu, đuối sức không giơ lên nổi. Vân hiểu ý, bế ba con lên cho Vĩnh hôn. Thằng nhớn vừa xoa má bố, vừa hôn, vừa khóc. Điện chẳng hiểu gì vừa hôn, vừa cười.

– Thôi cho chúng nó ra. Em lại gần đây…

Vĩnh lại ôm bụng, lịm đi. Mồ-hôi toát ra đầm mặt. Vân vừa khóc, vừa lấy khăn lau mồ-hòi cho chồng. Vĩnh lịm đi đến một phút lại mở mắt.

– E…m.

Lúc này tiếng Vĩnh nói đã phào-phào. Vân phải ghé tai lại gần mới nghe rõ:

– Ai ngờ anh lại chết bỏ em nửa đường…. với ba đứa con thơ… Thôi, cố nuôi dạy chúng nó...sao cho xứng-đáng là vợ anh… là mẹ chúng nó… Có về Bắc, nói với thầy mẹ thương cháu mà tha tội cho anh.. Không ở Lovéa được nữa đâu… Ba má có lên thì lạy ba má thay anh.. Cố đem con về Hà-nội học-hành… Phải can-đảm.. Anh chết không ân-hận… chỉ thương em và con. Thôi có thế thôi. Anh khát nước… cho anh uống.

Vân cầm cốc nước, đỡ đầu Vĩnh, cho Vĩnh uống. Uống được mấy ngụm, bỗng người Vĩnh run bắn lên, nấc mấy tiếng rồi trợn trắng mắt. Tay còn nắm xuống đệm như tìm tay ai. Mà nước mắt thì giàn giụa chảy xuống hai gò má

Trong đời người này, có hai lần khóc: khi yêu và khi chết.