Đoạn thứ ba - XI -
Trên một chiếc giường nhỏ, màn đệm trắng tinh, một đứa bé chừng bảy, tám tuổi ngồi khom-khom cho một y-sĩ trẻ tuổi nghe mạch. Một thiếu-phụ đẹp một vẻ đẹp nghiêm-trang, một vẻ đẹp có đượm một vẻ buồn man-mác, đứng đăm-đăm nhìn như khắc-khoải chờ một lời nói của y-sĩ. Y-sĩ nghe lưng rồi nghe ngực, rồi đứng dậy. Thiếu-phụ vội-vàng đến đỡ con nằm xuống, lấy chăn đắp lên người. Đứa bé sẽ tung chăn ra, hai tay ôm ghì lấy cổ thiếu-phụ áp sát vào ngực, vừa vuốt tóc vừa bảo:
– Con không đau nhiều đâu, mẹ đừng sợ.
Cái cảnh đứa bé con đau an-ủi mẹ, không biết có cái gì thần tiên nó làm cho y-sĩ phải xúc-động.
Lần này, đến lượt y-sĩ đứng đăm-đăm nhìn.
– Nhưng mẹ thấy con nóng nhiều quá. Thế con ngủ đi nhé. Mẹ bảo các em nó đừng vào quấy để con ngủ nhé.
Thằng bé sẽ gật đầu, rồi buông tay nằm xuống.
Thiếu-phụ đứng dậy lại gần y-sĩ, sẽ ngước mắt nhìn y-sĩ mà không nói. Nhưng trong cái nhìn có bao-hàm một câu hỏi và chờ một câu giả nhời.
Y-sĩ hiểu ý se-sẽ nói:
– Có lẽ cậu em mắc chứng sốt rét thương hàn nhưng bà cứ yên tâm, tôi sẽ chữa khỏi. Bây giờ tôi hẵng tiêm cho cậu ấy một phát thuốc tiêm.
Sốt rét thương-hàn. Bốn chữ ấy có cái ma-lực làm cho thiếu phu tái mặt, mặc dầu y-sĩ đã hứa rằng có thể chữa khỏi. Thiếu-phụ cất cái giọng run run khẩn-thiết bảo y-sĩ.
– Thôi trăm sự nhờ quan, rồi tiền nong bao nhiêu, tôi xin chu tất.
Y-sĩ vừa mở cái hộp da lấy tiêm, lấy thuốc vừa bảo:
– Ấy chết, sao bà cứ gọi tôi thế… vào trong đồng đất nước người, người xứ-sở gặp nhau là quý, chứ cần gì tiền nong. Bà cứ yên tâm, tôi xin hết sức.
Y-sĩ lấy thuốc vào ống tiêm xong, lại gần giường. Thiếu-phụ theo lại.
– Tiêm vào mạch máu thì hơi lâu, bà đỡ cậu em ngồi dậy rồi bảo cậu ấy ngoảnh mặt đi, không cậu ấy sợ.
Thằng bé nghe y-sĩ nói thế liền vùng dậy giơ tay:
– Tôi không sợ đâu.
Rồi thằng bé cứ nhìn trừng-trừng. Y-sĩ còn ngờ câu nói của thằng bé nên dùng-dằng.
– Được, quan cứ tiêm, cháu gan lắm.
Y-sĩ lấy giây cao-su buộc cánh tay, lấy “cồn” xoa rồi lần mạch máu. Mạch máu nhỏ khó lần thành thử phải đâm đến hai ba lần mới có máu chạy vào ống tiêm. Thằng bé cũng không nhăn mặt, khi y-sĩ rút ống tiêm ra, thằng bé liền bảo mẹ:
– Có thế thôi thì việc gì mà sợ nhỉ, mẹ nhỉ. Có phải ngày xưa thầy vẫn bảo ai sợ là người hèn không?
Trước khi nằm xuống, thằng bé còn nói với:
– Em tiêm thì em khỏi, em đi học mẹ nhỉ!
Thiếu-phụ đặt bàn tay lên trán con. Y-sĩ trông thằng bé một cách yêu-mến rồi bảo thiếu-phụ:
– Tôi chưa thấy cậu bé con nào can-đảm như cậu em nhà.
– Thưa quan, cháu giống thầy cháu thuở xưa và vì cháu thương tôi.
Thủa xưa? cái kỷ-niệm thuở xưa như làm cho thiếu-phụ buồn-thảm. Một vẻ thê lương não-nùng hiện lên đôi mắt bồ-câu mơ-màng.
– Ấy chết, sao bà cứ gọi tôi thế. Phải, tôi vào đây có nghe anh em nói chuyện đến ông nhà.
– Mời quan xuống dưới nhà xơi nước.
Y-sĩ như có vẻ không bằng lòng với cái không bằng lòng của một người cầu xin người ta đừng xử khách tình với mình.
– Bà cứ gọi tôi bằng ông có được không? Xứ Battamhang có ai mà quan với cách. Bà xử thế thì còn gì là thân tình của người xứ-sở.
Thiếu-phụ không giả nhời. Con Sen mang ấm nước sôi lên. Thiếu phụ pha chè, rồi mời y-sĩ uống. Uống chén nước, y-sĩ bảo thiếu-phụ:
– Bệnh thương-hàn cần phải kiêng cơm và đồ ăn rắn, không tiêu, có thể hại đến ruột. Bà chỉ nên cho cậu em uống sữa và nước cam. Thế nào cậu em cũng sốt đến 39, 40 độ. Nhưng bà đừng lo. Bệnh này không thể chữa khỏi ngay được. Trong 21 ngày, nếu chịu kiêng khem thì thế nào cũng không việc gì. Chốc nữa tôi cho người đem thuốc lại, cứ ba giờ đổ cho uống một thìa. Rồi mỗi ngày tôi sẽ thăm cháu hai lượt.
Thiếu-phụ tưởng y-sĩ dặn thế là hết, toan đứng dậy để tiễn, y-sĩ lại nói:
– Đã là chỗ người xứ-sở thì bà đừng ngại. Đêm hôm có việc gì, bà cứ cho gọi tôi, tôi đến ngay, bà đừng sợ tần-phiền.
Thiếu-phụ đứng dậy hẳn. Y-sĩ cũng đứng dậy. Nhưng ra đến cửa hàng, y-sĩ còn nán lại nhìn hàng-hóa một lượt.
– Cửa hàng bà bầy trông gọn mắt quá. Mà hàng-hóa cũng nhiều quá. Thật đủ các đồ Bắc. Bà dọn cái cửa hàng này từ hồi ông còn sống hay…
– Cậu cháu mất rồi, tôi mới bán đồn-điền và nhà cửa ở Lovéa về mua lại cái cửa hàng của người chị em gần một năm nay.
– Buôn bán độ này có khá không thưa bà?
– Bẩm, cũng khá.
Y-sĩ nhận thấy thiếu-phụ không gọi mình bằng quan nữa, nhưng cũng lựa lời nói để không gọi mình bằng ông.
Ra gần đến cửa, y-sĩ còn như tiếc rẻ chưa được nghe một tiếng “ ông ” của thiếu-phụ gọi mình, lại quay lại:
– À quên, nhân tiện, tôi mua bà đôi dép Nhật-bản để về đi.
Thiếu-phụ lại tủ lấy ra mấy đôi cho y-sĩ chọn. Y-sĩ chọn xong, thiếu-phụ bảo người nhà cầm ra để vào ô-tô. Y-sĩ móc ví toan trả tiền thì thiếu-phụ gạt đi:
– Thôi, đôi dép có là bao.
– Không, bà buôn bán được bao nhiêu, lại đông cháu.
– Nếu thế thì xin để khi nào trả tiền thuốc, tôi xin trừ đi.
Y-sĩ nói một cách sốt-sắng:
– Thuốc men có là bao, tôi không lấy tiền công của cháu đâu.
Thiếu-phụ liền nghiêm sắc mặt, giả nhời một cách cung-kính, nhưng quả-quyết:
– Nếu quan không bằng lòng lấy tiền thuốc và tiền công thì chúng tôi không dám phiền đến quan nữa.
Giọng nói ấy, vẻ mặt ấy không biết bốc ra một thứ gì thiêng-liêng làm cho người ta phải kính-phục. Y-sĩ chẳng những không còn dám trách thiếu-phụ về sự gọi mình bằng quan mà lại còn lo thiếu-phụ giận, bèn vội-vàng nói một cách đàn-giải:
– Vâng, thế hẵng đến khi nào tôi chữa khỏi đã.
Y-sĩ không dám trả tiền nữa, ngả mũ chào thiếu-phụ một cách cung-kính rồi đi ra.
Một giờ sau, y-sĩ thân đem thuốc đến, rồi muốn giảng nghĩa lại làm sao mình phải đem thuốc đến mà không sai người nhà, y-sĩ bảo thiếu-phụ:
– Lúc nãy tôi quên chưa dặn bà phải cho cậu ấy uống bao nhiêu, nên tôi lại phải lại. Bà có “cùi-dìa” để tôi đong một lần cho em uống, bà trông thấy rõ cho bận sau khỏi lầm.
Thiếu-phụ lại đưa y-sĩ lên gác. Y-sĩ đong đổ vào chén rồi đem lại bên giường. Lúc ấy thằng bé đương thiêm-thiếp ngủ. Thiếu-phụ sẽ lại bên giường vừa xoa má, vừa sẽ gọi:
– Hà, Hà, dậy uống thuốc con!
Thằng bé mở mắt. Thiếu-phụ nâng-niu lùa tay đỡ lưng con. Vừa nâng, vừa âu-yếm dỗ-dành:
– Con trai mẹ chịu khó dậy uống thuốc cho chóng khỏi nghe không?
Y-sĩ nghe đến hai chữ “chịu khó” lại tưởng thằng bé tuy không sợ đau, nhưng sợ thuốc đắng, liền sẽ bảo:
– Thuốc ngọt lắm không đắng đâu mà cậu sợ.
Thằng bé ực một hớp hết rồi khẽ đặt tay lên lòng mẹ:
– Con có sợ thuốc đắng đâu, mẹ nhỉ!
– Con mẹ chẳng sợ cái gì cả! Con mẹ chỉ sợ mẹ lo, mẹ buồn thôi.
Thiếu-phụ nói hình như trúng chỗ yếu của lòng thằng bé, nó liền ôm ghì lấy thiếu-phụ ngả đầu vào ngực.
Trong cái tình mẫu-tử ấy không biết có cái gì êm-ấm làm cho y-sĩ nao-nao lòng, muốn ứa nước mắt:
– Bà có một cậu con ngoan và can-đảm nhất.
Rồi như biết muốn được lòng thiếu-phụ, trước phải xử làm sao cho được lòng thằng bé, y-sĩ liền giơ tay:
– Thôi, cậu bắt tay tôi một cái nào!
Y-sĩ bắt tay thằng bé xong, quay đi. Thiếu-phụ đỡ con nằm rồi đứng dậy.
– Thôi bà cứ ở trên này với cậu ấy không cậu ấy nhớ.
Thiếu-phụ chẳng giả nhời, cứ tiễn xuống. Đến buồng khách, thiếu-phụ mời uống nước, y-sĩ cũng từ-chối. Mà khi ra đến cửa hàng cũng cứ đi thẳng, chứ không kề-cà như lần trước. Ra đến ô-tô, mới quay đầu lại, thấy thiếu-phụ tiễn mình ra đến cửa, vội cung-kính ngả mũ, cúi đầu chào mà lên xe.
Ngồi trên xe, y-sĩ mới quay đầu nhìn kỹ vào nhà thì không thấy bóng thiếu-phụ đâu nữa.
Một tiếng thở dài. Máy kêu … xe chạy…
☆
Trong bẩy hôm, ngày nào y-sĩ cũng đến ba lần: sáng, 7 giờ; trưa: 11 giờ; chiều: 6 giờ.
Lần nào cũng như lần nào, xem bệnh cho thằng bé, dặn dò cách thức thuốc thang, nói vài câu âu-yếm thằng bé rồi đi ngay.
Thiếu-phụ mời uống nước cũng không uống mà cũng không dám hỏi thiếu-phụ một lời nào về chuyện nhà cửa.
Trong đời, có những người đàn bà có một vẻ đẹp trang nghiêm đoan-chính, thuần-hậu, khiến cho kẻ ngổ- ngáo đến đâu đến trước mặt cũng phải rụt rè cung-kính.
Lại có những người đàn bà có một vẻ buồn não-nùng gây ra bởi một tuyệt-vọng khốc-liệt, khiến ta trông thấy phải mủi lòng. Người ấy không hỏi ta, ta cũng muốn đem ngay đời ta hi sinh để mong ước, đem lại một chút vui cho đời người ấy. Định-mệnh ác nghiệt đã hình như dùng con dao nung đỏ khắc một dấu đau thương nghìn đời lên trên mặt khiến cho ta trông thấy mà tưởng chừng như sự đau thương kia thấm đến lòng ta. Một linh-khiếu bảo cho ta biết rằng đời người ấy không thể nào vui được nữa, mà ta vẫn mong ước cho người ấy vui, lại mong ước hơn lên. Nhìn cái nhìn người ấy nhìn, nhìn cái cười người ấy cười, nghe tiếng nói người ấy nói, ta như cảm thấy hiện lên một vết thương lòng ghê gớm mà ta biết chắc rằng thời gian – thời gian đã có bàn tay mầu nhiệm hàn rịt bao nhiêu vết thương lòng – cũng không thể hàn rịt được cái vết thương lòng ghê gớm của người ấy nữa. Ta biết chắc thế, nên lòng lại càng bồn chồn, lại càng ao ước hi-sinh, lại càng muốn chiến đấu với những cái không thể chiến đấu được.
Có những vẻ đẹp đoan-chính, nghiêm-trang thuần-hậu ấy ai trông thấy cũng muốn rước về nhà để yêu đương thờ phụng.
Có cả vẻ đẹp và vẻ buồn ấy – thì dù ngay một thằng tướng giặc tay gươm tay giáo ăn thịt người không tanh – đến trước mặt, thằng giặc ấy cũng phải quẳng gươm quẳng giáo vội vàng quỳ ngay xuống.
Thiếu-phụ chủ cái nhà này là người vừa có cái vẻ đẹp vừa có vẻ buồn kia. Y-sĩ đã không phải là thằng tướng giặc nên phải bồn-chồn vì yêu đương, bồi-hồi vì kính trọng.
Thiếu-phụ cứ gọi y-sĩ bằng quan, y-sĩ cũng không dám cầu xin gọi bằng ông. Thiếu-phụ lưu y-sĩ lại uống nước, y-sĩ cũng không dám nhận lời vì y-sĩ sợ ngồi lại chẳng nhẽ không nói chuyện mà nói chuyện thì y-sĩ lại sợ không nén được lòng buột mồm hỏi những câu chuyện về gia-sự mà y-sĩ biết rằng thiếu-phụ không muốn cho người ta hỏi đến, nhưng vì phép lịch-sự, thiếu-phụ phải giả nhời.
Trong bẩy ngày, lần nào thiếu-phụ tiễn y-sĩ ra đến tận cửa cũng được nghe một câu:
– Bệnh tình khá, bà cứ yên tâm.
Nhưng đến hôm thứ bẩy, về khoảng hai giờ sáng, thiếu-phụ vừa cho thằng bé uống thuốc xong thì thằng bé kêu đau bụng. Xoa thế nào cũng không đỡ. Mà cặp hàn-thử-biểu thì thấy sốt gần tới bốn mươi độ. Thiếu-phụ hỏi thằng bé, thằng bé không giả nhời, chỉ vừa rên, vừa lắc đầu rồi thiếp đi.
Thiếu-phụ sợ hãi gọi người nhà thất-thanh, hai đứa đầy tớ gái, một bà u-già ngủ ở buồng ngoài, và đứa đầy tớ gái ngủ ở dưới nhà vội chạy lên. Cả ba chỉ đứng nhìn nhau, không biết tính làm sao. Bỗng thiếu-phụ khóc thét lên. Chừng như tiếng khóc ấy làm cho náo động, hai đứa con ngủ ở buồng ngoài thúc dậy. Nghe thấy mẹ khóc ở buồng trong, thằng anh lên năm dắt thằng em lên ba chạy ra. Thiếu-phụ trông thấy hai con bỗng ôm chầm lấy vừa khóc vừa mếu:
– Không khéo anh Hà chết mất. Vũ, Điện ơi.
Thằng Vũ thằng Điện cũng khóc. Ba mẹ con ôm nhau khóc. Hai đứa đầy tớ mủi lòng cũng khóc. Cả hai đều khóc. Giường bệnh bỗng phát ra những tiếng nấc làm cho thiếu-phụ thắt ruột. Thiếu-phụ bỏ hai đứa con bé chạy lại lay gọi. Thắng Hà cứ vừa rên, vừa nấc mà chẳng mở mắt.
Thiếu-phụ bỗng quay lại hỏi hai đứa đầy tớ:
– U-già, con sen, có ai biết nhà quan Đốc không.
Cả hai đều đồng thanh:
– Thưa mợ, ban ngày bảo xe kéo đến thì con tìm được nhà, chứ đêm thì chúng con không biết đường. Mà chúng con cũng chẳng biết tiếng Cao-mên để phòng gặp ai hỏi thăm.
Chẳng nghĩ-ngợi, thiếu-phụ khoác áo dài rồi bảo u-già:
– U ở nhà trông các anh, tôi về ngay. Con sen đi với mợ.
Thằng Vũ, thằng Điện thấy mẹ đi, líu đến nắm áo, khóc inh ỏi đòi theo đi. Thiếu-phụ dỗ:
– Để mẹ đi mời ông Đốc đến xem bệnh cho anh tí mẹ về.
Hai đứa con nhất định không nghe. Thiếu-phụ cau mày:
– Thằng Vũ mày hư nhé. Em nó dại đã đành, mày nhớn rồi mà cũng thế nhé.
Rồi nói to một cách nghiêm-khắc:
– Vào giường ngủ ngay, mẹ đánh bây giờ.
Chừng như đã có nhiều lần, thiếu-phụ phải dùng sự trừng phạt ấy, nên hai đứa trẻ biết mẹ không nói dối, vừa khóc vừa lủi-thủi dắt nhau vào buồng. Thiếu phụ thấy con thế thương-hại chạy theo ôm lấy hai đứa vuốt-ve rồi ôn-tồn bảo:
– Các con ngoan không mẹ giận.
Thằng Vũ liền ôm cổ mẹ.
– Em nín rồi, em không theo mẹ nữa rồi, mẹ đừng giận em nữa nhé!
Rồi thằng Vũ buông mẹ, ôm cổ em mà dắt vào buồng vừa đi vừa dỗ:
– Thôi em cũng nín đi, không mẹ giận!
Thiếu-phụ cùng con sen tất-tả xuống thang..
Hai giờ đêm phố tỉnh-thành xứ Cao-mên tuy người ta hay ăn chơi về đêm, nhưng giờ ấy khuya, phố xá cũng vắng ngắt. Tỉnh Battambang thiêm-thiếp ngủ dưới ánh-sáng của những chùm đèn điện, im-lìm.
Lâu lâu, từng hồi, những đàn chó ở những dẫy nhà lá bên sông rú lên. Cái dư-âm làm cho sự im-lặng ấy có một vẻ rùng-rợn. Thiếu-phụ và con sen chạy theo đường Norodom qua chợ thẳng xuống phía nhà thương.
Đoạn đường này vắng-vẻ lại xa thành-phố nên đèn điện cũng thưa. Hai bên đường toàn cây nên tối lắm.
Qua cửa chùa Wat-tơ-phich, thì gặp hai người Cao-mên lực-lưỡng thất-tha thất-thểu như say rượu từ phía trước mặt đi lại. Họ vừa đi, vừa hát những câu dâm-đãng tình-tứ.
Con sen thấy thế sợ-hãi nắm tay chủ. Thiếu- phụ liền mắng:
– Sợ gì cứ đi.
Khi thầy trò đi gần hai người thì họ giơ tay toan nắm lấy mà nói:
– Néáng sà át nà, dúp tâu na, mọ anh prap. (Các cô đẹp quá, đêm đi đâu đấy lại đây tôi hỏi)
Thiếu-phụ né mình tránh rồi giả nhời bằng tiếng Cao-mên:
– Chúng tôi đi đâu, quyền gì các anh hỏi!
Thầy trò lại rảo cẳng. Hai người Cao-mên đứng lại bàn-tán một lúc, rồi theo. Trước họ còn đi chầm-chầm, sau họ chạy. Con sen thấy thế rú lên. Thiếu-phụ liền tát nó một cái:
– Đồ nhát như cáy. Câm cái mồm.
– Nhưng chúng nó gần đến kia kìa!
– Chúng nó gần đến thì làm cái gì!
Vừa lúc ấy, hai người đuổi theo còn cách độ ba thước. Thiếu-phụ liền đứng dừng lại hai tay chống vào sườn rồi dõng dạc hỏi:
– Chúng tôi có người nhà ốm, đi gọi đốc-tờ, các anh đuổi theo có phải định ăn cướp thì bảo.
Câu nói ấy, và thứ nhất cái giọng dõng-dạc có cái sức mạnh như cái gậy ngáng chân hai người lại. Hai người đứng dừng rồi ấp-úng:
– Chúng tôi… theo để xem hai cô… có cần việc gì thì chúng tôi …giúp.
Lại vẫn cái giọng dõng-dạc oai-nghiêm ấy:
– Chúng tôi không cần đến các anh.
Rồi thiếu-phụ dắt tay con sen quay lưng đi. Hai người, không dám theo nữa.
Y-sĩ ở một tòa nhà cạnh nhà thương. Khi được tin đầy-tớ lên báo có bà Vĩnh đến mời lại thăm cho con thì cứ quần áo ngủ hấp-tấp chạy xuống.
– Cậu em làm sao, thưa bà?
– Cháu ngất đi.
– Thế bà chờ tôi một chút tôi lấy thuốc rồi tôi đi ngay với bà.
Năm phút sau, ô-tô đỗ trước cửa nhà Vân.
Y-sĩ và Vân lên đến buồng Hà nằm thì đã thấy thằng Vũ, thằng Điện chạy lại ôm chầm lấy mẹ.
– Các con không ngủ à, để yên mẹ xem anh nó thế nào.
Y-sĩ bắt mạch Hà. Ba mẹ con đứng trố mắt nhìn.
– Không việc gì đâu bà ạ, mạch vẫn đều, có lẽ cậu ấy sốt quá, và mê đi đấy.
– Nhưng lúc nãy cháu nó kêu đau bụng dữ quá.
– Thế à…? Nhưng bây giờ không ai bán nước đá thì làm thế nào…? À thôi, để tôi đi vào nhà thương lấy túi cao-su và nước đá. Trong nhà thương bao giờ cũng có trữ sẵn.
Thiếu-phụ vội gạt:
– Thôi quan chẳng phải đi, quan viết giấy để tôi cho người đi lấy. Thế phiền quan quá!
Y-sĩ cũng không dám cưỡng, vừa toan viết giấy thì con sen vội nói:
– Con sợ lắm…
Y-sĩ ngừng tay, ngửng đầu nhìn… cái ngửng đầu và cái nhìn ấy họp thành một cái dấu hỏi.
– Lúc nãy con đi với mợ con, có hai người Cao-mên đuổi theo, con sợ quá.
– Thì tôi đã bảo để tôi đi, vừa chóng.
Rồi y-sĩ hấp-tấp xuống thang.
Vân nghe y-sĩ nói Hà không việc gì mới an lòng, bèn giục thằng Điện, thằng Vũ đi ngủ. Thằng Vũ không muốn đi ngủ, mà không đi ngủ lại sợ mẹ giận, liền nắm tay Vân hôn rồi cầu-khẩn:
– Mẹ cho em ở đây với anh Hà em một tí nữa, mẹ đừng giận em.
Giọng khẩn-cầu dễ thương quá. Vân liền xoa đầu bảo:
– Thế khi nào ông Đốc-tờ lại khám xong thì các con phải đi ngủ nhé. Thế các con sợ mẹ giận lắm à?
Hai đứa chỉ sà vào lòng mẹ mà không giả nhời.
Vân ngồi dưới cuối giường ôm thằng Điện. Còn thằng Vũ thì đứng nắm tay thằng Hà như có vẻ thương-xót lắm. Vân thấy thế liền hỏi:
– Con thương anh con lắm à?
Thằng Vũ chẩu mỏ:
– Có.
Rồi nó nắm bàn tay anh nó để lên miệng hôn. Thằng Điện ngồi lòng mẹ được một lúc bỗng lùa tay vào áo, sờ vú.
Vân vừa hôn đầu, vừa khẽ bấu tay lôi ra:
– Nhớn rồi còn sờ vú người ta cười.
Thằng bé rút tay ra rồi nép vào ngực.
– Thế con có thương anh con như anh Vũ không?
Thằng bé quay đầu ra không giả nhời câu hỏi của mẹ, chỉ tay vào giường mà khe-khẽ nói:
– Anh Hà ốm đấy.
Mười-lăm phút sau, y-sĩ lại lấy nước đá bỏ vào túi cao-su, chườm bụng cho thằng Hà. Rồi dùng khăn mặt khô, sát khắp người cho nó. Được một lúc, thằng Hà mở mắt gọi mẹ.
– Mẹ đây, mẹ vẫn ngồi cạnh con đây. Con thiếp đi mẹ lo quá. Con có nhìn thấy em Vũ, em Điện nó đứng cạnh con không?
Thằng Hà sẽ ngóc đầu nhìn hai em, giơ tay ra hiệu rồi lại nhắm mắt.
Lúc ấy y-sĩ mới biết rằng mình chỉ mặc quần áo ngủ, vội xin lỗi:
– Lúc nãy vì bà gọi gấp nên bối-rối quá, tôi quên mặc quần áo xin bà tha lỗi cho.
Giọng nói chân-thành làm cho thiếu-phụ cảm- kích:
– Có gì gọi là lỗi. Chính chúng tôi phải cảm ơn ngài vì tấm lòng bối-rối của ngài đối với chúng tôi.
– Tôi nghe con sen nó nói mà tôi lo cho bà quá. Khuya thế này, không còn xe, mà đàn-bà đi một mình ở xứ Cao-mên này thì sợ thật. Thế chúng nó không đuổi kịp bà chứ?
– Chúng đuổi kịp, nhưng tôi quay lại hỏi thì chúng lảng đi ngay.
– Thôi để tôi thuê cho bà một người khán-hộ đến ngủ đây trông cậu giúp bà, rồi nhỡ đêm khuya có làm sao, người ta đi gọi tôi cho tiện. Nhà không có một người đàn-ông, đêm khuya nhỡ động dụng, khó lắm.
– Cảm ơn quan, tôi không dám phiền.
– Có gì là phiền. Tôi trông bà cũng xanh lắm cần phải tĩnh-dưỡng, vất-vả quá nhỡ ốm thì các cậu ấy…
Y-sĩ vừa nói vừa chỉ ba con.
Câu nói ấy, cái chỉ tay ấy như làm cho Vân nhìn thấy một cái vực thẳm. Nàng bỗng tái mặt đi, rồi nhắm mắt lại…
Y-sĩ thấy thế đem lòng ái-ngại sẽ lôi thằng Vũ lên gần lòng vừa xoa đầu vừa nói:
– Trong nhà, không có một người đàn-ông thì… khó lắm. Con không cha…
Y-sĩ vừa nói đến đấy thì Vân đứng dậy. Câu nói ái-ngại ấy như quật vào tấm lòng tự-ái của nàng, như mai-mỉa cái danh-dự của gia-đình nàng. Nàng không cần ai phải ái-ngại gia-đình nàng, nàng không cần ai phải ái-ngại con nàng. Nàng nhìn y-sĩ một vẻ kiêu-hãnh, rồi nói một giọng cương-quyết:
– Bây giờ, tôi là cha chúng nó.
Hạnh-phúc? Người mẹ chỉ có một hạnh-phúc! Cái hạnh-phúc của đứa con.
Từ khi Hà ốm thì Vân cũng hình như ốm theo nó. Thằng Hà sốt, Vân thấy sốt, thằng Hà mê, Vân thấy mê, thằng Hà đau bụng, Vân cũng hình như thấy mình đau bụng, mà thằng Hà có tỉnh- táo thì Vân cũng thấy mình tỉnh-táo.
Đời sống của nàng lúc ấy như ăn nhịp theo sự lên xuống của cái hàn-thử-biểu, buộc liền vào với những cơn sốt, cơn rét, cơn mê, cơn sảng của con.
Bệnh thằng Hà một ngày một tăng. Mặc dầu y-sĩ đã bảo bệnh thương-hàn cũng như lên đậu tăng giảm có kỳ-hạn. Vân lúc nào cũng cứ như “chín” cả người.
Y-sĩ mỗi ngày đến bốn lần, thêm một lần lúc mười một giờ khuya.
Từ khi Vân giả nhời một cách nghiêm-nghị khi y-sĩ tỏ lòng thương mấy đứa con không cha thì y-sĩ không bao giờ còn dám nói gì đả động đến chuyện nhà của Vân nữa. Nhưng sự chữa bệnh vẫn sốt-sắng như thế. Mà ta nghiệm ra rằng từ đấy y-sĩ ít nói, nghĩ mãi mới nói, mà chỉ nói những câu đủ dùng về việc thuốc thang thôi.
Chưa được mười hai hôm, Vân đưa y-sĩ một trăm đồng bạc. Y-sĩ muốn từ-chối nhưng không dám từ-chối, mà cầm thì cũng không muốn cầm, ngập ngừng mãi mới bảo Vân (giọng nói hổn-hển như có vẻ vừa lo ngại, vừa bực tức):
– Bà cho tôi nhiều quá!
– Xin quan cứ cầm lấy, cháu nó còn chưa khỏi, chúng tôi còn quấy-quả quan nhiều.
Y-sĩ đi lại thăm bệnh đã được mười lăm hôm không đến chậm một lần nào. Bỗng một hôm vào buổi chiều đến chậm hơn một giờ. Đáng nhẽ đến sáu giờ thì mãi hơn bẩy giờ mới đến.
Vừa đến cửa đã xin lỗi:
– Tôi vì dở tí việc cần, xin bà tha lỗi cho tôi.
Nửa giờ sau khi y-sĩ về rồi. Vân đang ngồi trên gác thay nước đá vào túi cao-su cho con thì bỗng nghe thấy có tiếng người ầm-ầm ở cửa. Rồi lại nghe rõ có tiếng người gọi lên mình ra chửi rủa.
Vân vội vàng chạy xuống thì đã thấy một bọn người xúm đông-đặc ở trước cửa hàng nhà mình. Mà giữa đám đông người ấy, một người đàn bà Sài-gòn trạc ngoài đôi mươi đang xỉa-xói vào nhà Vân. Tay xỉa-xói mà miệng thì chửi:
– Mày quyến-rủ chồng bà… mày bùa thuốc chồng bà… để mày bòn rút… để cho nó hất-hủi bà, để cho nó ngơ-ngẩn… để cho nó đi cả đêm với mày…
Rồi người ấy lại dọa:
– Mày ra đây, bà xé xác mày ra, con trâu xanh ngựa đỏ kia. Mày trêu ai chứ trêu con Năm này không xong….
Vân chẳng hiểu đầu đuôi ra làm sao, vừa giận vừa tủi. Nàng cũng chẳng biết người đàn bà ấy là ai. Vân còn do-dự chưa biết xử trí ra làm sao thì người ấy lại nhiếc, lại chửi:
– Mày bùa thuốc thằng đốc-tờ Tùng để nó ngơ ngẩn bỏ cả ăn cả uống, mày xui-xiểm nó để nó hành-hạ bà…
Vân hiểu ngay. Nàng giận sôi lên. Nàng vừa toan bước ra cửa thì có hai người Bắc làm thợ ở gần đấy chạy ra can:
– Bà ra làm gì, nó là đồ chó dại cắn càn, chấp chi. Để rồi bảo ông ấy.
– Thế người này là vợ ông ấy đấy à?
– Trước kia, ông ấy mới đến thì không có vợ. Không biết người này ở đâu mới lại ở chung với ông ấy được dăm tháng nay.
– Thế các bác ở đây giúp tôi, tôi phải làm cho ra nhẽ, chứ không mang tiếng.
– Thôi bà. Tiếng với tăm….
Vân thấy họ hình như nghi-ngờ mình, bèn gạt họ ra mà bảo:
– Nếu mình tôi không thì tôi không cần, nhưng còn các cháu. Tôi không thể để cho ai làm nhục gia-đình tôi được.
Trong giọng nói, có một vẻ quả-quyết, trong cái nhìn, hiện lên một vẻ ngay thẳng. Toàn thân nàng lúc ấy là một nghị-lực. Mấy người thợ Bắc không dám can nữa.
Trong đời những người hiền, có những lúc hăng – hay cục – trong đời những người yếu có những lúc mạnh. Lại càng hăng, lại càng mạnh khi nào bị người khác làm nhục một cách vô-lý, bất-công.
Khi nào sự nhục-nhã gây ra bởi sự bất-công ấy lại có thể có ảnh-hưởng xấu đến cả những người thân yêu của họ, thì họ chống cự một cách bội phần quyết-liệt.
Cái ý nghĩ: “Từ nay, chồng ta đã không còn để bênh-vực, để che-chở, thì đứa khốn-nạn nào cũng có thể dám đến ăn hiếp ta, làm nhục các con ta” làm cho nàng có một sức mạnh phi-thường. Trong cơ-thể, nàng bỗng thấy như lưu-thông một thứ máu dũng-cảm, ngang-tàng của người đã khuất. Nàng tưởng chừng như người quá cố đã đem trái tim kiêu-dũng, đem cánh tay không run không sợ, đem cái khi-khái xung-thiên của kẻ làm người không chịu khuất, không chịu nhục đến cho nàng.
Vân xông ra hăng-hái như một con hổ cái bị người đi săn tìm cách giết con. Mắt nàng chiếu ra những tia sáng dữ-đội khiến ai trông thấy cũng phải sợ hãi. Sự ngay thẳng, sự trong sạch, cái tình mẫu-tử bị thương-tổn, sự uất-ức của con người vô tội bị ngờ oan, chói lòe trên trán, trên mắt, trên môi, trên má, trên mặt, trên khắp cơ thể, ngần ấy thứ hiện ra một cách rõ-rệt ở trong cái dáng đi mạnh bạo khiến cho đám người tò-mò đứng xem phải đem lòng kính trọng mà không còn dám ngờ rằng một người đi đứng đàng-hoàng như thế, có cái khổ mặt kiêu-hãnh thế, lại là một con người trăng-gió, quyến-rủ chồng người.
Nàng bước ra cửa, bình-tĩnh, bình tĩnh như hòn núi đá bình-tĩnh trong phong-ba bão táp, tự tin ở sức mình…
Cái thím Năm đang chửi rủa ầm-ĩ thoạt thấy nàng ra, thoạt nhìn thấy điệu-bộ “ bà chúa” của nàng, thoát-nhiên giật mình, lùi lại một bước rồi im.
Nàng tiến lại một cánh ngang nhiên, tin ở như lòng ngay thẳng của mình, tin ở như sự thiêng-liêng bất khả xâm phạm của ngay thẳng và lẽ phải, tin ở như cái danh dự trong sạch của mình.
Thím Năm lùi rồi đứng. Rồi hình như tự nhủ: “Ta đến đây để gây chuyện với nó, nay thấy nó ra lại lùi thì người ta cười ta ”. Thím Năm tự nhủ mình thế nên vội xông lại toan túm áo Vân. Vân gạt tay thím Năm một cách khinh-bỉ, khinh-bỉ đến nỗi thím Năm tưởng chừng bị nàng nhổ vào mặt.
Rồi nàng giơ tay, cái giơ tay oai-nghiêm của một bà hoàng-hậu, chỉ vào mặt thím Năm mà nói, cái giọng nói run-run, cảm-động vì uất-ức, vì bị người ta khinh một cách vô-lý:
– Mày là vợ một ông đốc-tờ mà mày cư-xử ra một con người hàm-hồ, hèn-hạ. Ông Tùng xem ra người có giáo-dục, sao mày lại vô-giáo- dục đến như thế. Mày lấy tang-chứng gì… mà mày dám đến cửa nhà tao làm rộn như thế?
Rồi hình như không cầm được lòng giận, nàng tiến lên nửa bước, nghiến răng nói:
– Tang chứng mày đâu? tang chứng mày đâu?
Ý hẳn con mắt nàng lúc ấy có chứa một sự gì trong sạch quá, phát-lộ ra một cái uy-nghi quá, hay vì lòng công-phẫn chính-đáng làm cho dữ-dội quá nên thím Năm bỗng sợ hãi – cái sợ hãi tự-nhiên của con người quấy đứng trước con người phải – liền lùi lại hai bước.
Vân không tiến theo, chỉ nhìn những người đứng xem một cách buồn rầu mà bảo thím Năm:
– Tao có quyền đem mày ra cẩm, ra cò, nhưng thôi tao tha cho mày để mày về mà ăn-năn sám-hối tội-lỗi của mày.
Nàng nói xong, khoan thai bước vào.
Không biết trong cái dáng đi ấy có cái gì cảm-khích lòng người, những người đi xem bỗng vỗ tay…. Rồi ê rầm lên:
– Đi về, đi về nhà, ê bêu, ghen láo! ghen láo.
Thím Năm ấp-úng được mấy câu, vội lủi mất.
Vân vào trong nhà bỗng ngồi phịch xuống ghế ôm mặt khóc nức-nở. Nàng hồi tưởng khi người chồng cương dũng của nàng còn sống thì bất cứ ở đâu, nàng cũng chỉ nhìn thấy những con mắt kính-trọng nàng. Ngày nay, chẳng may một định-mệnh khốc-liệt đã đánh gẫy cây cột cái chống nhà ấy, đã làm rơi cái cánh tay quả-cảm thường ngày che chở cho nàng, nên nàng mới bị người ta làm nhục một cách vô lý thế này! Rồi ngẩng đầu lên nhìn cái ảnh phóng-đại của Vĩnh, nàng rền-rĩ:
– Nếu anh còn sống, nếu anh còn sống!
Không hiểu tại sao lúc ấy, nàng sực nhớ đến câu nói của y-sĩ Tùng:
– Con không cha… con không cha…
Nàng thấy chua-xót trong lòng.
Nhưng khi nhìn kỹ cái ảnh phóng-đại thấy cái vẻ mặt gân-guốc đầy nghị-lực lồ-lộ trên giấy, thấy cái mỉm cười lúc nào cũng như khinh đời, mỉa đời, lúc nào cũng như khiêu-khích với số-mệnh, nàng thấy như mình hèn-nhát quá không đáng sánh với con người quả-cảm thế kia. Nàng nhìn đến mắt người đã chết, thì con mắt hình như trách móc.
Rồi liền lúc ấy, cả cái cảnh-tượng Vĩnh dặn-dò mình trước khi đi, trong khi hấp-hối bỗng hiện ra trong trí nhớ. Những lời dặn-dò ấy xô nhau kéo đến:
– Em phải xử cho xứng đáng vợ một người suốt đời phấn đấu như anh….Em phải can-đảm, vì em là mẹ chúng nó… Khóc là hèn… Em phải nghĩ đến tương-lai chúng nó…. em phải noi gương anh…
Nàng bỗng bất giác nắm hai tay giơ lên:
– Em xin lỗi anh, em hèn-nhát thật. Nhưng bắt chước một người như anh, thì bắt-chước làm sao được.
Rồi lau nước mắt, nàng giơ tay lên như thề với cái ảnh, thề với vong hồn người chết:
– Em xin cố, em xin cố.
Nàng lên gác, thằng Vũ thằng Điện đang chơi đình chùa cạnh giường Hà, thấy nàng lên bỗng xúm đến. Thằng Vũ hỏi trước:
– Cái gì ở dưới nhà thế mẹ?
Rồi trông thấy ngấn nước mắt còn nhem-nhếch trên má Vân, thằng bé lấy khăn lau đi cho mẹ mà hỏi một cách trìu-mến lo ngại:
– Ai làm gì mẹ mà mẹ khóc thế hở mẹ?
Thấy cái vẻ mặt buồn rầu của con, Vân vội mỉm cười:
– Đâu, mẹ khóc đâu!
– Thế ngấn nước mắt là gì?
– À… à.
Rồi Vân rút mùi-soa lau mặt:
– Mẹ xuống bếp khói vào cay mắt đấy. Các con đùa mạnh không cho anh ngủ phải không?
Thằng Điện láu-táu:
– Không đùa mạnh đâu!
Vân lại giường con, thấy con gầy như cái que, mặt mũi hốc-hác, nằm lép xuống nệm nàng lại không cầm được nước mắt.
Thằng Vũ lúc ấy trông thấy rõ-ràng liền lại gần cầm tay nàng khoác vào cổ mình mà bảo:
– Mẹ chẳng khóc là gì đấy!
– Mẹ thương anh mà khóc đấy!
– Anh sắp khỏi rồi cơ mà. Ông Tùng bảo thế!
Câu nói của thằng bé bỗng làm cho Vân phải nghĩ ngợi. Cái việc này xảy ra thì nàng không thể để ông Tùng chữa cho con nàng được nữa. Nhưng biết gọi y-sĩ nào, vì Battambang chỉ có hai y-sĩ: một Tây, một Việt-Nam. Y-sĩ Tây thì đi nghỉ mát một tháng nữa mới về. Mà gọi y-sĩ ở tận Pursat cách Battambang một trăm cây số thì diệu-vợi lắm, tốn tiền lắm. Mà chỉ một hay hai ngày mới có thể đến thăm một lần! Nếu cứ để cho y-sĩ Tùng ra vào trong nhà sau chuyện này thì người ta dị-nghị! Người ta sẽ buộc tiếng xấu cho mình. Người ta sẽ bảo: nếu không có tình ý, sao thế còn cho ra vào.
Thôi đành là tránh sự hiềm-nghi. Đành phải mời bác-sĩ ở Pursat. Sự quyết định ấy vừa đến thì lại có những ý-nghĩ khác đến theo.
Nhỡ khi có sự cần kíp thì làm thế nào?
Nhỡ vì sự y-sĩ Pursat không thể đi lại thăm nom luôn luôn được, không thể theo liền ngay sự tăng giảm của bệnh mà chữa thì làm thế nào?
Nhỡ vì sự trông nom chểnh mảng mà…
Nghĩ đến đấy nàng rùng mình toát mồ-hôi. Nàng sẽ nhắm mắt… Rồi nàng mở mắt… Một ý-định cương-quyết đã nổi lên. Hình như khi nàng nhắm mắt thì người chết đã hiện về nhắc lại cho nàng những câu mà khi sinh thời vẫn nói với nàng:
“Cái đời chúng ta bây giờ không nên kể đến nữa. Chỉ kể đến cái đời chúng nó. Chúng ta bây giờ chỉ còn sống cho chúng nó ”.
Nàng đã thề bắt chước người chết thì nàng phải cư xử theo lời dặn của người chết. Nàng không thể vì sợ những lời dị nghị của loài người mà để nguy đến tính-mệnh của con nàng được. Rồi nàng thấp thỏm chờ… Nàng chỉ sợ y-sĩ vì việc này thẹn mà không dám đến nữa. Không lần nào nàng hồi-hộp, ngồi chờ y-sĩ bằng lần này.
Nàng quyết-định nếu y-sĩ đến, nàng sẽ nói rõ hết ý-nghĩ của lòng mình cho y-sĩ biết mà chỉ cầu xin y-sĩ chữa khỏi bệnh cho con mình thôi. Nàng khắc khoải nhìn đồng hồ tính từng phút.
Đồng hồ đánh nnrời tiếng. Mà chưa nghe thấy tiếng ô-tô! Nàng rủn cả người, nhìn con đang rên-rỉ ở trong giường. Nàng thấy tim gan nàng cũng như rên lên theo tiếng rên của đứa con.
Buom, bi buom…. Nàng mừng quýnh, tất-tả chạy xuống. Không hôm nào, y-sĩ được nàng đón một cách vui mừng như hôm ấy.
Y-sĩ thấy mặt nàng vui vẻ, cũng tươi ra. Vừa lên thang, vừa rút đồng hồ:
– Tôi lại chậm năm phút, chắc bà mong lắm. Xe hết “xăng”, thành ra phải đỗ để lấy nên chậm.
Thì ra y-sĩ cũng tính từng phút!
Y-sĩ nói thản-nhiên như không có một việc gì xảy ra. Hình như y-sĩ chưa biết.
Mà chưa biết thật, nếu biết thì tất-nhiên khi đến phải xin lỗi ngay.
Vân nghĩ thế nên nàng định bụng khi khám bệnh cho con mình xong, thì biết hay không biết nàng cũng nói.
Y-sĩ xem mạch, tiêm thuốc, rồi xuống nhà. Vân định bụng khi nào đi qua nhà khách thì nàng sẽ nói. Nhưng y-sĩ xuống thang mau qua thành thử khi nàng đến nhà khách thì y-sĩ đã ra đến cửa hàng, nàng chạy mau toan gọi thì y-sĩ đã ra khỏi cửa. Nàng toan ra cửa gọi lại, nhưng trông trong nhà tối-tăm vắng-vẻ, nàng lại ngường-ngượng thế nào rồi thôi.
Đến lúc xe hơi chạy, thì một phản động-lực trong lòng nàng mới bắt đầu nổi lên. Rồi liền một ý nghĩ đến. “ Nếu y-sĩ biết chuyện xấu hổ mà không đến”, nghĩ đến đấy, nàng thấy cái thân hình xanh ngắt, gầy như cái que của con hiện đến trước mặt. Nàng hình như nghe tiếng rên khừ-khừ ở khắp nhà nổi lên. Nàng sợ hãi… Nàng chạy lại nép đầu vào cái ảnh phóng đại của chồng mà cầu-khẩn:
– Anh phù hộ cho con. Anh làm thế nào cho em đỡ hèn đi một tí anh ơi!
Sáng hôm sau, nàng lại phải khắc-khoải ngồi đếm từng phút chờ y-sĩ. Nàng chỉ lo y-sĩ không đến. Đến thế nào nàng cũng nói rõ cho y-sĩ biết. Sáng hôm nay, nàng tuy khắc-khoải chờ, nhưng nàng không còn cảm thấy sự ngượng-ngùng trong khi phải nói với y-sĩ, vì suốt đêm qua, nàng đã đủ thì giờ để cân nhắc hành-vi. Nàng đã tìm cho những hành vi ấy một lẽ phải rõ-ràng sáng-sủa có thể trấn áp được cái tính thẹn-thò của mình.
Sáng hôm ấy, y sĩ đến sớm mười phút. Lần này, y sĩ lại được tiếp đón bằng một vẻ mặt vui-vẻ hơn hôm qua.
Y-sĩ thấy thế hình như cảm động.
– Tôi đến hôm nay sớm mười phút để chuộc cái tội đến chậm năm phút tối hôm qua.
Giọng nói thản-nhiên. Vân biết ngay là y sĩ chưa biết chuyện vợ mình làm quấy. Mặc dầu, chốc nữa khám bệnh xong, thế nào cũng phải nói.
Hôm ấy, thằng Hà đã tỉnh. Thấy y-sĩ cầm ống tiêm cho nó, nó bèn hỏi:
– Ông tiêm cánh tay nào?
Vân thấy con hỏi như thế, mừng quá. Y-sĩ cũng mừng.
– Thì tôi đã bảo bà rằng có thể tin ở sự tận-tâm của tôi.
– Cám ơn quan có lòng tử-tế, chốc nữa xuống nhà tôi muốn thưa với quan một việc.
Y-sĩ nghe câu nói ấy, mặt bỗng nở ra:
– Vâng, nhưng giá sự tận-tâm của tôi có quyền cho tôi cầu xin bà gọi tôi bằng ông, để chốc nữa hầu chuyện bà thì may quá…
Vừa nói, vừa nhìn Vân một cách khẩn-khoản cầu xin. Trái với lòng mong ước của y-sĩ, Vân nhìn thẳng vào mặt y-sĩ một cách lạnh-lùng mà chẳng giả nhời.
Xuống đến nhà, Vân gọi con sen pha nước rồi chỉ cái ảnh chồng mà bảo y-sĩ:
– Giá nhà tôi còn sống thì hôm nay nhà tôi phải hàm ơn quan biết mấy vì sự quan săn-sóc cho cháu. Nhưng nhà tôi mất đi, thì tôi xin thay nhà tôi mà chịu hết cả cái ơn huệ ấy.
– Có cái gì là ơn, mà bà phải nói nặng tình như thế, chẳng qua là cái bổn-phận của nghề chúng tôi. Được thấy vẻ vui mừng hiện lên mặt bà là tôi lấy làm thỏa mãn lắm rồi.
Vân không giả nhời, nhưng đổi giọng:
– Hôm qua quan có biết chuyện gì xảy ra ở nhà tôi không?
Vân nói với một giọng buồn.
Y-sĩ ngơ-ngác lo-ngai:
– Tôi chẳng biết chuyện gì cả… Nếu có phải tôi đã vô-ý làm mích lòng bà điều gì, thì xin bà tha tội cho tôi.
– Không, quan có làm việc gì.
Rồi bằng vài câu vắn tắt, Vân kể rõ cho y-sĩ biết tấn kịch mà thím Năm đã gây ra trước cửa nhà nàng.
Nghe chuyện, y-sĩ mặt trước đỏ, bỗng hóa tái, tái rồi lại đỏ, đỏ rồi lại tái. Khi Vân nói xong, y-sĩ liền đứng dậy:
– Thật là lỗi tại tôi. Thôi, tôi xin bà cứ để cho tôi chữa khỏi cho cháu rồi tôi sẽ liệu. Vợ với con gì cái đồ mất dạy ấy. Mà nó có phải vợ tôi đâu.
– Quan nói thế nào, tôi không hiểu.
– Câu chuyện này khó nói lắm. Chỉ xin bà tha tội cho tôi và cứ cho phép tôi chữa khỏi cho cháu rồi tôi sẽ liệu.
Vân chưa kịp cầu xin y-sĩ đừng nghĩ ngợi cứ bình tâm chữa cho con mình thì y-sĩ đã đi trước cái ý muốn của Vân.
Nàng thấy trong mình nhẹ-nhõm như mới cất đi được một gánh nặng, nàng ngọt-ngào bảo y-sĩ:
– Sự đó đâu phải lỗi ở quan. Nhưng ví dù có điều gì mà có là lỗi ở quan đi chăng nữa, tôi cũng chỉ nghĩ đến sự quan trông nom săn-sóc đến cháu mà thôi!
Y-sĩ sốt sắng:
– Tôi sẽ đuổi cổ nó đi để tạ tội với bà.
Vân kinh-ngạc nhìn Y-sĩ. Y-sĩ nói tiếp:
– Nó làm cho tôi mang tiếng với một người tôi… quý trọng nhất trên đời. Sự chơi-bời dại dột nguy-hiểm thật!
Giọng nói thất-vọng khiến Vân ái-ngại:
– Tôi thì tôi không có quyền biết đến đời tư của ngài. Nhưng xin ngài đừng vì một việc nhỏ mọn như thế mà ruồng-rẫy người ta. Có yêu ngài người ta mới ghen.
– Tôi cần đâu nó yêu…
Rồi nói một cách chua xót:
– Thôi trăm sự xin lỗi bà. Bà đã tha lỗi cho tôi chưa? Tha cho tôi một cách hoàn toàn chưa?
Giọng nói thành-thực làm Vân ái-ngại. Nàng liền ôn-tồn:
– Sẽ hoàn-toàn, nếu ngài đừng ruồng-rẫy người ta. Vì như thế, sợ có điều trở-ngại không tốt xảy ra, trong khi ngài đến đây chữa bệnh cho cháu.
– Bà dạy thế nào, tôi cũng xin nhắm mắt vâng theo. Được bà… tha lỗi thì việc gì tôi cũng làm.