← Quay lại trang sách

- 3 -

Không khí buổi chiều mát rượi nhờ mưa dông đêm qua. Và bầu trời ít mây, chắc vì đã trút gần hết nước. Sao Hôm mờ mờ ở chơn trời hướng Đông, được một lúc thì mất hẳn. Chàng hiu, nhái bén, cúm núm, ốc cao thi nhau hòa một điệu nhạc lạ lùng với nhiều nốt trầm bổng. Ánh trăng đầu tháng mờ nhạt, mông lung. Đầu hôm có gió nhẹ lai rai, nên nhìn xuống mặt nước như thấy nhiều mặt trăng chạy lao xao theo những đợt sóng lăn tăn. Những đám lau, sậy, lác, dứa gai dọc dài tạo nên hình dáng kỳ dị, đôi khi giống con cọp, con heo nằm ngủ im lìm trong màng sương trăng…

Loan cho đầu mũi ủi nhẹ vào đám lác sau chòi, chống mạnh sào cặp xuồng vào bờ, nhảy lên, rồi đi về phía hai cây rơm. Trời tối đen. Hai người ngủ hai cái nóp, thụt đầu vào trỏng thì mình làm sao biết được ảnh? Lớ quớ mò bậy trúng con Vân thì bể mánh hết. Mà rủi đụng ảnh, ảnh la lên thì chết cha mồ tổ. Từ hồi chiều tới giờ Tư Én cứ ngần ngừ hoài, nửa muốn qua mà nửa muốn hông. Loan luôn luôn tự hỏi trong bụng hoài: Ảnh có thương mình hông? Hổng thương sao ảnh cổi đồ mình hết vậy, lúc mình nóng mê man? Người gì đâu mà dị hợm? Sao cả gan dám cổi đồ người ta? Mình hỏi có thương mình hông mà cứ ỡm a ỡm ờ, trả lời trớt quớt. Mình thương ảnh quá đi chớ, ngay từ lúc đầu kìa. Nếu hông, sao lúc tỉnh rồi mà còn giả bộ nằm im re để cho ảnh cạo gió mình. Mắc cỡ muốn chết, mình mẫy sượng trân, nổi da gà mà cũng rán gồng mình để cho ảnh làm gì thì làm. Mà ảnh cũng tử tế, chưa dám sờ mó gì? Với bao nhiêu câu hỏi đó làm Loan rạo rực trong lòng. Hai hôm rồi, hình ảnh Xuân ôm nàng vào lòng để đút cháo, cứ chập chờn trước mặt Loan. Nghĩ tới lúc Xuân cổi hết quần áo, nàng trần trụi, có cái gì cứ nóng ran ran trong người nàng, chạy lên chạy xuống xốn xốn hoài. Loan xốn xang hông chịu được, cứ ngó mong qua chòi Xuân. Chập chập lại muốn chống ghe qua nhưng sợ cái con Vân, con nhỏ hay thót thét. Từ đầu hôm đến giờ Loan nằm trong cái thum mà cứ lăn qua lộn lại hông ngủ được. Tiếng cúm núm hình như giục: Cứ đi đi. Tư Én hông chịu được nên đẩy xuồng ra, hai tay ấn mạnh sào lao vụt trong đêm tối.

Rồi bây giờ qua đến đây, Loan bắt đầu phân vân. Con gái gì mà đi tìm con trai? Giống như cột tìm trâu. Ảnh có chê mình hông? Rủi ảnh hông ưng mình thì sao? Nhưng coi bộ dạng ảnh trả lời thì chắc là ảnh thương mà! Con trai gì mà còn thỏ đế? Thương mà hổng dám nói là thương, cứ trả lời vòng vo hoài. Và Loan nhứt quyết phải gặp cho được Xuân, bởi vì Loan thấy có cái gì nong nóng làm nàng khó chịu, nhớ ray rứt hoài từ lúc lần đầu tiên thấy Xuân đến giờ.

Loan đi rón rén, vòng qua cà tăng nhốt vịt, nếu hông đám vịt con đánh hơi được, tụi nó sẽ kêu chí chít. Nàng đi tới cây rơm có cái nóp. Nàng ngần ngừ một hồi lâu, bước tới gần, nghe hơi thở nhè nhẹ, nàng biết là hơi thở của Vân.Nhưng để cho chắc ăn, Loan đứng lại, nghe ngóng một lần nữa, rồi bỏ đi qua cây rơm ở đầu kia. Nhờ ánh sáng mờ nhạt của những ngôi sao dọi xuống nước; và hơn nữa, ở ngoài đêm tối trong một thời gian lâu, nhìn được rõ hơn, Loan thấy cái đầu đen của Xuân ló ra khỏi chiếc chiếu. Hơi thở của Xuân dài và mạnh. Loan hồi hộp bước đến gần. Sau một lúc do dự, cô gái nhẹ nhàng nằm xuống bên cạnh Xuân.

Trong giấc ngủ Xuân chập chờn ngửi được mùi bồ bồ và sả. Chàng giựt mình, lấy tay hất chiếu ra, đụng phải thân hình mềm mại của Loan.

– Ai đây?

– Tui đây mà!

– Em đi đâu vậy Loan?

– Tui nhớ anh quá, tui qua đây hổng được sao?

– Nè. Đừng nói lớn. Vân nó nghe.

Xuân vội rút một ôm rơm thật chặt, nắm lấy tay Loan, dẫn tuốt ra phía sau chòi, bươi rơm rộng ra, rồi hai đứa ngồi xuống.

– Em hổng sợ sao?

– Sợ gì? Có anh đây mà. Giờ tui hỏi thiệt anh nghe. Anh có thương tui hông? Anh nói đi rồi tui dìa. Đêm hôm khuya khoắt mà tui bạo gan qua đây gặp anh. Gái đi tìm trai, thì anh đủ biết bụng dạ tui rồi.

– Trời đất!

– Hổng có trời đất gì hết ráo á. Anh cứ dần lân hoài.

– Thì ………. thì…..

– Thì sao nữa đây?

Nói chưa dứt câu, Loan ngã đầu vào ngực Xuân. Mùi bồ bồ, mùi bùn tanh tanh và mùi con gái đồng nội ngây ngô chơn chất có cái ngay ngáy của rơm, có cái chua chua của phèn, của bùn non, có cái khen khét của ánh nắng cháy làm da đen dòn khiến Xuân rạo rực. Loan cứ rúng ra rúc đầu hửi hửi vào người thanh niên mới lớn hực hực đầy sức trai, chờ dịp là bùng nổ. Và rồi, tròm trẹm, trẹm tròm, phựt lửa đốt cháy rơm. Hai con mồi sẵn sàng lăn sả vào nhau. Và con chuột đồng ú nu vàng hực, lăn qua lộn lại xèo xèo trong đám lửa phựt phừng…

– Mình mặc đồ vô đi để bị cảm.

– Hông. Tui hổng chịu.

– Dữ hôn! À nè. Sao em cứ xưng tui hoài vậy? Thương nhau thì phải xưng em, anh chứ!

– Tui đâu biết. Cha sanh mẹ đẻ tới giờ tui có xưng em với ai bao giờ đâu?

– Thì bây giờ mình thương nhau rồi mình phải xưng anh em chứ!

– Ờ hé! Vậy hả anh? Vậy là tự nảy giờ mình thương nhau rồi đó hả anh. Kỳ ghê! Xưng em nghe lạ miệng, mắc cỡ chết mồ.

– Gì đâu mà kỳ. Người ta còn hun nhau nữa kìa. Em có biết hun đâu, chỉ biết hửi hửi như con chó Mực đánh hơi chuột! Vừa thấy hang là hít rồi bươi tới cùng luôn.

– Tui ….. Em nhà quê mà anh, tui… em có biết gì đâu. Em chỉ có biết thương là vậy thôi à! Anh à! Vậy là mình chắc có con hả anh? Em sẽ đẻ cho anh một dọc cho mà xem. Rồi anh sẽ mặc sức mà đặt tên cho tụi nó. Thằng hai Thương, thằng ba Anh, con tư Quá, thằng năm Trời….

– Ngộ quá hé! Ông chú quen trong làng anh, ổng đặt tên con gái một dọc là Mưng, Mửng, Mừng, Mứng, Mựng. Còn ông kia năm thằng con trai là Khuân, Khuấn, Khuần, Khuận, Khuẩn. Còn em lại đặt tên hay hơn.

– Thì tui thương anh quá trời nên mới đặt tên mần vậy?

– Con đông quá mần sao nuôi nổi đây?

– Ối! Hơi sức đâu mà tính. Trời sanh voi trời sanh cỏ. Mắc cuông lo bò trắng răng. Thì anh cứ tính đi. Anh ráng mần ít năm tụi nó lớn lên, tụi nó mần phụ ví anh, lúc đó là anh khoẻ rồi, còn em nữa mà. Chồng cày vợ cấy thì lúc nào cũng có ăn, hổng chết đói đâu mà sợ, má tui nói vậy. Ở xóm tui, ai cũng biết nhà ba má tui- nhà ông Sáu Lục- nhiều con, tới sáu đứa lận. Mà đứa nào đứa nấy cũng cùi cụi. Giờ ba má tui khoẻ re! Ruộng trong bưng nầy còn đầy đàng đầy đống. Tới mùa mình mặc sức mà mần.

– Sao tự nảy giờ anh nghe em tính hông vậy. Ba mẹ em có chịu hông? Nếu hông thì sao?

– Em thương anh thì ở đâu em cũng tới. Tía má em cấm thì em bỏ nhà theo anh.Chị ba tui -chị Ba Lựa- chỉ đi bán, chỉ thương anh ba tui-Hai Rắc- đâu bên Tân Hưng. Ba tui hổng chịu gả, nói tao đâu biết thằng cù bơ cù bấc đó. Chỉ mần nư. Ba tui nói mầy mần gì thì mần đi, tao hông chịu gả. Chỉ bỏ nhà đi theo ảnh biệt có về tới giờ.

– Trai tráng ở đây thiếu gì, sao mới thấy anh mà sáp vô vậy?

– Tụi nó ở đây hả. Thanh niên gì tối ngày tụ năm tụ ba, nhậu nhẹt, ca vọng cổ, hút thuốc rê, hôi rình. Có lần, có thằng hơi đã đã, đêm hôm mò mò tới tui, tui đá cho một cái muốn lòi bảng họng.

– Em ghê vậy! Bữa đó anh thay đồ cho em sao hông đá anh một cái cho lòi bảng họng đi? Bây giờ biết anh sao mà theo anh?

– Nữa? Lúc đầu, tui thấy anh hợp nhãn thì tui… em thương chớ bộ. Anh cứ nói quanh co hoài. Mình thương nhau sao mà cứ đắn đo. Hổng biết! Cứ thương nhau cái đã!

– Trời đất!

Xuân chưa kịp nói hết câu đã bị Loan đè ngã xuống. Xuân bị chìm nghĩm hổng biết đến mấy lần…

Buổi trưa hôm nay hông có gì ăn. Nước còn lễnh lãng. Tép rong hổng có con nào chạy vào chông, nên Xuân và Vân lùng sục tùm lum, may mới bắt được con rắn. Vân sợ hông dám làm. Phùng Xuân đành phải chống xuồng một mình về chòi, bỏ lại cô ta ngồi ở gốc trâm bầu, và hẹn khi nào xong thì đem ra. Tất cả mọi thứ ở đây chỉ làm có được hai món để ăn với muối: luộc và nướng. Chim chóc, chuột … thì phải nướng, chớ luộc ăn tanh ói. Cũng có những món nướng ăn vẫn tanh vì hông có một chút gia vị nào ngoài cây ớt hiểm mọc sau chòi.

Xuân đang lui cui lột da con rắn rằn ri cá thì Loan chống xuồng tới.

– Bầy vịt em ở đâu?

– Bỏ ngoài ruộng gần chòi tui. Tui…. em để ý thấy anh chống ghe về chòi có một mình, nên em lật đật qua. Con Vân nó ở ngoải một mình hả anh?

– Ờ! Có chuyện gì vậy?

– Nè! Nói nầy nghe nầy!…

Loan cổi bỏ khăn rằn trùm đầu ra. Miệng cười chúm chím và đôi mắt sáng ngời lồng trong mái tóc đen dài mượt mà. Cái áo bà ba bung hết nút. Làn da trắng và cái cổ màu mật ngà vì nắng ăn. Xuân ngước nhìn, và bỗng nhiên nghĩ tới thân hình lồ lộ của Loan ngày hôm kia dưới ánh trăng mờ mờ… Hơi nóng trong người Xuân và hơi nóng ban trưa rừng rực lây lan sang người Loan. Khi họ tỉnh lại, cỏ chung quanh đã bị nhầu nát…

– Em dữ lắm nhen! Như bị phong sù. Lại còn nhảy đồng đồng nữa kìa!

– Ờ hé! Vậy đó, rồi thì sao?

– Thì em đúng là Loan trào đờm. Mặc đồ vô mau đi. Vân nó thấy bây giờ.

– Ma dấu anh cho chết luôn đi! Xí! Đồ thấy ghét! Đồ dị hợm!

Nhưng nói thì nói vậy, chớ cô ta cũng nhào đến ôm Xuân hít, hít ngấu nga ngấu nghiến một hồi lâu như muốn ăn tươi nuốt sống. Hai ánh mắt cứ ngời ngời lên. Mình cổ nóng hừng hực còn hơn nắng trưa. Đúng là các cô gái quê đồng nội. Lần nầy nữa cỏ bị quậy nát bấy như trâu dậm lúa, chắc hông lên được!

– Nè. Nói nầy nghe nầy. Anh hỏi thiệt em nghe.

– Chuyện gì anh?

– Có phải hôm đó em giả bộ bị cảm nặng, ngồi dậy hông nổi để anh thay đồ cho em, phải hôn? Hổng phải hả? Ngập ngừng phải hông? Đúng rồi. Bị lật tẩy rồi.

– Xí!

– Xí, xí cái gì cô nương. Đúng rồi. Em làm bộ. Em gan thiệt. Rủi anh trở chứng là tiêu đời luôn.

– Xí! Thì bây giờ cũng tiêu tùng rồi đó!

Tư Én nhanh nhẹn đứng dậy, vuốt lại quần áo, rồi quay vô chòi, trở ra chỗ ghe đậu. Khi đi ngang chòi, cô ta tỉnh bơ xớt lẹ cái áo sơ mi rằn của Xuân, nhét vô bụng…

Loan đột ngột vắng bóng mấy ngày nay làm Xuân buồn rũ rượi. Xuân hỏi thằng nhỏ chừng mười tuổi chăn vịt thế cho Loan. Nó nói nó ra thay chị nó lúc khuya, để chỉ về chở Tía nó đi nhà thương. Hỏi bịnh gì? Nó trả lời ú ớ rồi nín khe. Thằng nhỏ coi bộ còn khờ, có cái mặt ngơ ngơ ngác ngác và hai mắt thao láo. Nó rất ít nói, cứ đưa mắt nhìn. Hông bao giờ có nụ cười. Hỏi tên gì? Một lúc lâu, hình như nó đang tìm kiếm cái tên của nó ở tận miền xa xôi nào đó, nó mới nhếch miệng: Út Thèm. Xuân chưng hửng. Có lẽ cho tai mình nghe hông rõ, Xuân hỏi lại một lần nữa.Nó ngạc nhiên chắc thằng cha nầy điếc, nên lập lại hơi lớn: Út Thèm. Tên gì kỳ vậy mậy? Út Thèm! Vân đứng kế bên cũng bật cười. Cái tên lạ quá há? Có gì đâu, chắc lúc sanh thằng nhỏ nầy, ông già nó ổng đang thèm cái gì đó nên ổng đặt tên cho nó như vậy mà! Chớ nếu nó “xấu hái” thì chắc tên nó là Út Cu hay Út Cặ.. rồi! Đôi khi nó đứng trân trân ngó Xuân và Vân như hai người khác lạ lùng mà nó chưa bao giờ gặp ở trong làng của nó. Nhứt là Vân, nó thấy trắng trẻo hơn chị của nó nhiều, có đôi má núng đồng tiền và cái miệng có cái răng khểnh, lúc nào cũng cười chúm cha chúm chím.

Xuân có linh tính là chẳng bao giờ gặp lại được Loan. Chàng chỉ có hơi thắc mắc là tại sao Loan hông nói với mình một lời trước khi ra đi. Có gì đâu, chỉ cần đi ngang là hú một tiếng thôi mà. Thế mà cũng hà tiện lời. Kể ra cô ta cũng kỳ. Đến đột ngột, thương bồng bột, quầng nhau dữ dội, rồi ra đi đường đột. Hình như là một áng mây che làm chàng u buồn ngẩn ngơ.

– Rồi a! Chị Loan hớp hồn anh nữa rồi phải hông?

Xuân hổng buồn trả lời.Vân thấy Xuân nhìn mình hổng cười trong hai ngày liên tiếp như vậy, nhưng Vân vẫn tiếp tục săn đón.Có thể nàng hiểu ra rằng bây giờ chỉ còn lại một mình.Và chắc chắn mình là kẻ chiến thắng sau cùng thì mình vội vã làm gì. Hai đứa chung đụng hằng ngày giữa chốn đồng không. Hông chóng thì chầy, lửa sẽ đốt cháy rơm tiêu tan hổng có cách gì ngăn cản được… Sao ông Sáu Xe hứa bữa sau xuống mà tới bây giờ hổng thấy ổng?

Tháng bảy ít khi được những đêm trời trong, bao giờ cũng có mây che, nên trăng hông bao giờ lộ nguyên hình, thỉnh thoảng hé miệng ra cười một chút xíu rồi lại ẩn mình trong những đám mây. Và trời thường tối sớm hơn vì mây đen. Hai đứa lúc nào cũng lùa vịt về lúc mặt trời còn ở trên cao. Trong lúc Vân bận rộn với nồi cơm, Xuân lo nhốt vịt rồi cho ăn thêm chút ít lúa. Xong, chàng ra thăm cái chông coi có được chút tép rong và cá bãi trầu nào hông. Bây giờ thì đồ ăn hết rồi.Hai đứa chỉ trông cậy ba con tép cá có được hằng ngày của cái chông. Trời mưa nhiều.Nước tràn bờ. Tép rong, cá bãi trầu, cá lia thia… lên ruộng. Cá lóc cửng cũng đi đâu mất hết. Mong gì được bầy ròng ròng! Chông hông chạy thì rán đi kiếm chuột, rắn… Những bữa hổng kiếm được gì thì Vân bỏ cho Xuân chăn vịt. Cô ta lò dò đi kiếm đọt chại, đọt ráng, rau dừa, rau muống ruộng (rau muống ruộng cọng màu hơi đỏ và cứng) về luộc chấm với nước muối ớt. Cay thắt họng. Nước mũi, nước miếng chảy sụt sùi. Nhiều khi hai đứa nuốt hổng vô…

Hông biết thời gian trôi đi là bao lâu, nhưng Xuân đoán có thể hôm nay là gần rằm. Chàng hy vọng có đêm sáng trăng. Nhưng tháng bảy và tháng tám làm gì có được đêm trăng rằm sáng ngà. Tháng nào thì có hạn bà Chằn? Hỏi Vân thì cô ta cũng bù trớt luôn. Và ngày rằm và ba mươi thường thì có mưa, vì con nước rong, nước ngập tràn đồng.

– Chắc đêm nay có trăng đẹp.

– Hổng có đâu anh. Em thấy mấy đám mây đen đang kéo tới kìa!

Vân trông mong trời mưa. Mấy hôm rày trời hơi khô ráo, hai đứa ngủ riêng ở hai cây rơm. Xuân biết Vân đợi trời mưa để được dịp chui vào lỗ rơm Xuân làm mấy hôm trước, nhưng bây giờ phải gá thêm vào đống rơm một cái thum nhỏ cho đủ rộng. Mỗi lần ước như thế là đôi mắt nàng rực sáng.

Và quả thiệt, mây đen kéo tới làm tối trời. Trăng bị mây che mất. Ánh trăng suông mờ mờ. Chưa gì hết là Vân lật đật phóng vào cái lỗ rơm trước tiên. Xuân còn chần chờ, nhưng cuối cùng mưa nặng hột rồi cũng phải chui tọt vô, phủ rơm lấp lại.

– Anh!

– Gì Vân?

– Em…

Xuân ngộp người vì hơi thở của Vân dồn dập. Hơi nóng tuôn ra ào ạt từ đôi vú lớn săn chắc, phập phò lồ lộ ra khỏi áo bị bung hết nút từ lúc nào hông biết. Mùi thơm lạ lùng của mái tóc dài thườn thượt, của đôi gò má nắng cháy đồng ruộng, mùi da của cô gái vườn dừa đang ở độ tuổi “bẽ gãy sừng trâu” và làn da mềm mại của ngực trần, đã đánh bại sức chống cự của Xuân.

Trời mưa! Trời mưa dông. Và trời mưa thật lớn nung nóng sức bật mãnh liệt của đôi trai gái đang sung độ. Cây rơm vừa gồng mình dưới cơn mưa vừa oằn oại chịu đựng sự rung rinh của hai thân thể bất kể trời đất. Trận mưa dông mặc tình tuôn đổ như xối nước lên cây rơm. Và tiếng xột xà xột xẹt của rơm liên tu bất tận, càng lúc càng lẹ hơn tiếng mưa rơi…

– Nhè nhẹ thôi em. Coi chừng cây rơm sập là hai đứa chết ngộp luôn à nghen.

– É! Anh biết gì! Tía bung rơm lên chặt lắm, hông có sụp đâu mà anh sợ.

– Nhưng mà anh moi một lỗ sâu vô giữa thân cây rơm rồi. Mưa đang như trút bên ngoài, thêm cây mưa của em; hai cây mưa lớn như thế nầy thế nào nó cũng quị cho mà xem!

– Kệ nó! Chết em chịu.

– Dữ hôn! Còn hơn chị Sáu em.

– Thì em đã nói có ngày em sẽ cho anh biết tay em mà. Anh hổng biết đâu. Chớ cái đêm ở Bến Tre, anh và chị Sáu mầy mò cái gì mà lục cà lục cục làm em ngủ trắng mắt. Còn nữa. Anh với chị Loan như hai cây đèn cầy lúc la lúc lắc hoài trong đêm tối. Chỉ đi tới đầu nóp em là em biết rồi. Em nín thở. Rồi em rình theo. Em biết hết. Đống rơm đằng sau chòi còn sờ sờ đó. Bây giờ còn mình em, em cho anh biết tay. Cho anh chết luôn!

– Trời đất! À. À. Anh còn nhớ đêm hôm đó, anh nghe tiếng giường của em cứ cọt cà cọt kẹt hoài.

– Ờ hé! Hổng có trời đất gì hết ráo á! Cho anh biết tay em mà! Đồ đàn ông gì mà tham lam!

– Có em á!

Và những trận mưa lại thêm nặng hột, ào ào, hông dứt. Ánh trăng suông mờ mờ. Cho đến lúc nào hông biết, đôi trai gái buông ra. Họ thở ra hông kịp hơi. Và họ mê mệt, tàn như tro rơm. Họ chết dần dần trong giấc ngủ. Chết dần trong sự đam mê xác thịt giữa cơn mưa nơi đồng không mông quạnh.

Mặt trời mọc rồi lặn trôi đều đặn. Vân hả hê với cuộc sống có Xuân bên cạnh. Bây giờ thì chỉ còn một mình, hông còn ai mà bắt xác ảnh nữa. Nàng nghĩ như vậy.Và nàng có những toan tính cho riêng mình.

– Anh à! Nói nầy nghe nầy! Em tính mai mốt Tía Má sẽ cho tụi mình miếng vườn ở ấp Cô Xanh. Mình có con có cái sống ở đó khoẻ lắm anh.

– Sao khoẻ?

– Thì có huê lợi sẳn rồi. Nè, ổi nè, chuối nè, dừa nè. Bấy nhiêu đó hai đứa mình xoay tối ngày đủ ngất ngư. Còn con nữa mà. Em thích có năm sáu đứa.

– Năm sáu đứa thì còn thì giờ đâu mà lo vườn tược.

– Sao hổng được. Đẻ một tháng là làm được rồi.

– Rồi hai tháng sau ôm một cái bầu nữa hé?

– Em muốn vậy.

– Trời đất! Tư niên có chuyện đó thôi sao.

– Thì sao nữa. Gái vườn lớn lên, có chồng có con, lo vườn tược, như vậy là êm ấm rồi.

– Còn anh. Anh muốn học nữa.

– Thì anh học đi. Dìa dưới nầy làm thầy giáo.

– Vậy là mình chưa tính làm đám cưới?

– Chưa. Cho anh đi học rồi làm thầy giáo như anh Năm em.

– Anh thấy em tính coi bộ hổng được rồi đó.

– Sao hổng được?

– Mấy hôm rày cứ xà nẹo ngày ba bốn lần thì đố khỏi có con tới nơi. Ở đó mà tính với toán.

– Em hổng sợ. Mình có con là có chớ sao!

– Trời! Gái 17 bẽ gãy sừng trâu!

– Ờ hé! Cho anh biết tay em mà!

Buổi trưa, trời nắng chan chan. Sau khi ăn xong, hai đứa ngồi dưới gốc trâm bầu, nhìn bầy vịt đang rút rỉa trong ruộng.

– Em khát nước quá! Em đang thèm nước dừa xiêm.

– Dừa xiêm gì?

– Dừa xiêm chớ dừa xiêm gì? Anh lại hỏi dần lân nữa rồi!

– Hổng có đâu đó cô. Có dừa xiêm thiệt và dừa xiêm lai. Dừa xiêm thiệt nhỏ trái, hơi thon dài. Còn dừa xiêm lai trái hơi lớn một chút. Em hông có biết, chớ nước dừa xiêm thiệt ở quê ngoại anh- Châu Bình- có vị thanh và ngọt hơn Lương Quới.

– Sao vậy anh?

– Vì vùng Châu Bình là vùng đất còn ngập mặn- nước xạ hai. Qua mùa nắng gắt, lúc nước kém, nước mặn tràn vào, ban đêm, mình lấy tay khỏa sẽ thấy nước sáng lên, có lân tinh lấp lánh. Rễ cây dừa hút nước lờ lợ. Nước dừa sẽ ngọt thanh hơn…

Ngôi nhà của Ngoại, ở Châu Bình, lợp ngói âm dương, cũ kỹ, có từ hồi nào Xuân hổng biết nữa. Lớn lên, Xuân đã thấy ngôi nhà đã có ở đó với cái dạng hình bánh ít, giữa cái sân trước rộng rinh dùng để phơi dừa. Một dãy lu vú da bò chứa đầy nước mưa bên hàng hiên nhà. Xuân, các em và tụi bạn thường hay lủi vào kẹt lu chơi trốn bắt cút. Trước nhà là cái cầu đúc nhỏ bắc ngang con rạch. Qua cái cầu đúc, phải đi trên những tảng đá ong, vòng vo ngoằn ngoèo theo cái hàng rào quít tàu và trà được cắt xén cẩn thận cao khỏi đầu người, rồi mới vô tới căn nhà ăn và nhà bếp rộng rãi.

Sau nhà bếp là một dãy nhà lớn rộng để chứa và sấy dừa vào mùa mưa. Lúc nào bên hông dãy nhà nầy cũng có một hai đống dừa khô độ một hai thiên. (Một thiên là một ngàn. Ở quê Xuân, người ta gọi một thiên dừa chớ hông ai gọi là một ngàn dừa). Và những ổ tèn hen đùn lên cùng khắp sân. Có bầy ngỗng dữ dằn, cổ dài ngoằn, luôn luôn lúc nào cũng rượt đuổi bọn Xuân.

Ông Ngoại của Xuân, Ông Ba Hạo, có đến bốn bà vợ. Ổng chết từ lúc não lúc nao, chắc lúc còn trẻ nên ông cố Lê Phùng Xuân chia phần, cho người vợ trẻ nhứt, bà ngoại của Xuân ba mẫu vườn dừa, năm mẫu ruộng ở ngoài lộ ngang. Bà Ngọai, quê ở Giồng Trôm, đã một lần góa chồng, dốt đặc cán mai. Bà hay nói những thứ chữ hơi lạ như “tư niên”(quanh năm), hồi nẫm(hồi xưa), đi hược(đi học), vịt cồ (vịt trống), gà cồ, cua kình (cua lớn), sít rịt… Từ khi về với ông Ngoại, bà quán xuyến công việc nhà rất giỏi. Xuân lớn lên đã thấy một mình Ngọai tính nhẩm từ trăm cau, chục sa bô chê, chục mãng cầu xiêm… Đống dừa mấy thiên? Ngoại đều biết răng rắc bằng cách bẽ từng đọan cọng lá dừa.

Ông Cậu Năm Kình hổng làm gì được hết. Tối ngày ổng chỉ ho sù sụ vì chứng ho lao đã hành ổng từ khi ông Cố cho ổng lên Sài Gòn học. Ông Cậu mãi mê thức đêm thức hôm đọc ba cái Tiểu Thuyết Thứ Bảy và Tự Lực Văn Đoàn. Ổng có rất nhiều sách- nhưng đặc biệt là hông có truyện Tàu- dấu trong các cái lu vú bò. Khi nào hô có Tây ruồng là Bà Ngoại phải lo tuồn ba cuốn sách đó vào những cái lu đã chôn sẳn sau vườn. Ổng lại còn có tật cà lăm nữa. Nói một tiếng, rặn gần hồi lâu mới ra khỏi miệng.

Mới có tám, chín tuổi nhưng Xuân cũng đọc được: Tôi là Mẹ, Chiếc Bóng Song The, Hồn Bướm Mơ Tiên, Tố Tâm và cuốn mà Xuân mê nhứt là Đồng Tiền Vạn Lịch. Thằng nhỏ nầy hay lò dò đến gần mấy cái lu, đợi ổng lên cơn ho, lén lén rút đại một cuốn rồi bỏ chạy. Ông Cậu có ngó thấy, chưa nói được một tiếng là Xuân đã tuôn ra tới đầu bờ dừa, nằm gác chơn lên gốc bụi nhàu đọc ngấu nghiến trong buổi trưa hè đầy nắng loang lỗ.

Nắng trong vườn dừa buổi trưa mát rượi. Hông có một ngọn gió. Vắng lặng. Thoảng có tiếng cu kêu xa xa và tiếng gà cồ gáy. Thằng bé đọc đã, nằm ngủ thiu thiu. Nước lớn dần dần len vào các bờ mương. Cá nóc nói bắt đầu nhảy lên, nằm phơi mình trên mấy trái dừa điếc và mo nang đầy bùn sình. ( Cá nóc nói có hình dạng như cá thòi lòi nhưng nhỏ con hơn, chỉ bằng ngón tay giữa là cùng. Nóc nói ở trong mương vườn, hông thấy ra ở vùng nước sâu. Háu ăn nên trẻ con thường bắt để làm mồi câu cua biển )

Nhà Ngoại còn có hai cây me to bên hông sân, ngập bông khi mùa gió chướng và đầy trái vào mùa quết bánh phồng mì, bánh phồng nếp. Bông me, đọt me non nấu canh chua cá chốt ăn với tép bạc kho nước cốt dừa. Có bụi chuối hột đầy trái chín. Đám con nít hông dám ăn, sợ ỉa hông ra. Bắp chuối và cây non nấu canh chua lươn con mẻ. Khi ra giêng, còn có hoa ô môi nở màu tím rịm, từng chùm phủ kín cây, đua sắc với bông vông nem đỏ choét ở ngõ vào nhà. Có chim trao trảo kêu ‘ trao trao’ nhảy nhót đầy trong lùm cây sa bô chê, lê ki ma, mãng cầu xiêm, vú sữa. Có chim chìa vôi hiền lành liệng qua lại trên cành ô môi. Có con chim khách đen thẩm, đuôi dài kêu như có khách đến nhà. Có bầy chim se sẻ và cu lửa, cu đất thỉnh thoảng sà xuống sân mổ những viên sạn nhỏ. Có những com chim sâu ô đen tuyền im lặng chuyền qua chuyền lại tìm sâu trong lùm cây buổi trưa hè nắng có sao…

Từng ấy ghi đậm trong trí óc non nớt của Xuân về vùng đất của Ngoại ở Châu Bình. Nhưng còn nữa, còn nhiều nữa mà Xuân hông nhớ hết. Có cái đáng nhớ hơn hết là Ngoại hông bao giờ quánh đòn, hông bao giờ trách mắng anh em Xuân. Cùng lắm là: “ Ông bà cố tổ mầy, thằng chó đẻ nầy, mầy phá lắm à nghen! ”, rồi Bà vừa cười vừa lấy tay xoa đầu Xuân.

Cái thằng mới có cở tuổi đó mà đã giúp Ngoại lượm dừa rụng từ sáng sớm, hái sa bô chê, hái cau… Hông hiểu sao Xuân khoái nhứt là cái vụ hái cau. Miệng nó ngậm con dao bầu nhỏ bén để bửa cau khi Ngoại ăn trầu. Bụng bó mo cau. Nó có bao giờ mặc áo đâu, ở trần trùng trục tối ngày. Hai chơn kẹp vào nài, Xuân leo thoăn thoắt, đến buồng cau, thử hai trái bìa rồi đến trái giữa. Một tiếng hô: Dầy rồi Ngoại ơi! là nó cứa hai cái rẹt rẹt hai bên mép. Buồng cau rời khỏi thân cây. Một tay giữ chặt buồng cau, một tay ôm thân cau, Xuân tuột một cái rột là xuống tới đất. Bỏ đó, nó đi đến những cây cau khác. Cau hiểm hay là cau lồng tôm, nó đều biết cách thử và hái được hết. Đôi khi nó hông biết tại sao có những buồng cau rất nặng, nó hông xách nổi ở dưới đất mà lại ôm trọn được buồng cau để tuột xuống. Hay là nó say mùi bông cau? À! À! À hén, nó biết rồi. Ôm thân cau tuột thật lẹ làm cho nó thấy tê tê đầu con cu. Hèn chi nó mê cái mửng đó!

Xuân ít khi nào thấy Ngoại bị bịnh, chỉ lâu lâu thấy bà nhai một vài viên thuốc tể uống với nước đậu nành rang. Trà của Ngoại là bông đực mãng cầu xiêm cắt nhỏ phơi khô, xong rang cho vàng ươm thơm lừng, đổ xuống nền đất nạp thủy thổ. Trà của Ngoại còn là đậu ma hái ngoài bờ dừa rang với đậu đỏ, đậu đen. Ngày nào cũng có ba bốn tô bự chảng nước trà loại nầy để Ngoại uống từ sáng đến chiều. Mấy hôm nào bị trúng mưa, bà sụt sùi. Bà lấy một viên thuốc tể hiệu Cữu Long Hoàn, nhai nhót nhét rồi uống một vài hớp nước hoặc hái mấy trái nhàu chín màu trăng trắng chấm với muối, ăn một cách ngon lành. Xuân hông chịu được mùi trái nhàu chín, nó khai ngấy, thum thủm như mùi nước đái con nít. Tụi Xuân thích nhứt là những ngày nắng hè gay gắt Ngoại vò cho một diệm lá sâm hái ngoài bờ dừa. Mỗi đứa ăn một tô với đường tán gọt nhỏ hay đường thùng. Có thế mà ngon, vì hổng có đường thì ăn với muối kia mà!

Ngoại tom góp đủ thứ để nuôi anh em Xuân. Ngoại bán cơm dừa sấy hay phơi khô có giá hơn dừa tươi. Từng lít nước màu nấu bằng nước dừa, từng trăm cau, từng trăm sa bô chê (khi Sa bô chê tới lứa, Ngoại kêu anh em Xuân hái xuống, phơi đầy sân một nắng, xong cho vô khạp da bò có lót lá chuối khô, đốt một bó nhang để vô giữa, đậy hùm lại độ ba ngày là sa bô chê trở mình ) và chục mãng cầu xiêm, từng bó lá dừa, từng nãi chuối tá quạ và từng ôm củi bẹ dừa, từng trái ô môi chín khô quăng lên nóc nhà.

Những thứ đó Ngoại chứa sẳn theo mùa, đợi ngày con nước rằm. Ghe bầu vào tới cầu ở rạch cái trước nhà. Ngoại đem đổi lấy gạo, nước mắm, muối, đường… Đôi khi đổi được một miếng thịt ba rọi, thịt đầu heo thì đem đi kho với dừa cứng cạy, với tép đổ nò. Cây mái dầm mọc đầy dẫy ven bờ rạch. Ngoại làm cách nào hông biết để thành món dưa chua. Xuân hông bao giờ quên được cái mùi thum thủm của món dưa chua mái dầm ăn dậm với nước mắm kho quẹt trong những ngày mưa dầm rả rích tháng bảy. Còn có cả thịt nhái, thịt cóc xào với lá nhàu hay lá cách. Và còn tô canh cải trời nữa chứ. Ờ hé!, những ngày tháng nầy có nấm mối mọc ngoài vườn. Ngoại đổ bánh xèo với nấm mối, tép chạy nò. Bánh xèo cái nào cái nấy vàng hực, ngầy ngậy mùi nước cốt dừa. Bọn Xuân ăn bánh xèo cuốn với lá đọt mọt trắng muột, lá cách, với ngò gai thơm mọc tràn sau vườn nhà.

Ra giêng, mùa nắng gắt. Nước sông mặn. Ban đêm lấy tay khỏa, nước lấp la lấp lánh như ma trơi. Bắt đầu có sam, rạm. Ngoại cho đấp đập mương vườn ngăn nước mặn tràn vô. Bọn Xuân tắm nước mặn. Mắt cay xè. Họng đắng nghét. Vậy mà cũng ráng dầm mình suốt buổi rồi chạy vào mương vườn múc nước xối ào ào. Có hôm Ngoại buồn tình. Bà bẽ cây lá cách làm roi, vừa cười, rượt bọn Xuân. Tụi bây phá nước ngọt của tao. Bọn trẻ, ở truồng dòng dỏng, tuôn chạy, rồi quay lại cười. Coi vậy, chớ nhằm con nước rong rằm và ba mươi, nước sông trở nên măn mẳn hay ngòn ngọt được một vài đêm.

Cái nò ở cái xẻo bên hông vườn nhà là nguồn cung cấp cá tép hằng ngày cho gia đình. Mỗi ngày có hai con nước lớn, nước ròng theo con trăng. Tép bạc, tép đất, bống dừa, bống cát… thì lúc nào cũng có. Còn cá kèo và những con rạm, con sam, con lươn, con lịch… chạy theo mùa, theo con nước. Cá chốt thì nhiều, nhưng dơ lắm, hay bám theo những dề cứt trôi lều bều lúc nước nhửng lớn ở ngoài rạch cái. Gặp con nước ươn, con nước kém, hoặc là những dịp rái giỗ ngoài rạch lớn thì hông có con gì. Đôi khi bọn anh em Xuân thèm quá, lén Ngoại đổ trộm để bắt tép, cua… nướng ăn. Còn con rạm, con sam, và con lươn, con lịch với con cua bọn nầy đi câu hay đi móc hang lúc nước ròng là những món ăn chơi của bọn Xuân. Hay là nghịch ngợm hơn, đào miết để bắt tèn hen nướng ăn chơi. Tư niên chỉ có mùi cá hông mà sao hổng thèm đến các thứ khác được?…

Gà chưa gáy sáng, Ngoại choàng mình thức dậy. Đâu phải tiếng chim sấm bay trong mùa nầy? Chim sấm bay nhiều đợt từ Nam ra Bắc vào mùa gió chướng mà? Tiếng gầm rú của tàu đổ bộ ngoài vàm sông Ba Lai? Chắc Tây ruồng rồi. Trong khi mọi người lo gom góp quần áo cuộn lại trong khăn, Ngoại đã nấu được nồi cơm nhão, dùng mo cau nhồi thành những cục cơm vắt, cuộn lá chuối rồi bỏ vào bao lác.

Trời chưa hửng sáng, đã có tiếng súng gần lộ ngoài. Ngoại lật đật hối Cậu Năm chui xuống lu đã chôn giữa bụi quít tàu sau nhà rồi dùng lá dừa phủ lên. Kỳ nầy Ngoại hông kịp dẫn bọn Xuân trốn vào rừng cây bình linh có nhiều bụi mây và lứt cao ngập đầu mà đẩy tụi nó chui vào đít bộ ván giữa nhà bếp. Xong Ngọai lấy vỏ dừa khô chất kín chung quanh…

Hổng biết độ bao lâu. Đột nhiên có tiếng súng nổ ngoài sau vườn và nhiều tiếng la hét bằng giọng mình và giọng gì lạ quắc mà Xuân nghĩ chắc là Tây. Xuân có bao giờ thấy Tây đâu. Nghe mọi người nói là tụi nó ác dữ lắm, đi ruồng tới đâu là bắn giết, chặt đầu người, còn bắt đàn bà con gái hãm hiếp. Nó nghe nói mà ớn luôn. Họ lại còn nói Tây mặt gạch và Tây Sê nê ga le còn hung dữ hơn nữa. Xuân nghe lén chị Năm Hơn ở xóm ngoài bị bốn năm thằng Tây mặt gạch tụi nó hiếp tới chết luôn. Xuân nhớ có lần, Ba Má dẫn Xuân đi mít tinh chống Tây ở đình Bình Khương, miệt dưới Châu Bình. Xuân còn nhớ đêm đó, nó trông thấy nhiều cờ đỏ sao vàng của ViệtMinh quơ lên quơ xuống và tiếng hô đả đảo Tây vang trời.

Bất thình lình, có những tiếng xí xô xí xào quanh chỗ Xuân và tiếng lụp cụp quăng đồ vật lên mặt ván.Cả gia đình nằm im thin thít, chết điếng, hông dám cựa quậy. Mẹ nói nếu để Tây bắt được thì nó bắt đem về bên Bình Đại; nếu hông thì nó bắn giết cho chết luôn. Sợ nhứt là đứa em út. Rủi nó khóc lên thì sao? May mà nó sợ quá, nó nín khe.

Có những thứ gì liệng len keng trên bộ ván và giọng nói của đám người càng lớn càng nhiều.Cùng lúc có tiếng gà mái kêu quang quác và tiếng la hét hô bắt nó, bắt nó. Xuân nghĩ chắc bọn lính tìm ra nơi gà mái đang ấp và đã hốt trọn ổ trứng gà rồi.

– Mầy hỏi quan lớn có đốt nhà nầy hông mậy?

– Hông. Ổng thấy nhà nầy có tượng Đức Mẹ ẳm chúa DêSu, có ông Thánh DuSe, lại còn có khung hình thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nữa nên ổng hông cho đốt.

Ông Hương Cả Lê Phùng Xuân-người thường gọi ông Cả Non- đã đến lập nghiệp ở vùng đất hoang vu Châu Bình từ lâu đời. Gia đình thờ cúng ông bà. Khi gặp một linh mục ở Đà Lạt đã trị cho ông hết bịnh ban cua dai dẳng, ông tin lời Chúa và theo đạo Thiên Chúa. Theo lời bà Ngoại kể lại, ông có rất nhiều sách viết chữ Nho, ông biết kê đơn bốc thuốc và giỏi võ. Đến đời ông Ngoại- Lê văn Hạo- con cái đều được đi học. Má Xuân học ở GiồngTrôm, còn Cậu Năm Kình “hược” ở Sài Gòn. Gia đình rất sùng đạo. Chủ nhựt nào cũng phải thức dậy từ khuya để đi lễ tận nhà thờ Giồng Khương, sát bên Lương Quới. Vùng Ba Châu có nhiều người theo đạo, nhưng chỉ có một nhà thờ đó mà thôi.

Ông Cố cho lập bàn thờ Đức Mẹ ở gian giữa nhà. Gian nầy có bộ tràng kỷ đen, cẩn xa cừ. Một bên là bộ ván gõ mun và bên kia là bộ bàn ghế dùng để ngồi uống nước trà. Phần sau là buồng ngủ, có cái “giường xe” to lớn, đựng đầy tô chén kiểu dùng vào dịp giỗ quãy. Phần sau nhà nầy là phần Xuân sợ nhứt vì bao giờ cũng tối mò và đầy muỗi.

Nằm im lìm nín thở dưới đít bộ ván, Xuân nhớ lại Ngoại đã kể với nó về Ông Tán Kế (Lê tấn Kế) bị Tây chém đầu ở Châu Thới(?), về Một On (Le Roy) phục kích đánh tan tác bộ đội của Chín Tá, Việt Minh, ở gần cầu sắt Châu Bình năm 1947(?), gần lộ giữa. Bà nói ông Ngoại kể chết nhiều lắm, chôn xác một ngày hông hết.Xuân sợ quá, lỡ Tây mà nó bắt được là nó bắn chết. Xuân mắc đái gần chết mà hông dám đái ra quần.

Cảnh vật chung quanh im ắng đã từ lâu. Cả nhà vẫn còn nằm nín thinh. Đột nhiên có tiếng gáy của con gà cồ gần bên bộ ván. Bà Ngoại và Má biết đám lính đã rút đi hết rồi nên tốc vỏ dừa hai bên. Tụi Xuân lật đật chui ra. Trên mặt bộ ván bày la liệt những lon dẹp và tròn mà bọn nầy hông biết là thứ gì. Mỗi đứa cầm lên một thứ, bắt đầu hửi. Có mùi thịt. Tụi nó liếm một cách ngon lành. Nhưng có liếm mút được một cách trọn vẹn đâu vì tiếng hét của Bà Ngọai và Má.

– Quăng đi. Mau. Có thuốc độc trong đó. Chết hết bây giờ!

Tư niên chỉ có mùi cá hông mà sao hổng thèm đến các thứ khác được? Cả bọn ngẩn ngơ. Xuân xách chét, kéo tụi em ra bờ dừa xiêm. Xuân trèo lên vặn một vài trái cho rớt rồi tuột xuống, vạt soèn soẹt ở đít dừa, chia nhau uống ừng ực. Mùi cá mòi và mùi thịt hộp vẫn còn dây dưa quanh miệng…

– Em muốn uống nước dừa xiêm thiệt ChâuBình!

– Đâu mà có?

– Có mà!

Đột nhiên Vân ngã người ôm siết Xuân. Gương mặt nàng đỏ rực dưới mặt trời nóng cháy. Và hai thân thể bị nắng trưa thiêu đốt đỏ hừng hực. Bùn non trây nhèm nhẹp, chẹp chẹp liên hồi và nước bị quậy chủm chà chủm choẹt, rột rà rột rẹt. Mình mẫy hai đứa dính đầy bùn. Gió mạnh cũng hông làm khô nổi những giọt mồ hôi tuôn rào rào như nước xổ đập… Nằm im lìm trên người Vân rất lâu, Xuân thấy ngưa ngứa ở bắp chuối. Chàng giựt mình. Có hai con đỉa mén..

– Chết cha! Quần áo mình để ở nón lá trôi tuốt luốt đằng kia rồi!

– Làm sao đây? Thôi mình lội đi lấy đi!

– Hả? Hông. Hổng đi đâu hết!

– Chứ làm sao mình lấy?

– Oánh tù tì. Đứa nào thua thì đi lấy.

– Thôi à nhen! Mình hổng chịu đi đâu à nhen. Rủi em thua thì sao?

– Thì đi lấy chứ sao!

– Mình hổng dỡn đâu à nghen! Đàn ông con trai gì đâu mà hổng biết nịnh. Như vầy, ai bắt con gái đi!

– Nịnh là hồi lúc trước cà! Chớ bây giờ ai thèm nịnh nữa. Em thua thì em phải đi lấy. Như vậy đi cũng được vậy!

– Dị hợm hôn. Coi cái bản mặt kìa. Thấy mà ghét!

– Ghét hả? Xỉa xói vô mặt anh hả? Anh mần một trận nữa cho em chết luôn thì hết ghét nghen!

– A! A! A! Thôi… thôi mà…

Bờ bao ruộng nơi khác lại bị sạt lở. Nước lại đục ngầu như nước quậy mương xúc tép. Dường như có trời mưa vì nước tuôn chảy dầm dề trên lưng Xuân. Hai cơ thể rã rời nằm yên, một phần ở bờ bao đầy bùn sình, một phần ở dưới nước. Nắng trưa hừng hực. Nước ruộng nóng hổi.

Cuối cùng thì chàng cũng phải đi lấy quần áo nằm trong nón lá bị trôi mút tí tè ở đầu bờ ruộng. Hông lẽ mình để thân thể trắng duột như miếng cơm dừa của cổ đi ngờ ngờ trên bờ đê hay lội vô đám bùn non? Chàng hông dám chạy tồng ngồng theo bờ đê, coi chướng lắm, nên lội ột ệt dưới nước sâu đến ngang háng. Đến khi trở về, hai con đỉa mén bám vào bắp đùi, Vân ngó thấy la hoảng lên. Chàng lấy tay giựt mạnh ra. Hai dòng máu rỉ ra chạy xuống đến bắp chuối.

Ở đây có nhiều đỉa mén mà ít đỉa trâu. Hai đứa hông khi nào lội tắm ở xẻo nước trước chòi. Xuân thì có thể ở trần, mặc quần xà lỏn, lặn ngụp một hai cái, xong đi lên. Chớ còn Vân bao giờ cũng mặc nguyên quần áo nhảy ùm xuống, rồi lật đật chạy lên- nếu ngày hôm đó bị dính bùn đất nhiều. Hai đứa đều sợ đỉa. Nếu mình quậy đùng đùng một lúc lâu thì đỉa mén sẽ men tới liền, chui vào những chỗ kín thì khó mà biết được. Khi mà thấy ngứa, mò tay đến thì con đỉa mém to bằng ngón tay út đầy máu. Ai mà hổng hoảng!

Cho nên tắm nước trong lu là tốt nhứt, vì nước trong lu hông bao giờ có đỉa. Có hai lu nước. Một lu dùng làm nước uống, còn một lu dùng làm nước xài và tắm. Những ngày trời mưa, hai lu nước đầy, hai người tắm giặt thoải mái. Và bây giờ, Vân luôn luôn mặc quần trong lúc tắm. Nàng vo tròn hai ống lên tận bắp vế. Ở đây bao giờ có nhà tắm đâu. Ngực trần với đôi vú hồng, chắc, thon thả của Vân có cái gì trìu mến đối với Xuân. Cả hai hông thấy mình thẹn thùng, đứng tắm giữa đồng.

Chỉ có một cái đồ múc nước làm bằng gáo dừa. Hai đứa thay phiên nhau múc, xối. Một vài ngày đầu tiên Vân còn ngại ngùng e thẹn rồi sau đó nàng tỏ ra dạn dĩ, chà xà bông rồi kỳ lưng cho Xuân. Đổi lại Xuân cũng làm như thế cho cô nàng. Cục xà bông Cô Ba Xuân đem theo cũng mau hết, vì Vân còn dùng nó để gội đầu. Có thể đến một lúc hai đứa sẽ phải dùng tới bồ bồ hay là phải tắm mà hông có chút xà bông nào cả. Cũng như bột đánh răng “Anh bảy Chà Và, Hynos” Xuân đem theo đã hết từ lâu. Đâu có gì nhiều đâu. Đó là một hộp nhôm tròn nhỏ đựng miếng bột ép cứng, khi xài dùng bàn chải ướt chà chà cho bột tan ra. Mấy ngày hôm nay chàng cũng bắt chước Vân dùng xác cau chà răng mỗi buổi sáng và tối.

Vân cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Ngày ba buổi nàng lo nấu cơm chăm sóc bữa ăn cho Xuân như một người vợ. Vân cứ để cho Xuân mặc sức làm cái gì thì làm. Nàng cứ cắm cúi lo kiếm từng con tép, từng con cá nhỏ nhít tới con cá bãi trầu lớn bắng ngón tay út, từng con ròng ròng, từng con cá lóc cửng, từng đọt rán ở mọi ngõ ngách, từng cọng rau dừa, rau hẹ ở tận bờ ruộng xa chỗ chăn vịt…. để chỉ làm một món ăn với muối ớt! Nàng hy vọng Xuân ăn ngon miệng vì mấy hôm rày hông còn gì để ăn với cơm nữa.

Một buổi chiều, Vân lục lọi được trong góc chòi một lon chao cũ, sét gần như lủng vào trong.Có vậy mà Vân cũng mừng húm như tìm được một món ăn ngon. Vân kêu Xuân inh ỏi. Xuân lật đật chạy vô ngó Vân đưa lon chao sét với vẻ mặt rạng rỡ.

– Làm sao mở đây anh?

– Để anh coi coi. Ở đây, làm gì có than bỏ lên ngay nắp cho nó chảy chì hàn ra.Mình lấy mũi dao phay đục thì nó bể.

Cuối cùng Xuân cũng tìm được chỗ mỏng. Chàng từ từ lấy mũi dao tách nhè nhẹ cho đến khi thành một lỗ lớn đủ đổ hết chao ra tộ.Những cục chao hòa chung với một thứ nước hơi đen đen vàng vàng. Xuân đưa lên mũi, hửi. Vẫn còn có mùi chao thum thủm pha lộn với mùi rượu. Nhưng để cho chắc ăn, chàng đổ bỏ nước, chỉ lấy lại mấy cục chao. Mùi thơm lừng toát ra từ mấy viên vuông vuông khiến nước miếng từ hai bên miệng Vân chảy ra. Tự nhiên nàng muốn nấu một nồi cơm thật ngon, ăn ngấu nghiến với mấy viên tàu hủ lên men ngầy ngậy đó. Phùng Xuân pha nước muối đổ vào chao, cho vô tô mới.

– Mình rán kiếm một con rắn hay con chuột, nướng cho thật vàng, rồi dầm chao chấm với đọt ráng luộc là ăn cơm quên thôi đó, hén em!

Nàng nuốt nước miếng đánh ực một cái rồi nhìn Xuân mĩm miệng cười. Những buổi chăn vịt sau đó hai đứa đã đập được con rắn bông súng nhỏ. Có rau dừa, rau hẹ, kèo nèo, cóc kèn, lại thêm một chút rau muống. Và họ đã có một bữa cơm chiều đả miệng, no cành hông.

Sau đó chúng nó bỏ đại chén đũa, hổng thèm rửa. Tụi nó ra ngồi cặp kè dựa đống rơm, nhìn mặt trời từ từ gối đầu đỏ ối lên chiếc “giường dừa” cuối chưn trời. Khi ở trên cao, mặt trời chỉ bằng cái rỗ súc, nhưng càng xuống gần hàng dừa mặt trời từ từ lớn dần bằng cái nia, bị đốt cháy đỏ rực rồi chậm rãi tiêu tan mất. Không khí hơi dịu lại và có gió thổi lai rai từ hướng Tây Nam. Một vài vệt mây đen vắt ngang chơn trời

– Mình xuống đây được bao lâu rồi hả anh?

– Anh cũng hông biết nữa. Chỉ nhớ lúc đầu có trăng lưỡi liềm. Chắc gần rằm vì mới đầu hôm, em thấy hôn, mà trăng đã lên gần một sào, lấp ló trong đám mây cà. Ánh trăng suông chớ có bao giờ tỏ đâu. Em nhớ nhà hả?

– Hông. Còn anh?

– Cũng hông nữa. Có em bên cạnh là anh vui rồi.

– Dữ hôn nhen. Nói nghe đã chưa! Chớ mới lúc đầu anh ở đâu đâu, biệt thèm ở gần em. Mất hết trơn rồi mới quay dìa em hả? Có phải vậy hôn?

– Đâu có. Khanh cũng cho anh biết chứ! Nhưng hổng lẽ anh bứng hoa cả cụm?

– Cha! Tham quá há. Hai cụm rồi đó ông, còn đòi gì nữa!

– Em hổng ghen hả?

– Ghen chớ sao hổng ghen? Nhưng giờ đi mất tiêu hết rồi. Em tha tàu cho anh đó. Từ rày về sau lạng quạng là chết ví em đó nhen. À, anh! Sao hổng thấy Tía hay thằng Tám Trò xuống thế cho mình hết vậy. Hai đứa mình ở lâu dưới nầy làng xóm họ dị nghị.

– Anh hổng biết nữa. Làng xóm đâu mà dị nghị. Ở đây đồng không mông quạnh, hổng có một bóng người. Thằng nhỏ Út Thèm nó đem vịt chăn ở đâu đâu. Có thấy nó đâu. Suốt ngày đêm có thấy ai đâu mà nói ra nói vô. Anh với em sống giống như ông bà Adam và Eva.

– Ông bà nào? Em hổng biết?

– À. Đây là chuyện KinhThánh của đạo Thiên Chúa. Sau khi mần ra trời đất, Chúa tạo ra hai con người đầu tiên là ông Adam và bà Eva. Họ sống sung sướng trong vườn địa đàng.

– Ủa? Có tới hai lận sao?

– Ừ hai. Có nam nữ mới có con cái chứ!

– SaoTiá nói với em ông Tổ loài người chỉ có ông Bành Tổ thôi.

– Còn bà Nữ Oa nữa đó chứ em. Cổ tích mình kể lại họ là hai anh em ruột. Chắc người lớn sợ kể thêm bà Nữ Oa là em ruột thì đó là sự vô luân. Ai đời hai anh em ruột lại lấy nhau được. Chúng ta hông được quyền nghe những chuyện như thế. Xã hội càng ngày càng văn minh mà em. Có những ràng buộc về đạo đức để bảo vệ gia đình.

– Nhưng em học lịch sử nhà Trần mình. Bà con lấy nhau lộn xộn.

– Lịch sử Đông Tây đâu mà chẳng vậy. Một là bảo vệ vương triều, hai là lòng tham tiền và quyền lực. Thiếu gì chuyện anh em ruột lấy nhau, mẹ lấy con, con lấy mẹ, chú, dượng lấy cháu…… Ối thôi loạn xà ngầu, kể đâu cho hết.

– Còn anh thương em thì sao?

– Anh thương em hả? Anh thương em từ thuở mẹ về với cha.

– Xạo ke dữ he! Đó là câu ca dao: Sao Vua chín cái nằm kề. Thương em từ thuở mẹ về với cha.

– Vậy chớ em thấy sao Vua chưa? Sao Vua ở xa tít tít ngoài cõi trời xa xăm. Lúc đó em và anh chưa có. Thì hổng phải là lúc mẹ về với cha sao?

– À! Anh. Sao Vua ở đâu? Em có bao giờ biết nó ở đâu đâu. Ở vườn lúc nào cũng nhìn thấy lũm trời bé tí xíu trên đầu. Còn lại bốn bề chỉ có dừa là dừa.

– Bữa nay trăng suông làm gì mà nhìn thấy được sao, em!

Cõi trời xa xăm nầy giống như nơi họ đang ở. Tối ngày hông thấy một ai ngoài hai cái đầu đội nón lá và bịt khăn rằn. Xuân bây giờ như một dân quê. Chàng đi chưn không. Móng chơn bám đầy phèn vàng khịt. Hai bắp chuối bị muỗi chích sần sùi và cỏ lác cắt chằng chịt. Hai ống quần có hai khoảng cách riêng biệt: vàng và đen.

Một hôm Phùng Xuân nhìn vào lu nước thấy tóc mình bùm xùm, râu non mọc đen mươn mướt hai bên bờ mép, hai má hóp đi. Mình có ốm đi hôn? Mình quên mất đi ngày tháng rồi. Ở đây chỉ có biết ngày đêm bằng mặt trời mọc và lặn. Và ngày nào cũng như ngày nào với một công việc đều đặn: sáng sớm thức dậy, ăn ba hột cho chắc bụng rồi cùng Vân lùa vịt đến những đám ruộng. Nhiều khi để Vân một mình, Xuân lùng xục tới những nơi xa kiếm rau, bắt ốc, dặm chuột, đập rắn. Những con rắn rằn ri cá hay rằn ri voi to và mập cũng hông khó kiếm nơi chốn đầm lầy nầy. Nhưng có điều những con rắn nầy cắn nhanh quá tợn nên nhiều khi bàn tay Xuân đầy vết răng của tụi nó.

Sau đó, trở về gốc trâm bầu nào đó mà Vân đã dọn sẳn làm cái ổ cho hai đứa. Ăn ba hột dưới trời nắng chang chang. Nằm thiu thiu ngủ. Ngọ nguậy… Rồi xớ rớ thế nào hai đứa cũng có một trận đổ lửa xảy ra. Nhiều khi nó xảy ra còn hơn gấp hai ba lần ngày ba bữa cơm. Có phương tiện gì giải trí hơn là công việc đó ở nơi nầy-nơi trời đụng đất, nước giáp mây- với sức trai gái đang độ rững mỡ được dịp mà hùng hục buông thả? Nhứt là những ngày mưa dầm rả rích. Gió lộng trời cho đến suốt đêm. Muỗi mòng hông có thì ở trong ổ rơm hai đứa cũng hì hà hì hục nhừ tử, đua nhau cùng với trời đất. (Cái thằng con trai bây giờ quên nó là đứa học trò học hành chăm chỉ bao năm qua ở Sài Gòn, phải lo học gạo dữ dằn để lấy được mảnh bằng Tú Tài. Nó quên tuốt luốt mọi thứ. Cái thằng giống đực vô trách nhiệm. Có khi nào nó sẽ có đàn con đầy đàn đầy đống và dính chặt vào đời sống ở đây hôn?)

Có đêm, chàng giựt mình thức giấc. Chung quanh hoàn toàn im lặng. Vân nằm bên cạnh, choàng tay qua ngực Xuân, thở đều đều nhẹ nhàng, bình yên. Chàng lắng tai nghe. Thời gian như dừng lại. Chàng giựt mình nhớ lại Sài Gòn. Nhớ những ngày tháng ngồi lê lết ở trường cùng bạn bè. Những ngày tháng thiệt ngây thơ bình dị, hông có những lo toan về đời sống, từ miếng ăn cho đến manh áo, chỉ ngày hai bữa cắp tập đến trường. Đôi khi, có mơ mộng đến một mối tình vu vơ thoảng qua, nhưng chưa bao giờ chàng biết đến những vui sướng của xác thịt.

Đột nhiên chỉ một kỳ nghỉ hè ở miền quê xa xăm, chàng đã tận hưởng được những giờ phút ái ân mặn nồng. Một thoáng thôi của thời gian, ba người con gái còn trinh trắng đã cho chàng nếm mùi vị yêu đương ngọt ngào. Hèn gì thằng con trai 19 tuổi như dê đực chẳng đê mê ngây ngất quên hết ngày tháng qua đi. Chàng hông còn nhớ những đoạn văn hay chàng đã đọc trong những cuốn sách nổi tiếng viết về đồng quê, về những bức tranh thơ mộng cánh đồng ruộng. Bây giờ Xuân sống như một người dân quê thực sự, quên hết mọi sự hiểu biết, lo ngày hai bữa ăn. Nói tóm lại, có bốn nhu cầu thiết yếu của con người bình thường. À! Mà lạ. Mới có mấy ngày thôi: cũng là cánh đồng, cũng thơ mộng, có trăng có nước giữa trời đất bao la mà sao Xuân hông tìm thấy những điều giống như trong sách vở chàng đọc được. Chàng đã biến thành con người khác mất rồi.

Còn Vân, lúc nào ra nắng cũng trùm kín mít đầu và hai tay. Nàng sợ nắng ăn đen làm cô ta trở nên xấu xí? Tóc Vân hơi dài nên phải cuộn quấn vào khăn rằn. Những buổi chiều, trong ngày nắng ráo, sau khi cơm nước, tắm rửa xong xui, nàng mới xõa tóc rồi đứng hong cho khô trước hiên chòi gió thổi vù vù. Nàng cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Có Xuân bên cạnh, Vân yên tâm và nàng tin rằng đó là chỗ dựa duy nhứt trong cuộc sống bình yên hiện nay.

Mặc dầu với lối sống đơn sơ, mộc mạc: tắm nước ruộng, uống từng bụm nước ruộng, nấu nướng bằng rơm và những món ăn bình thường: cá tép, chim chuột, rắn rết, ốc… nhưng nàng tận tâm lo mọi việc cho Xuân như một người vợ, một người vợ trẻ yêu chồng như bất kỳ người đàn bà trẻ nào khác. Trong mấy ngày chung đụng nầy, hai đứa chưa bao giờ xa rời nhau. Họ khăng khít, vui vẻ bên nhau như cặp chim bồ câu ríu rít liú lo. Và nàng chìu chuộng Xuân một cách tự nguyện, hông đắn đo vì cho đó là bổn phận của người vợ; kể cả đến trường hợp nồi cơm đang sôi sùng sục bên lửa rơm phừng phừng…

Kết quả là sau đó hai đứa ăn cơm sống. Hổng ai đổ lỗi cho ai, còn vui vẻ cầm đũa chỉ cho nhau là tại anh, là tại em rồi cười nắc nẻ. Tự nhiên Xuân phát chứng, bỏ đũa tiến đến bên Vân rồi nói: Nè nè, tại anh nè… Bỏ ngang bữa cơm… Hai đứa nằm bệt dưới đất, bên bếp, thở muốn hụt hơi cho đến chiều tối. mặc cho bầy vịt đói kêu ỏm tỏi. Đơn giản, Vân xem những điều đó là hạnh phúc mà mình có được. Vân nghĩ mình sống như trong một thế giới nào đó, hông một bóng người, chỉ có chim chóc muông thú, cây cỏ ở thời đại xa xưa. Nàng hông cảm thấy thời gian trôi đi và ngày qua ngày hông có gì khác lạ.

Xuân tắm trần truồng trước mặt nàng trong cơn mưa dông gió lạnh vì phải cổi quần áo để giặt. Nàng nhìn thân thể đó một cách âu yếm trìu mến mà hông ngượng nghịu. Thân thể đó có một cái gì thân thiết, vững chãi khi nàng nằm trong vòng tay Xuân. Còn nàng, trái lại hông bao giờ dám làm như Xuân. Nàng ở trần khi tắm là quá lắm rồi. Nàng thẹn thùng hay sợ Xuân trông thấy mình mẫy mình trắng muột mà dưới cơn mưa lạnh? Lúc nào cũng quần kín mít. Chỉ vén quần lên đến bắp vế hoặc nới rộng lưng quần để kỳ cọ dưới cơn mưa, xong rồi che lại. Chớ còn khi ân ái ban ngày ban mặt thì sao? Ở bờ đê, ở góc đống rơm, bên cạnh nồi cơm đang sôi… sao Vân hổng mắc cỡ? Vân hông giải thích nổi. Hay là Vân sợ Xuân trông thấy thân hình mình có nhiều biến đổi kể từ khi ở gần Xuân?

Mà có thiệt như thế. Gần hơn tuần nay Vân thấy người mình nẩy nở ra. Hai đầu vú săn chắc, bầu vú lớn hơn và đôi mông hơi nặng nề đôi chút. Có đúng là gái phải hơi trai? Đôi khi, nàng thấy Xuân nhìn nàng chằm chặp, hông hiểu để làm gì; nhưng nàng đỏ mặt mắc cỡ trách nhẹ: Anh nầy! Tiếng trách đó hình như khiêu khích Xuân. Hai đứa lại vồ lấy nhau, ngấu nghiến cho đến khi mệt nhoài… Rồi, hổng thèm mặc quần áo, cùng nằm ngữa, nhìn lên trời cao sâu, xanh thăm thẳm.

Và cứ thế cuộc sống giữa đồng hoang của đôi trai gái hông có nhu cầu gì khác hơn. Họ sống hoang sơ, mộc mạc, bình dị, quên mất đi ngày tháng. Bây giờ chẳng ai nhắc đến thằng Tám Trò hoặc Tía hoặc Chú Sáu đến để thay thế họ. Trong đầu mỗi đứa đều thầm mong hông ai đến để họ tận hưởng những ngày tháng mặn nồng bên nhau. Cả hai bây giờ tỏ ra quấn quít, quyến luyến và nghĩ rằng nếu vắng bóng người mình thương thì nổi nhớ nhung sẽ ray rứt biết chừng nào!

Một buổi chiều, chúng nhận ra trong lu còn tí xíu gạo. Nhưng mấy ngày nay mưa lên tiếp, đồng hoang mù mịt. Vịt được thả cho ăn loanh quanh chòi chớ hông đi xa. Mấy lần hai đứa bàn nhau phải đi vào trong Cái Bông một chuyến để mua thêm gạo và một chút thức ăn vì hổng biết chắc chắn ngày nào người nhà trên Lương Quới xuống.

Buổi sáng hôm nay nhiều sương mù. Biết là trời hôm nay hông mưa, Vân chống ghe đi chợ thật sớm. Có vậy mà Xuân cũng đi cùng Vân ra tận chiếc tam bản và còn ráng nói vói theo là về sớm nghe mình! Khi chiếc xuồng khuất khỏi bờ nước, mất vào đám sương dày, Xuân vẫn còn ngồi thừ một lúc lâu trên đám cỏ, tưởng chừng như Vân đi vào chỗ nguy hiểm. Chàng mường tượng con đường nước từ chòi đến Cái Bông có nhiều trắc trở, hổng hiểu Vân có qua được hông, có lạc đường hông, mà quên rằng từ chòi đến đó chỉ có một dòng nước một mà thôi. Hơn nữa Vân là gái vườn, tháo vát thì đâu có gì mà phải lo lắng. Sao hông lo cho mình khi còn một mình ngồi chong ngóc giữa đồng hoang?

Khi mặt trời lên độ một sải tay, Xuân cứ ngóng mãi về hướng Cái Bông cho đến khi thấy cây sào dài quơ lên quơ xuống chàng mới yên lòng và đứng chực sẵn ở bờ nước.

– Có mua được gì hông em?

– Có. Được mười lít gạo, một lít nước mắm, một chục bánh cúng, bánh da lợn, bánh lỗ tai heo và một ít bánh rau mơ. Bây nhiêu đó là hết phần tiền của em và của anh đưa.

– Làm sao em mang nhiều thứ như thế nầy từ chợ ra bến