- 4 -
Chiếc bắc chở đầy nhóc người và xe chậm chạp rời bến, quay đầu hướng về cù lao Phụng. Phùng Xuân đứng bên lan can nhìn dòng nước ròng đục ngầu chảy tuôn ra cửa Đại. Tiếng rao hàng, tiếng mời mọc của các em nhỏ bán mía ghim, nem bưởi chay, đá chanh, xá xị vang inh ỏi…. từ mọi phía. Người ta đứng lộn xộn, xen lẫn với gồng gánh của những người đi buôn. Ngoài cùng hai đầu chiếc bắc là những hàng xe đạp, một vài chiếc Vespa… xếp chéo vào nhau. Người người chen chúc hai bên hông của bốn chiếc xe- một chiếc xe đò Á Đông và ba chiếc xe hàng chở gà vịt- nên đi từ đầu đến cuối bắc phải luồn lách rất khó khăn. Chiếc bắc đã nhỏ, hông mui mà chuyến nào cũng đầy nghẹt người và xe, nên lúc nào cũng hổn độn và nóng nực vô cùng.
Nước ròng. Dòng sông chảy siết, hối hả, vội vã. Từng giề lục bình, từng giề dừa nước… giục giã chạy theo nước ròng đục ngầu. Bắc xuôi dòng nước, cặp dọc cù lao. Những ngôi nhà lá hì hụp sau đám bần, dừa nước. Cặc bần non rung bần bật, cà ngật cà ngật dọc theo mép bờ. Nước ròng bỏ bãi thật xa. Cặc bần cao thấp, nhỏ lớn lô nhô chen nhau trong đám bùn ở đầu bãi. Bắc Rạch Miễu đánh vòng ra xa tránh hai bãi bùn của cù lao Phụng và cù lao Thới Sơn, rồi ngược cửa Tiểu, quay đầu hướng về Mỹ Tho. Bên phải, sát bên cù lao Rồng, chiếc tàu Admiral Charner của Pháp bị Nhựt bỏ bom đánh chìm hồi 1945, trơ cột cờ cũ xì cũ xịt vươn lên trong nắng trưa. Chiếc bắc ngược nước, chạy rất chậm, rù rì như rùa bò, muốn ngừng tại chỗ. Xuân đứng sát lan can, nhìn nước đục ngầu tuôn trôi. Sao cái gì qua rồi cũng mất đi, hông tìm lại được? Thú vui vừa thấy đó, tình yêu nồng nàn vừa có đó, thoáng qua nhanh chóng. Chàng hông chộp lại đươc, hông nắm giữ được. Thời gian trôi đi là mất tất cả. Còn giữ lại được những kỷ niệm? Hông, tất cả đều mất đi, tan biến vào không thời gian vô hạn định.
Chàng nhìn về hướng Rạch Gầm. Một vài chiếc tàu nhả khói mù mịt cuối chân trời, chạy lên Nam Vang…
Nam Vang, tháng 5 năm 195… Xuân gặp Trần Văn Thành, ngồi ở băng đá, đang cầm cuốn Tái Sanh Duyên, bản in của Tín Đức Thư Xã, đường Sabourain ở SàiGòn… NamVang 195… Những ngày một mình lang thang nơi đế đô OulDong… Những ngày Phùng Xuân cùng Thành, Marin Phla bơi thuyền ở ngã ba sông MéKong và Tonlésap. Sóng vỗ bập bà bập bùng. Gió lồng lộng. Tóc của Marin Phla bay lượn lờ theo gió hú, hòa tiếng sóng vỗ vào mạn ghe. Cô bé 13 tuổi hồn nhiên, tươi mát, cười nắc nẻ giữa trời mây nước. Ba đứa bơi thuyền ngược dòng. Bãi bồi hiện ra với những đám bắp, đám dưa xanh um. Họ buộc ghe ở tuốt dưới lòng sông, đi ngược lên bờ, rồi vào những ngôi làng đầy cây ăn trái: sabôchê, cam, sầu riêng. Những người dân quê hiền lành, chơn chất, thiệt thà đãi họ những ly nước thốt nốt thơm tho, tươi mát. Nước thốt nốt ngọt ngào giống như những giọt nước mắt tiễn đưa của Marin Phla sau hơn 15 ngày chàng ở đất nước Chùa Tháp? Và bây giờ, cũng giống như nước dòng sông trôi đi, trôi đi hun hút. Kỷ niệm có bao giờ ngược thời gian quay trở lại? Ai cố bám víu nó, hông bao giờ nhìn được tương lai?
Hình ảnh Loan chắc mất mãi. Xuân cố công tìm kiếm nàng ở nhà thương Bến Tre và Mỹ Tho. Hổng bao giờ gặp lại! Sau khi ra khỏi nhà thương Mỹ Tho, chàng lê bước qua đường Ariès, đi tới cầu Quay, rẽ trái. Xe Cosara đâu rồi? Đã lâu hông còn! Nhưng tiệm sách Nam Cường vẫn ở đó?.. Những năm tháng ở trường Taberd Mỹ Tho: frère Colomban ở lớp Enfantin, frère Ignac lớp Moyen, frère Niva lớp Supérieur. Nhà thờ cũ kỹ ở con đường Hùng Vương dài hun hút. Ngôi biệt thự của ông Jacques Lê Văn Đức rộng thênh thang. Bến đò Thạnh Trị ngang qua kinh Bảo Định. Và thằng Tường, con ông bác sĩ Bá, có cái đầu chồ vồ, lúc nào cũng cà rem đậu xanh nước cốt dừa, ba cắc một cây, nay có còn hông? Mùi vị của miếng bánh mì bột gạo còn thơm lừng, dòn rụm vừa mới lấy từ trong bao bố tời và hương thơm ngọt ngào của chén cháo gạo lứt, đậu đỏ, dưa mắm đều vắng mất rồi?
Yvette ĐỗThị Đ…Yến ơi! Yvette Đỗ với mái tóc hớt bum bê ngào ngọt bông cau, nụ cười rạng rỡ và nước da bánh ít chưa phai nhòa trong trí Xuân. Tại sao Xuân vẫn nhớ mãi Yvette Đỗ? Yvette Đỗ ơi! Bây giờ em ở đâu rồi? Chàng đi về hướng trường Nguyễn Đình Chiểu, tới bến xe về Sài Gòn. Lần trong túi, chỉ còn đủ tiền mua vé. Xuân nhịn khát, nhịn đói cho đến khi xe đò ngừng ở đường Nguyễn Hoàng, Sài Gòn…
Con đường Hồng Thập Tự là con đường đặc biệt. Từ ngã sáu đến đường Lê Văn Duyệt, hai bên toàn là cây sao và cây dầu, nhưng thỉnh thoảng cũng xen vài cây thau lau (bằng lăng) có chùm hoa tim tím vào mùa hè. Đến mùa, trái sao và trái dầu tung bay theo gió như cánh bướm. Đoạn từ Lê văn Duyệt đến Huyền Trân Công Chúa, một bên là cây giá ngự (bọn Xuân thường gọi là Dái ngựa) và một bên là me. Đoạn Huyền Trân Công Chúa đến Hai Bà Trưng hai bên toàn là me. Những cây me lão cao vút cặp bên trường Jean Jacques Rousseau và dọc theo Dinh Độc Lập. Mùa hè trái rớt lộp độp sau mỗi cơn mưa dông. Rồi đoạn Hai Bà Trưng – Mạc Đĩnh Chi, một bên là giá ngự, một bên là sao cao vun vút. Có ngôi nhà gỗ lâu đời nằm ngay đầu đường Hai Bà. Từ Mạc Đĩnh Chi đến ngã ba Đinh Tiên Hoàng, bên hông thành Cộng Hòa có hàng liêm sét nở vàng rực rỡ trong những ngày hè cùng tiếng ve kêu ra rả. Rồi từ sân vận động Hoa Lư đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, hai bên lại là me cổ thụ gốc to sần sùi. Từ đường ông Trạng Trình đến cầu Thị Nghè, hai bên là giá ngự, có con dốc thoai thoải mà Xuân rất thích trên đường học trở về nhà.
Con đường thân yêu này hằng ngày in đều đều những vết bánh xe đạp, đi đi về về trong những ngày học ở trường Chu Văn An. Sao mà hôm nay nó dài thế?! Xuân lê đôi săng đan đầy nước lẹp xà lẹp xẹp, lầm lầm lũi lũi đi trong cơn mưa suốt chiều dài con đường Hồng Thập Tự. Có lúc, chàng đụt thật lâu dưới gốc me già. Tháng bảy, tháng tám thường là những trận mưa dai dẳng; chớ hông như tháng năm, tháng sáu, chợt mưa chợt nắng. Một vài chiếc xích lô đạp trùm kín mít lạnh lùng chạy qua. Phùng Xuân mơ màng ngó theo, rồi cắm cúi bước. Chàng về đến cầu Thị Nghè, rẽ trái vào ruộng dâu bên hông Ty Canh Nông thì trời cũng vừa sập tối…
Trường Chu Văn An, nằm phía sau trường Pétrus Ký, là ngôi trường bé tí so với “ParắcKý” qui mô, đồ sộ. Nó chỉ có một sân chơi nhỏ xíu với vài cây me còng gốc đen thui, sần sùi rụng lá tư niên, nhưng bù lại đầy bông nhỏ hơi tim tím, trái dài cong cong và cho bóng mát quanh năm. Giờ ra chơi, trong những ngày nắng ráo, học trò tụ tập quanh gốc me trong cái sân nhỏ; còn những khi mưa, đứng đầy ở hành lang. Nghe nói khi xưa đây là khu chuồng ngựa, hông biết có phải vậy hôn? Nhưng có những ông thầy “người Bắc kính mến và đáng yêu”: thầy Bạch văn Ngà dạy Cơ Học, thầy Trần Bích Lan dạy Triết, thầy Nguyễn Xuân Vinh dạy Thiên Văn Học… Ông Hiệu Trưởng Trần Văn Việt và ông Giám Thị Ngạc: quần áo hai ông đó lúc nào cũng chỉnh tề, cả trong những ngày hè nóng bức. Ông Hiệu Trưởng thì mặc veste. Còn thầy Giám Thị, ốm người, luôn luôn thắt cravate, mặc áo sơ mi dài tay.
Những thằng bạn Bắc Kỳ dốn của Xuân đều là những thằng ngổ ngáo như chàng nhưng rất đáng quí; nhất là giọng nói của chúng nó, trầm bỗng nghe ca kiệu hơn là giọng nói của các thằng bạn giá sống, đơn điệu. Thằng Toản, ở khu nhà thờ Ba Chuông, bao giờ mở miệng ra là có câu: địt mẹ. Còn thằng Chúc, tận Xóm Mới thịt chó, luôn luôn là: chúng ông. Rồi còn Tiến Tấn nữa chi. Ngồi bàn dưới mà lúc nào cũng thò viết chì cù lét Xuân. Lúc đầu, khi mà tụi nó địt mẹ, chúng ông là tiếp theo một cái thoi của Xuân vào vai. Rồi đuổi bắt, la hét… Về sau càng ngày càng thân thiện, cảm mến nhau.
Phần đông bọn họ đi học bằng xe đạp. Trong lớp đệ nhất A2 niên khóa 1959-1960 chỉ có thằng Tâm là con nhà giá sống giàu có. Nó đi chiếc Solex đen. Lẫn lộn trong bãi xe của đám học trò, chiếc Solex đen bóng nổi bật dưới trưa nắng làm dấy lên một chút ghen tị, nhưng hông vì thế làm cho bọn họ hông chơi thân với nhau. Những buổi tan học về là cặp kè ba bốn đứa bên hông chiếc Solex, giăng hàng ngang gần suốt con đường Hồng Thập Tự vắng teo, trò chuyện oang oang- chuyện ngây thơ của tuổi học trò. Đến vườn Bồ Rô thì rã đám. Chỉ còn Xuân và Chúc đi cho đến ngã ba Đinh Tiên Hoàng. Nhà thằng Chúc, Đỗ Bá Chúc, ở xa lút đâu tận khu Xóm Mới. Nó kết thân với Xuân, nên hai đứa thường hay đi chơi chung nhau. Ngày nào Xuân cũng đợi nó ở ngã ba Đinh Tiên Hoàng- Hồng Thập Tự. Mãi về sau nầy, Xuân mới biết gia đình nó ở Bàu Sen, Trảng Lớn, Tây Ninh.
Nhà ông Lý gần chợ Xóm Mới, sát bên con đường đá xanh lổm chổm đi lên Tân Thới Hiệp. Căn nhà đóng ván thùng thông phế thải. Mái tôn hông có pla-phông nên ngày hè rất nóng nực. Ông di cư vào Nam năm 1954, theo giáo xứ Hà Nội, về ở tại khu nầy từ đó đến nay. Cả gia đình sống nhờ vào ao rau muống khoảng một công đất, được chia thành nhiều khu nhỏ. Buổi chiều, cả vợ chồng con cái cùng cắt rau, buộc thành từng bó nhỏ để sáng hôm sau đem ra chợ bán. Những ngày nghỉ, Chúc cũng phụ xịt thuốc trừ sâu, cắt rau, rồi cùng hai cô con gái của ông Lý: cái Lan và cái Huệ đem về nhà.
Sau khi phà một làn khói dài của điếu thuốc lào và hãm bằng một ngụm nước trà đậm, ông Lý ngồi trầm ngâm một thời gian rất lâu, nghĩ ngợi về tin của người bạn ông-bố của Chúc- ở TâyNinh. Tự nhiên, sáng nay ông cảm thấy hông an tâm, có điều gì bất ổn sắp xảy ra. Bác Đỗ cho biết ngày 26 tháng giêng năm1960 (ngày 28 tháng chạp năm Kỷ Hợi), bộ đội Bảy Môn của Bình Xuyên đã đột kích giết chết rất nhiều binh sĩ của Trung Đoàn 32, Sư Đoàn 21 Bộ Binh đồn trú ở Trảng Sụp (TuaHai), nằm trên Quốc Lộ 22 (Tây Ninh). Vì là ngày 28 Tết, anh em trong đồn lo chuẩn bị tất niên nên hông đề phòng. Hơn nữa, sau mấy năm dài được hưởng cảnh thái bình, sung túc dưới thời Ngô Đình Diệm thì hổng ai nghĩ là sẽ có chiến tranh. Trần duy Lâu-người cháu của ông Đỗ làm ở phòng nhì tiểu khu Tây Ninh-cho biết tiểu đoàn 3 của Bảy Môn (Bình Xuyên) đã bị hai cán bộ tên là Bảy Khánh và Chín Đạo dụ về với Việt Minh lúc tiểu đoàn thua trận ở Rừng Sác năm 1955. Hai tay Khánh và Đạo được Việt Minh cài lại sau Hiệp Định Genève năm 1954. Từ đó, bộ đội Bảy Môn bị Chánh Trị Viên Ba Thu lèo lái theo hướng có lợi cho họ. Có nghĩa là trong trận Trảng Sụp, bộ đội Bảy Môn của Bình Xuyên đánh quân đội của Ngô Đình Diệm để trả thù, chớ hông phải là của Việt Minh. Việt Minh đã tuân thủ Hiệp Định Geneve, rút về Bắc hết rồi mà!!! Ông Tỉnh Trưởng Tây Ninh- Thiếu Tá Nhuận- chắc hông biết kẻ nào đã đứng đàng sau xúi giục đánh Tua Hai?
Cháu Lâu cũng còn cho biết có những vụ lộn xộn xảy ra trong mấy ngày qua ở tỉnh Kiến Hòa. Ngày 17 tháng giêng năm 1960 có vụ gì mà nó gọi là Đồng Khởi bị quân đội quốc gia ruồng bố càn quét; rồi tiếp sau đó ngày 26 tháng giêng năm 1960, có đám đông đàn bà con nít từ các làng Định Thuỷ, Phước Hiệp, Bình Khánh dọc sông Hàm Luông, kéo về tràn ngập quận Mỏ Cày kêu cứu là đã bị quân lính Cọng Hoà cướp bóc, hãm hiếp…
Khi ở miền Bắc, Ông đã từng nghe về những đợt Cải Cách Ruộng Đất và đấu tố kinh hồn xảy ra ở nông thôn nhưng hông hiểu một cách thấu đáo rằng Cộng Sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập với sự hổ trợ của Cộng Sản Tàu, Cộng Sản Nga đã mang lại khốn cùng cho dân tộc Việt. Ông Hồ Chí Minh rất khôn khéo. Một mặt ông chiêu dụ những thành phần yên nước-hông theo Cộng Sản- để chống Pháp, rồi từ từ ông tìm cách tiêu diệt những người có ý chống đối ông. Một mặt ông lập tức thay đổi đảng Cộng Sản thành đảng Lao Động. Những người trẻ, với lòng yêu nước nồng nhiệt, đã bị sa vào rọ lúc nào hổng biết… Khi vô rọ rồi muốn ra cũng hông được.
Ông Lý linh cảm chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc sẽ xảy ra. Quân đội Cộng sản miền Bắc chắc có lẽ sắp mở màn tấn công. Sau một thời gian cài người ở lại chờ thời cơ, bây giờ là lúc họ sắp sửa bắt đầu lộ diện. Họ cũng đoán biết có một số thành phần đang bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm như các đảng phái chánh trị và giáo phái.
Chánh phủ Ngô Đình Diệm muốn thống nhứt quân đội thành một khối. Quân đội Cao Đài Tây Ninh- trước năm 1954 là hai: phe Liên Minh của Trình Minh Thế, hông theo Pháp, chống Việt Minh lập khu kháng chiến ở vùng núi Bà Đen và phe Nguyễn Thành Phương hợp tác với Pháp. Nhưng sau đó, hai phe đều đã qui thuận về với chánh phủ vào tháng hai năm 1955.
Chỉ có quân đội Bình Xuyên của Bảy Viễn là chống lại vì có Pháp hổ trợ. Đêm 29 rạng 30 tháng ba năm 1955, bất thình lình họ nổ súng tấn công vào Bộ Tổng Tham Mưu của quân đội Quốc Gia tại đường Trần Hưng Đạo. Nhưng cuối cùng rồi cũng thua chạy vào Rừng Sác sau một vài ngày đụng độ ở khu Khánh Hội. Và quân đội Quốc Gia sau đó dẹp tan được quân Hòa Hảo của Ba Cụt vào năm 1956 ở vùng đồng bằng sông CửuLong.
Khoảng năm 1952, trận bão năm Thìn làm núi Bà Đen bị sạt lỡ, nứt một đoạn dài từ chùa Bà đến chơn núi. Đứng ở Tây Ninh có thể nhìn thấy đường lỡ đó. Thời nầy, ở chơn núi Bà Đen còn vắng teo. Tụi học trò quăng xe đạp, dấu vô đám tranh. Đám khỉ khọt khẹt nhảy la chí chóe trên cây sấu, hái trái chọi tùm lum. Sóc xòe hai chơn trước bay từ cây nầy qua cây khác. Hồng Hoàng, Cao Các lượn qua lại kêu quang quác. Tụi nó đi cùng với một vài người bạn lên tận chùa Bà, hái xoài, mít, mận. Rối sau đó, vòng qua chùa Hang.
Họ đã gặp quân đội Liên Minh mặc toàn đồ bà ba đen và còn có một người tên là Nhị Lang. Lúc đó, còn rất nhỏ, nên họ hông biết Nhị Lang là ai và hông hiểu Liên Minh là gì? Nhưng có thể Jumoir Vương Mạnh Tuấn biết rõ vì Jumoir học ở Trường Trung học Lê Văn Trung.
Lúc mới thành lập, trường nầy có mười lớp Đệ Thất. Trường qui tụ được nhiều giáo sư giỏi do ông Trần Văn Tuyên làm hiệu trưởng từ năm 1952 đến năm 1954 rồi giao lại cho Chu Tử Chu Văn Bình. Đến năm 1958 ChuTử về SàiGòn.
Jumoir đâu có bao giờ quên các ông giáo sư già, trẻ kính mến: Trương Bảo Sơn, Hồ Việt Điểu, Tạ Chí Diệp,Tạ Chí Đông Hải, Hồ Thái Bạch, Âu Quang Nhứt… Ông Giáo sư Nhứt nầy còn trẻ, từ bên Pháp về, dạy Pháp Văn, nói tiếng Việt ngọng nghịu. Ông Nguyễn Văn Thuần, giáo sư dạy Tóan, mặt búng ra sữa. Trưa nào, trống đánh thùng thùng lúc hai giờ mà chẳng thấy thầy đâu? Té ra thầy ngủ quên. Báo hại đám học trò phải chạy đi kêu thầy. Thầy đến lớp mà hai con mắt còn đỏ ké… Và ông thầy Võ Văn Hợi, dạy chữ Hán, rất đáng yêu; mặc dầu đó là giờ hay ngủ gục…
Xuân dắt chiếc xe đạp cà tàng ra khỏi căn nhà sang trọng ở đường Hồ Xuân Hương.“ Vậy là mình kiếm được chỗ dạy kèm tốt rồi. Từ đây có thêm chút đỉnh tiền, mình yên tâm đi học hơn. Nhưng hổng hiểu các cô cậu nhà giàu nầy có hay quậy hông?”
Đang đạp xe tàng tàng, bất ngờ nó gặp Chúc ở ngã ba Bà Huyện Thanh Quan và Hồng Thập Tự.
– Ê! Chúc, tao tìm được chỗ kèm trẻ ngon lành rồi?
– Ở đâu, cậu?
– Trong đường Hồ Xuân Hương nầy.
– Sao tốt thế?
– Thì tao cũng đăng báo như mầy. Bây giờ hai đứa mình đi kiếm cái gì ăn đi. Tao đói bụng rồi. Tao đãi mầy một bữa.
– Nghĩa là không ăn ở quán cơm xã hội?
– Có gì mầy chê ở quán cơm đó? Một món mặn, một món canh, và cơm ăn thả giàn mà chỉ có hai đồng rưởi. Vậy là tốt rồi. Thôi đi mầy!
Bọn họ chạy theo đường Trần Quang Khải, hổng ghé vào quán cơm xã hội. Tụi nó ngược lên Tân Định, sà vào chỗ bán cơm bữa bên gần hông chợ. Bao giờ cũng vậy, món ăn đầu tiên mà Chúc gọi đầu tiên là trứng vịt kho.
– Mầy phải bắt chước tao. Gọi là trứng dzịt thì người ta mới biết. Chớ trứng vịt, trứng vịt giọng BắcKỳ của mầy làm cô bé bán cơm sẽ ngẫn tò te ra.
– Ê! Xuân. Cậu có biết tin Việt Minh đánh đồn Trảng Sụp ở Tây Ninh không?
– Việt Minh? Việt Minh nào mậy? Họ rút về Bắc hết rồi mà?
– Cậu không xem báo?
– Thì cũng như mầy. Lo gạo bù đầu bù cổ nếu hông năm nay rớt thì kể như lúa. Có thời giờ đâu mà coi báo. Ờ! Ờ! Mà cũng có, nhưng coi mau lắm. Coi báo cọp hay báo mướn hông hà. Tao đâu có thấy báo DânChúng đăng đâu.
– Tớ khác cậu. Tớ biết được vì bác Lý có báo. Có tin khác nữa kìa.!
– Tin gì?
– Tin đàn bà con gái ở tỉnh cậu đi biểu tình rầm rộ chống chánh quyền!
– Bến Tre? Mà ở chỗ nào?
– Hình như ở Mỏ Cày.
– Mỏ Cày hả?
Sau bữa cơm, Xuân đạp xe ra về. Vừa đi vừa nghĩ ngợi. Sao hông thấy Vân nhắc đến những việc đó? Hơn nữa, gần cả mấy tháng hổng được một cái thư nào của Vân. Chàng phân vân, hông hiểu có chuyện gì xảy ra ở quê nhà mà dân chúng phải biểu tình?… Nhưng thôi, kệ nó. Xuân thầm nghĩ, mình phải ráng lo học cái đã. Chắc Vân bận cái gì đó chớ gì? Hơn nữa bây giờ đâu có thời giờ và tiền để về Bến Tre ngó thấy Vân trong ngày rồi lại chạy lên. Hông kịp đâu! Hổng chắc là cô nàng có ở tại tỉnh ngày chủ nhựt hay là về Lương Quới thì kể như trớt quớt?
Những ngày đầu xa Xuân, Vân thấy bồn chồn, nhớ nhung mông lung. Chiều nào Vân cũng ngó ra trước sân, có con đường qua lại trong xóm, mường tượng hình bóng Xuân bỗng chốc hiện ra ở đầu đường vô nhà. Những ngày sống với Xuân ở căn chòi nơi đồng không mông quạnh là những ngày Vân cảm thấy vô cùng sung sướng. Bây giờ những khi ngồi một mình, nghĩ đến lúc hai đứa hì hục bên trong đống rơm lúc cơn mưa dông đêm hay là tồng ngồng ở bờ đê buổi trưa khét nắng, Vân nghe mình mẫy nóng ran. Rồi hai má tự nhiên bừng bừng rờn rợn như có con thằn lằn chui vô ống quần. Những nụ hôn tới tấp nay còn đâu? Những vòng tay âu yếm siết chặt nhau như hai con rắn rồng Vân thường thấy ở kèo nhà đã mất rồi! Hạnh phúc! Sung sướng! Sao trôi đi nhanh quá vậy. Vân thở dài thẫn thờ…
Trong đêm tối, Vân mò mẫm với tay lấy cái khăn rằn móc ở vách lá, quấn môt vòng quanh cổ, rồi bước vội vàng ra khỏi nhà. Đêm đen mờ mịt. Nàng hông chịu bó đuốc, nên lúc đầu đi còn khó khăn. Được một lúc quen dần với bóng đêm, Vân rảo nhanh hơn.
Đêm nay có buổi họp. Tía nói rất quan trọng và kêu Vân nên đi. Hơn nữa, đây là dịp bãi trường Vân ở nhà nghỉ ăn Tết nên nàng cũng háo hức đi cho biết. Nghe nói họ nói “chữ” rất hay. Mấy hôm nay, anh ba của Vân, đã dự một vài cuộc mít tinh, nói họ từ khu 9 về. Họ mặc toàn đồ bà ba đen, quấn khăn rằn, ăn ở cùng với dân chúng ở Lương Hoà. Anh ba của Vân còn cho biết là họ hay nói u tê cu, sinh họat, công tác…. Vân thắc mắc hông hiểu u tê cu là gì? Chữ gì lạ vậy? Vân chưa từng nghe bao giờ? Mãi suy nghĩ, Vân đã đi vô sân nhà chú Chín Lê- em của Tía Vân- hồi nào mà nàng hông biết. Một cây đèn măng xông treo lủng lẳng ở đòn ngang nhà, đốt sáng một góc vườn. Có một đám thanh niên, thiếu nữ nhơn dịp kỳ nghỉ Tết cũng đi dự như Vân. Cả nhà Vân đêm nay cũng có mặt ở đây.
Hông có tiếng nói ồn ào. Chỉ có tiếng xù xì trong đám đông. Họ trông đợi coi người ta nói cái gì, vì đây là lần đâu tiên sau sáu năm- từ hồi đình chiến, tập kết- mới có cán bộ Việt Minh về làng nói chuyện. Đột nhiên mọi người im phăng phắc. Từ trong tối mờ mờ ở giữa nhà bỗng hiện ra một người đàn ông sồn sồn. Vì lâu ngày hông dùng lược, chỉ lấy hai tay vuốt từ trước ra sau, nên mái tóc chẻ hai ngay giữa đỉnh đầu. Đôi mắt sâu và sáng. Chân mày rậm rịt. Dáng đi nghiêm nghị khi bước ra vừa tới cửa.
Đầu tiên, người hay nói “chữ” gởi lời kính chào tất cả người đến tụ họp đông đủ đêm nay. Sau đó nói đến tình hình những người tập kết chưa được về là do chánh phủ Diệm đã phản bội bản ký kết đình chiến, hông chịu hiệp thương. Rồi lại còn kết án chánh quyền Diệm kéo lê máy chém đi cùng khắp miền Nam lùng giết những người Việt Minh còn ở lại. Những người nầy- theo lời người hay nói “chữ”-là những người yêu nước chân chính. Họ chịu ở lại, hợp tác với chánh quyền Diệm, yên ổn lo làm ăn, thế mà chánh quyền ác ôn bắt họ, đày ải họ, chặt đầu họ. Thế là có phải một chánh quyền tàn ác, man rợ hông? Đám đông- nhứt là những gia đình có người đi tập kết và những người từng có cảm tình với Việt Minh- hoan hô và vỗ tay rầm rộ. Người hay nói “chữ” kế tiếp nói về tình hình miền Bắc rất thịnh vượng sung túc đang tiến dần lên Xã hội Chủ Nghĩa, hông có cảnh người bóc lột người như ở nông thôn của chế độ Diệm hiện nay.Ông ta lấy thí dụ về những trường hợp nông dân bị bốc lột, áp bức ở một vài tỉnh tận miền Nam, xa mút tí tè như Cà Mau, Rạch Giá mà dân hai xã Lương Quới và Lương Hoà có bao giờ biết được?.
Rồi ông nói Miền Bắc đang được bè bạn bốn phương giúp đỡ, nhứt là Liên Xô và Trung Quốc, hai quốc gia hùng mạnh của Xã Hội Chủ Nghĩa, thành trì của giai cấp công nông toàn thế giới… Bác Hồ của chúng ta đang đưa đất nước chúng ta, trong tương lai, sẽ giàu mạnh như Liên Xô và Trung Quốc. Ông “liên hệ”với hai nước trên rồi vẽ ra cảnh là phải tiêu diệt chế độ Diệm. Phản đối chế độ Diệm đã tàn ác với quần chúng!!!
Dân hai xã hả hê với lối diễn đạt của ông Việt Minh, hoan hô rầm trời. Vân ra về, cảm thấy mình có cái gì đổi mới. Đầu óc cô gái nửa quê nửa tỉnh hình như bừng bừng nóng. Cô trở nên bạo dạn, nói nhiều và nói uyên thuyên với bạn bè về những điều mà cô vừa nghe được trên đường trở về nhà…
Kể từ ngày đó, Vân như người mê muội nói luôn miệng với người trong gia đình và cả bạn bè giống như ông Việt Minh hay nói chữ. Và Vân dần dần đã quên nghĩ đến Xuân… Những lá thư nồng thắm từ từ thưa dần. Cho đến khi Vân trở thành một cô “cán bộ” tham gia vào “công tác”, “phong trào” của “đoàn thể”, “quần chúng” thì những lá thư đó mất hẳn. Tối ngày Vân lo hội họp, học tập, “đấu tranh bản thân” để mau tiến bộ. Học gương của chị em Mỏ Cày tranh đấu chống bọn ác ôn Diệm… và thành tích của đội quân tóc dài ngày 26-1-1960, của phong trào Đồng Khởi tỉnh Bến Tre do bà Nguyễn Thị Định cùng quê với Vân phát động…
Một vài tuần sau, Vân được giao nhiệm vụ hoạt động ở trong giới học sinh tỉnh. Một công việc hông mấy khó khăn vì phần đông học sinh tỉnh Bến Tre có gia đình cảm tình với Việt Minh. Những đứa bạn ở chung nhà trọ đi học-Tân, Lân, Hùng, Trưởng, Lan, Bích, Thuỷ, Ái, Lam, Bạch đều ở dưới quê nên dễ dàng rủ ren. Tụi nó đều có gia đình đi tập kết. Chỉ có những đứa bạn tại tỉnh lỵ là khó, vì cha mẹ là những người làm việc cho nhà nước. Chủ nhựt nào bọn Vân cũng trở về, nay làng này mai làng khác để học tập. Mấy tháng nay, Vân lo mọi việc bù đầu rồi đâu còn thời giờ nghĩ đến Phùng Xuân!!!
Loan nhớ Xuân hung lắm. Mà chết cha mồ tổ, tới bây giờ mà mình cũng hổng biết tên thiệt của ảnh là gì nữa? Chỉ biết kêu theo tụi con Khanh và Vân là anh Ba thôi. Bây giờ tụi nó có còn ở trong trỏng nữa đâu? Hôm đưa Sáu từ nhà thương về, Loan lật đật chạy vào trong đồng, nhưng chòi trống trơn. Kiếm gặp thằng Tám Trò, nó nói về trển hết rồi. Hỏi thằng ÚtThèm, em nó. Thằng nầy nhoẻn miệng cười, một hồi lâu mới nói có chị trắng trẻo và anh đầu tóc bùm sùm, nhưng nay đi đâu mất tiêu rồi! Loan rầu muốn thúi ruột. Chiều chiều cứ ngó mong ra ngoài cánh đồng sau nhà, bụng dạ cứ bồn chồn, đầu óc trống rổng. Ôi! sao nhớ ơi là nhớ. Có cái gì làm cho nàng cứ ngủ chập chờn, lúc nào nằm mơ cũng thấy mình và ảnh quấn quíu nhau giữa cánh đồng. Nàng thấy rờn rợn người!
Loan thấy mình nhợn cơm. Hay là dang nắng nhiều quá nên bị cảm? Mà tại sao lại là mùi gì tanh tanh như cá thì Loan chịu hổng nổi? Có lúc giữa bữa cơm, Loan bỏ đũa đi mau ra ngoài đống rơm sau hè, ngồi thở dốc như muốn ói. Rồi mở chai dầu Nhị Thiên Đường, lấy tay thấm một miếng thoa vô đầu lưỡi. Cũng hông bớt. Thoa dầu lên hai màng tang cho nó nong nóng coi có đỡ nhợn hơn hôn. Cũng hông. Rồi tự mình bắt gió, giựt chơn mày, cạo hai bên cổ. Những thứ đó hổng làm cho Loan bớt nhợn. Tại sao kỳ vậy?
– Má à? Sao cả tháng nay con hông thấy thèm cơm. Nhiều khi ăn vô còn muốn ói nữa Má, cứ ớn ớn hoài. Con hổng mần được cái gì hết.
– Thì ba cái thuốc cảm mạo cao đơn huờn tán, mầy lấy dộng vô coi, coi sao. Cái thứ của mầy mạnh như trâu cui mà bịnh cái nổi gì.
– Con uống nhiều rồi má mà sao hổng thấy bớt.
– Vậy sao kỳ vậy?
– Mầy hôi cơm tanh cá?
– Ờ. Con ăn sao hổng thấy ngon mà còn muốn nhờn nhợn ra nữa.
– Mầy có thấy cần cổ mầy hơi giựt giựt với lợi hai đầu vú mầy hơi căng cứng hông?
– Sao kỳ quá! Có Má à!
– Mầy hông có tháng nữa à?
-Tháng nầy con chửa thấy.
– Vậy là chết cha con mụ nội con rồi con ơi! Mầy có ngủ với thằng nào trong đồng hôn? Đố khỏi mầy có chửa rồi đó nghen mậy! Sáu mầy mà biết được, chắc ổng giết mầy lắm chớ hông.
– Đâu có má! Má nói bậy hôn hè!
Lời nói của bà Sáu Lục làm Loan sực rùng mình. Chết cha, vậy là có chửa rồi hả? Sao mà mắn quá vậy? Chỉ có một đêm và một buổi trưa mà sao lẹ vậy. Rồi Loan bồn chồn, xốn xang. Người như mất hồn. Nhiều khi nhìn vào khoảng trống thấy hình như mình ở tận đâu đâu. Cũng có nhiều lúc thoảng như nhìn thấy được hình ảnh Xuân ở gần đâu đây. Sau giờ cơm chiều, lo rửa chén bát và cho heo ăn xong, Loan thường ra ngồi bên đống rơm sau hè, ngó mông ra ruộng lúa đang trổ đồng đồng. Mùi lúa thơm như mùi bông chuối xiêm mới trổ. Loan chặc lưỡi: Làm sao gặp ảnh bây giờ? Tên ảnh hổng biết. Biết đâu mà kiếm? Người như chim trời cá nước. Mình thì ngu dốt. Một chữ cắn làm hai hổng bể. Tối ngày chỉ biết lui cui lo nấu nướng, hái rau muống, sắc chuối trộn cám cho heo ăn. Quanh năm suốt tháng làm quần quật hông hề bước chơn ra khỏi làng. Nói đến đi Bến Tre như một chuyến đi xa, xa lơ xa lắc, chớ đừng nhắc tới lên SàiGòn. Loan hông mường tượng Sài Gòn là như thế nào? Nhớ lại lần đầu tiên đi Bến Tre, mình ngơ ngơ ngáo ngáo, đụng thứ gì cũng ngó, thấy cái gì là lạ cũng đứng lại nhìn làm cho bà Sáu Lục phải buột miệng nói cái con nầy như là mọi mới ở rừng rú về.
Loan lấy tay xoa xoa cái bụng xem coi lời nói của Má có đúng hông. Đâu có gì đâu? Chưa thấy bự lên mà? Loan xoa đi xoa lại nhiều lần để chắc rằng cái bụng của mình hông có lớn. À! dễ quá mà. Loan xé một khúc giây chuối, đo ngang vòng bụng quanh rún, rồi lấy tay làm dấu, đưa lên miệng nghiến một hồi cho đứt. Con Én dấu khúc giây vào đầu chuồng heo. Loan tự nói ai mà biết khúc dây gì?
– Con Én. Mầy đâu rồi? Mầy lên đây tao biểu? Mầy ngủ với thằng nào, mầy phải nói với tao. Lúc mầy chăn vịt ở trong đồng phải hôn? Cái ngữ đồ con hư. Cái thứ đồ đĩ ngựa, mầy nứng l…. lắm hả nên mầy để cho thằng nào nó đ… mầy. Mầy ngủ với thằng cô hồn nào, mầy nói đi!
Bà Sáu Lục ngồi chân hai tréo trên ghế đẩu giữa nhà đang tru tréo. Mấy hôm nay bà thấy cái bụng Loan càng ngày càng bự. Từ khi bà bắt đầu nghi con gái tanh cơm hôi cá, rồi bà bất thình lình vạch ngực con gái mình, thấy ngực nó to lên. Hai cái núm vú nổi lên chồ vồ. Bà thất kinh thấy cái bụng hơi ển lên(?)Bà biết cái con Én mầy hư rồi. Bà mong cô ta lớn lên có chỗ cưới gả đàng hoàng. Chớ hông như con chị của nó, bỏ nhà đi theo trai mất tiêu, hổng thấy mặt mày gần cả năm rồi, hông hiểu có con có cái gì chưa. Nhớ con, nhớ cháu làm bà rầu thúi ruột.
– Quánh cho chết cha mồ tổ nó đi! Đồ con gái hư. Đồ đĩ ngựa!
– Ông làm gì dữ vậy? Ông lấy roi mây quất nó túi bụi, bầm mình bầm mẫy nó hết trơn.
– Kệ tui. Con tui, tui quánh đâu phải con bà đâu? Đồ con gái gì đâu mà hư quá mà, mới nức mắt là đã mê trai rồi. Kỳ nầy tui quánh cho nó chết luôn rồi đem bỏ trôi sông.
– Ông nói vậy chớ đâu có được. Nói với nó nhỏ nhẹ để hỏi nó cặp với thằng nào. Rồi bắt người ta mang trầu cau tới cưới xin nó đàng hoàng chớ có gì đâu!
– Sao từ hôm đó tới nay nó hổng nói, để tới bây giờ mang cái bụng chình ình mà nói cái nổi gì. Ai mà gả thứ cái đồ chửa hoang. Mầy nói hôn? Bữa nay tao phải tra cho ra lẽ mới được. Mầy ngủ với thằng nào, hả con đĩ chó kia? Tao đơm cho tàn hết cây chổi chà nầy cho mầy chết luôn. Mầy có nói hôn?
– Trời ơi! Ông ơi! Ông quánh nó như vầy thì nó hư thai, nó đổ nợ ra nữa cho ông coi.
– Bà dang ra. Để tui dện cho nó cái ghế đẩu nầy cho nó bể đầu chết luôn. Tức quá nè. Trời ơi!
– Uý mèn đất ơi! Ông nện nó một cái còn gì cái đầu của nó. Đầu nó chảy máu tùm lum rồi kìa. Én, mầy chạy đi để Sáu mầy quánh một hồi là mầy lết đi hổng nổi nữa đó.
Từ lúc bị ông Sáu Lục dộng một cái ghế đẩu vào đầu, con Én tá hỏa tam tinh, la lên chết con rồi Sáu ơi. nàng lật đật chui vào núp dưới đít bàn. Loan nghe đau trên đầu. Cổ lấy tay sờ lên. Có chất nước nhầy nhầy. Một dòng máu chảy xuống má. Cô ta hết hồn hết vía, thót chui ra khỏi bàn, chạy te ra sau hè, lủi vào kẹt hai đống rơm. Đầu bị tét một đường dài. Máu rỉ ra trộn với tóc xù ngù. Quần áo ướt mồ hôi chèm nhẹp làm cho Loan tủi thân thêm khóc rấm ra rấm rức. Nhưng được một lát, Loan nín, mở mắt trao tráo và suy nghĩ: nhứt định phải đi chớ hông thể ở đây được. Mà đi lên Sài Gòn biết đường đâu mà kiếm được anh Ba? SàiGòn xa quá, xa lắm. Nàng nghe qua mà chưa tới bao giờ. Mà lên đó ở với ai? Hổng có bà con họ hàng thân thích, đi lang thang bị ma cô dụ bắt làm đĩ thì kể như vô rọ. Nghĩ đến đó cổ rùng mình lo sợ… Nghĩ quanh quẩn, Loan thiếp đi hồi nào hông hay…
Tư Én giật mình thức dậy khi nghe tiếng gà cồ nhốt trong bội gáy canh một. Nàng nhìn lên trời. Triều sao giăng giăng. Làng xóm êm ả. Tư Én rón rén đi vào sau bếp tới chỗ ngủ, nhè nhẹ rút hai bộ quần áo và cái áo sơ mi sọc rằn đen dấu trong đáy giỏ, bước ra khỏi nhà trong đêm tối.
Vừa dò có tên mình trên bảng ghi những thí sinh đậu oral là Xuân dọt mau về nhà cho má hay và xin phép về Bến Tre. Rồi hông kịp tắm rửa, chàng dồn lẹ một vài bộ quần áo vô túi xách. Ba chân bốn cẳng Xuân dắt xe ra, đạp rút đến bến xe. Chỉ còn một chuyến Á Đông cuối cùng về BếnTre lúc hai giờ chiều… Khi lơ xe bỏ hàng xuống ở ngã ba Tháp, mặt trời đã nằm sát ngọn dừa bên Cái Cối. Xuân lật đật thót lên xe còng lưng đạp rút về Lương Quới. Ra khỏi Mã Đá ở Mỹ Lồng thì trời nhá nhem. Ngó tới ngó lui, Xuân thấy có một mình mình đi cu ky trên con lộ đá vắng lặng nầy. Nhái bầu, nhái bén ò e trong các ruộng lúa dọc hai bên đường.
– Vân đâu rồi hả thím?
– Ôi! Mấy hôm rày nó đi họp hành hà rầm!
– Họp gì thím?
– Thì ba cái vụ đoàn điếc gì của nó thím hổng biết nữa. Ban ngày thì đi công tác. Ban đêm thì họp. Nó mới vừa ra khỏi nhà với Tía nó là mầy về tới.
– Họp ở đâu lận thím? Thím biết chừng nào Vân mới về hông?
– Đâu ở ngoài vàm. Hổng biết chừng nào nó về. Có khi khuya lơ khuya lắc, tao ngủ một chập còn chưa thấy hai cha con nó về.
Từ lúc ở Cái Bông về, bà Sáu Xe ngầm nghĩ là hai đứa nầy có gì rồi. Chớ sao cái thằng nầy săn đón cái con Vân dữ vậy. Về đến nơi là hỏi con nhỏ đó chớ hổng có hỏi thăm đến hai ông bà. Bà cũng cầu mong như vậy. Hổng biết hai đứa có cái gì chưa? Rủi con nhỏ đó nó mà có chửa trước là…
Phùng Xuân mệt quá, ngã lưng xuống bộ ván, vói tay lấy cái gối làm bằng dừa điếc kê vào sau ót. Chất cứng của sơ dừa làm chàng thoáng rùng mình. Xuân nghĩ miên man cái gì là đoàn, cái gì là ban ngày đi công tác rồi ban đêm đi họp. Vân có gì thay đổi rồi sao? Vân có dính líu gì tới những vụ như Chúc đã nói với Xuân hông? Cho đến thiệtt khuya, cây đuốc chập chờn ở đầu góc vườn rồi tiến vào nhà. Ông Sáu Xe đi vô trước, còn Vân đứng lại dụi tắt đoạn cuối của tàu lá dừa đang cháy.
– Ủa! Anh mới về đó hả?
– Về hồi chiều.
– Thôi khuya rồi. Anh đi ngủ đi.
Vân đáp lại có bây nhiêu đó rồi lẳng lặng đi vào buồng. Phùng Xuân cảm thấy có cái gì đó hụt hẫng. Chàng im đi một lúc lâu, buồn chán nhìn mông lung ra ngoài vườn dừa tối như mực. Xuân linh cảm có sự chia cắt. Và mầm móng của sự rạn nứt sắp bắt đầu. Chàng tự hỏi cái gì làm thay đổi và chàng cũng hông biết trả lời thế nào….
– Uả! Sáng nay em đi nữa hả Vân?
– Ừa. Bữa nay còn họp một bữa cuối cùng để phân công tác.
– Ủa, chú thiếm đi đâu hết rồi.
– Ổng bả đi xuống vườn rồi. Anh ở nhà chơi nhen.
– Vân. Lại đây với anh. Cho anh ôm em, hun em đi.
– Em mắc đi họp rồi. Khi khác đi.
– Khi khác nào nữa? Lại đây
– Hổng được.
Chỉ có mấy tiếng đó thôi, rồi Vân lật đật đội khăn rằn, vói tay lấy cuốn tập học trò một trăm trang, bước ra khỏi nhà. Xuân ngao ngán nhìn theo bóng Vân khuất dần dần nơi con đường mòn dọc quanh vườn dừa. Những giây phút mặn nồng ở cánh đồng Mỹ Nhiên đâu rồi? Những cái hun nóng hổi đâu rồi? Chàng tự hỏi nhiều câu hỏi mà hông có lời giải đáp. Thời gian trôi đi, hông còn có cái gì có thể quay lại được. Tất cả đã hết rồi sao?
Phùng Xuân chán nản nằm xuống bộ ván ngáp một cái thật dài. Loay hoay một lúc chàng ngồi dậy. Một tô canh rau cải trời và một trách cá bống dừa kho khô để sẳn ở trên bàn. Xuân chợt thấy một cuốn tập học trò năm mươi trang nằm kế bên bình trà làm bằng vỏ dừa. Cuốn tập nhầu nát. Cái bìa cứng trở nên mềm xèo, có vẻ như được cuộn đi cuốn lại nhiều lần. Hai bìa góc gập lại như lỗ tai chuột. Chàng mở ra. Những dòng chữ xiên màu tím nắn nót thật đẹp bằng ngòi viết lá tre. Mở đầu là bài hát Quốc Tế ca… những bài hát ca ngợi các nước Cộng Sản, nhứt là Liên Xô: “Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa….”Tiếp theo là ca ngợi các lãnh tụ. Phùng Xuân lật tiếp những trang sau, chàng thấy có bài thơ:
So ra tôi bác cũng anh hùng,
Cũng bậc mày râu, cũng kiếm cung.
Bác dẹp giặc Nguyên, thanh kiếm bạc,
Tôi đuổi bọn Pháp, ngọn cờ hồng.
Bác đưa dân tộc khỏi nô lệ,
Tôi dắt năm châu đến đại đồng.
Bác có linh thiêng cười một tiếng,
Để cho cách mạng chóng thành công.
Xuân thoáng nghĩ. Có phải chàng đã từng đọc được bài thơ bảy chữ tám câu nầy ở đâu hông, nhưng chàng hổng thể nhớ lại. Bài thơ ghi tên tác giả là Bác Hồ. Có phải vậy hôn? Ông ta sánh mình như là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn?…
Khu bán sách cũ dọc theo đường Lê Lợi, đối diện với nhà sách Khai Trí, ở sát bên nhà vệ sinh công cộng, bao giờ cũng khai mùi nước đái nồng nặc. Xuân thích la cà ở đây, vì thỉnh thoảng mua được vài cuốn sách cũ giá rất rẻ. Nơi đây là cả một rừng sách cũ, thượng vàng hạ cám, bày bán dọc theo vĩa hè. Từ những cuốn bói toán, hồi ký, tiểu thuyết xưa của Lan Khai, truyện của TCHYA, của Phạm Cao Củng, tập thơ của Anh Thơ đến Phi Lạc Sang Tàu, Thu Hương, Chị Tập của Hồ Hữu Tường, cuốn Nửa Bồ Xương Khô nhầu nát, giấy vàng ngã màu của Vũ Anh Khanh, cuốn Tế Điên Hoà Thượng và cuốn Trận Giặc Con Nít v.v… đến những cuốn sách loại bỏ túi “livre de poche” bằng tiếng Pháp còn mới nguyên và cũ: En famille, Sans Famille của Hector Malot…., Graziella của Lamartine và cả La Mère của Maxim Gorky nữa. Chính nơi đây, Xuân đã mua được cuốn: Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc của Hoàng Văn Chí, và cuốn Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử của Nguyễn Kiên Trung.
Nhà sách Khai Trí gần ở góc đường Lê Lợi và Công Lý.Đó là một căn phố nhỏ thôi, nhưng sách chất đầy nghẹt. Người ta ra vô nườm nượp. Họ mua nhiều lắm. Chắc chỉ có Phùng Xuân là coi cọp? Ông chủ và các cô bán hàng ở đây xem ra rất dễ dãi, chẳng bao giờ ngó ngàng tới những khách hàng hay mở những cuốn sách xem tới xem lui hàng giờ. Xuân rất thích vào đây trong những ngày cuối tuần để xem cọp tạp chí nước ngoài và những cuốn La vingt-cinquième heure của Constantine Virgil Gheorgiu, cuốn Le zéro et l’infinie của Arthur Koestler. Những cuốn nầy thì dễ gì tìm được ở những khu chợ bán sách cũ. Tiệm sách Lê Phan cũng hổng có, mà ở Xuân Thu thì mắc lắm. Xuân đành tìm một kẹt xó xỉnh nào đó của Khai Trí đọc cọp ngấu nghiến từng trang từ ngày nầy sang ngày khác. Với vốn liếng tiếng Pháp thấp kém, chàng cũng hiểu được một vài phần ý nghĩa trong cuốn sách của Arthur Koestler. Cộng thêm những cuốn sách của Hoàng Văn Chí và Nguyễn Mạnh Côn giúp Xuân có chút ít ý niệm về một thế giới Cộng Sản.
Thư viện Gia Long im ắng khuất mình dưới những hàng me già, hông có vẻ gì đồ sộ, đối diện với Bộ Quốc Phòng, thường hay mở cửa đến tám hay chín giờ đêm. Phòng ốc nhỏ nhắn. Bàn ghế cũ kỹ mù mờ dưới những bóng đèn tròn hông đến 100watt. Phần đông khách vào đọc là sinh viên, đến ghi danh lấy sách rồi tìm một góc nào đó im lặng làm việc. Hông một lời nói. Có phải nơi đây Xuân đã có một lần đọc đươc bài thơ trên kia hôn? Chàng hông nhớ nữa. Bao nhiêu chữ nghĩa trùng trùng điệp điệp làm cho lủy ( từ tiếng Pháp:lui, nó ) trở nên mù mờ. Hay là chàng đã đọc ở đâu?Trong những cuốn tập bỏ vương vãi đâu đó của những gia đình có người tập kết năm 1954? À. Có thể là đúng rồi. Dì Tám ở Cát Lỡ, Giồng Trôm, có người con là anh Hai Các theo Việt Minh. Ảnh đi tập kết. Và chắc là Đẹp- Thanh Tùng- em anh Hai Các, người con gái bằng tuổi Xuân, có thân hình nẩy nở trước tuổi dậy thì, cho Xuân mượn đọc những bài thơ của Tố Hữu. Nhưng cặp mắt liếc tình tứ của Đẹp đã ghi trong ký ức của Xuân nhiều hơn là những vần thơ đó.
Phùng Xuân hông màng coi hết cuốn tập. Chàng quăng trở lại trên bàn. Xuân cuốc bộ ra lộ cái-con đường làng chạy từ chợ Lương Quới cho đến bến đò Thủ Ngữ ( Lương Hòa )- đi dọc theo vườn Cô Xanh, thủng thỉnh lần ra bến đò. Vắng teo. Cả một cây cầu nhỏ cho ghe cặp cũng hổng có. Chỉ có khúc thân dừa gác sơ lên bờ. Nước đang lớn. Gió thổi mạnh. Tiếng sóng nhỏ vỗ lách tách vào đám lá dừa nước. Nhiều dề lục bình lững lờ trôi, mang theo những bập dừa hì hụp trong dòng nước. Đây là con sông BếnTre, một nhánh của sông Hàm Luông, bắt đầu từ gần bắc Hàm Luông chạy dài cho đến vùng Giồng Trôm. Từ sông Bến Tre tỏa ra nhiều rạch, xẻo, mương chằng chịt, len lỏi nơi những vườn dừa, vườn cây ăn trái, cánh đồng ruộng như một chưn rít ăn thông với sông cái. Người ta có thể dùng những xuồng ba lá, ghe ba lá hai kèm, năm lá hai kèm, ghe bầu đi xuyên ngang từ vùng Mỏ Cày qua Chợ Gạo ( Gò Công ). Nếu hông phải là người lớn lên với sông nước, với đồng ruộng, với vườn tược khó có thể cảm nhận được mùi bùn pha lẫn trong dòng nước đục ngầu chảy khắp hang cùn ngõ ngách.
Nước đầy. Con sông nổi cơn. Những đợt sóng bạc đầu trắng xóa bủa cùng khắp. Hình như giữa dòng nước có chiếc ghe năm lá hai kèm nhảy sóng nhấp nhô. Một cô gái bé nhỏ độ mười tuổi bơi lái, đang ra sức chống đỡ con thuyền cho thằng em trai ngồi mũi, thò rổ vào những dề lục bình vớt cá bống trứng. Trời nắng chang. Thằng bé dang tấm lưng trần trùng trục. Da đen nhánh, nhưng nếu lấy tay cò cọ lên sẽ thấy mốc cời vì thằng nhỏ có bao giờ tắm sạch đâu. Hô đi tắm là nhảy một cái ùm xuống mương, xẻo, rạch. Lặn hụp, lặn hụp, quậy đùng đùng dậy bùn, đục nước cho đã. Lấy tay vò vò đầu. Xong rồi leo lên bờ đứng cho khô. Thằng bé có bao giờ biết cục xà bông, cái khăn là gì đâu. Phù sa sông nước qua bao năm tháng đắp thêm một lớp trên da đen xì. Ơ kìa, bây giờ chàng nhận ra hình ảnh hai chị em chàng của hơn mười năm về trước…
Buổi tối Vân rủ Xuân đi dự mít tinh ở gần búng ông Khả. Ánh đuốc chập chờn khắp các đường mòn trong vườn dừa. Người ta nói chuyện râm rang. Bên kia rạch Lương Quới, nhiều người kêu ơi ới để bên nầy bơi ghe qua rước họ. Đoàn người có vẻ háo hức hơn là đi coi chiếu bóng ngoài chợ. Khi gần đến chỗ mít tinh, Vân dắt Xuân len lỏi trong bóng đêm mờ, lần mò đến một cây lêkima gần sát sau nhà.
– Anh đứng đây nhen, coi mít tinh. Khi nào xong, em tới dẫn anh dìa.
– Em đi đâu?
Hông kịp nói một lời, Vân lủi vào trong đêm tối. Xuân ngỡ ngàng, hụt hẫng. Y ta cảm thấy mình bị bỏ rơi. Người ta tới càng lúc càng đông. Trước sân nhà, ba cái đèn măng xông bôm hết cỡ, kêu khè khè, tỏa ánh sáng ra đến tận bờ dừa. Xuân đi vô ít bước nữa, đứng sau bầy con gái đang nói cười tíu ta tíu tít. Đám đông chợt im lặng khi có người đàn bà mặc bộ đồ bà ba ra đúng giữa hiên nhà nói huyên thiên mà Xuân hông nghe rõ. Sau đó là tiếng vỗ tay rần rần. Khi tiếng vỗ tay vừa dứt, một người đàn ông cỡ khoảng ba mươi tuổi ra đứng nói có vẻ hùng hồn, y dơ tay lên dơ tay xuống liên tục. Phùng Xuân loáng thoáng nghe những tiếng: bè lũ Mỹ, Diệm; đế quốc xâm lược… Mỗi lần như thế, Xuân nghe tiếng hô đả đảo vang rền. Đám đông lại im lặng. Bất ngờ, Xuân thấy Vân hiện ra giữa hàng hiên. Hình Vân hiện rõ nét trước cái phông đen phía trong nhà. Gương mặt nàng tươi tắn, rạng rỡ đầy tự tin. Xuân thấy môi nàng mấp máy liên tục nhưng hông nghe được gì vì tiếng vỗ tay liên tu và tiếng la hoan hô đả đảo rùm trời…
Sau đó là màn nhảy múa. Một đám thanh niên và thiếu nữ, có lẽ là những học sinh trung học ở trường Tân Dân hoặc trường Trung Học Công Lập Kiến Hòa, bắt đầu vừa nhảy vừa ca: Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa…… Họ dùng tàu cau khô kết thành hình những con ngựa. Ngọn tàu cau phất pha phất phới như những cái đuôi ngựa, chạy vòng khắp chung quanh sân nhà.Có như vậy mà họ hừng chí la hát vang trời. Được môt lát thì cũng có một mớ đàn ông đàn bà nhập cuộc. Thế là đám đông bên ngoài cũng hát theo, vỗ tay theo nhịp hát rần rần cả khu vườn. Chỉ có một bài hát mà hát đi hát lại cả chục lần. Đám đông bị ngây hình như điên. Một vài cái đèn măng xông được đem xuống, bôm thêm. Ánh sáng lại bừng lên. Thế là họ cứ ca đi ca lại hoài mà hổng chán cho đến khi hai cái đèn tắt phụt. Bóng tối hình như làm chùn khí thế. Đám đông sực tỉnh, hết ngây. Người ta lại nói chuyện ồn ào được một chút rồi lũ lượt ra về. Xuân trở lui lại gốc cây lêkima, đợi Vân rất lâu. Bóng cô nàng lờ mờ đến.
– Có vui hôn anh?
– Ơ….
– Vui quá hé! Thôi mình đi về.
– Mình hông kiếm chỗ nào ngồi nói chuyện như trước được hả em?
– Hổng được đâu?
– Sao vậy?
– Ơ!
Hông có đuốc. Trăng cuối tháng nhô lên gần đầu ngọn dừa. Lối mòn lỗ chỗ đốm trăng suông. Khi đi ngang qua một đám chuối, Xuân vụt ôm Vân, lôi vào sau lùm, hun tới ta tới tấp. Hổng kịp phản ứng, Vân té nằm xuống. Cô nàng chưng hửng. Bàn tay xừ lủy tung hoành, xông xáo mọ mậy và rồi mặc sức quậy tanh bành từ trên xuống dưới. Lủy tần mần, tưng tiu một hồi lâu…Rồi như nai chịu đèn… Ẻn ( từ tiếng Pháp elle: nó ) im rẻ rè re… Thình lình, Vân hất mạnh Xuân ra, kéo quần lên và đứng dậy.
– Hông được đâu anh.
– Sao hông? Chớ mình đã hổng từng làm như vậy sao? Làm bộ hoài.
– Bây giờ thì khác rồi. Hủ hóa lắm. Hổng làm như vậy được nữa đâu!
– Cái gì? Hủ hóa là sao? Chữ nghĩa gì mới lạ vậy?
– Em là cán bộ gương mẫu, hông được hủ hóa.
– Hồi nào vậy em?
– Ơ. Nhưng mà em khác anh. Phải đợi tổ chức cho phép.
– Anh khác em ở chỗ nào? Tổ chức nào? Em có nói với họ chuyện của tụi mình chưa?
– Chưa. Em còn đang phấn đấu.Em chưa tiện nói.
– Thế thì những ngày tháng chăn vịt ở đồng Mỹ Nhiên kể như hổng có, phải hôn? Cái gì làm cho em thay đổi mau quá vậy?
– Ơ! Anh hãy đợi đi
Tiếng cười nói từ xa dội lại. Và một tốp người hiện ra. Vân vội ngoe nguẩy te te bước đi, sợ đám người trông thấy, hông để chàng nói thêm một lời nào nữa. Xuân vụt hiểu có cái gì chia cách hai đứa. Chàng hông đoán nổi ở phía bên kia họ làm cái gì để Vân thay đổi nhanh chóng như vậy.
Những người Việt Minh miền Nam? Họ có khác với những người Việt Minh Cộng Sản ở miền Bắc hôn? Thật ra với sự hiểu biết quá ít ỏi và nông cạn hông làm sao Xuân hiểu rõ vấn đề nầy. Một vài cuốn sách của Hoàng Văn Chí, Nguyễn Kiên Trung và vài cuốn sách tiếng Pháp đọc lóm vội vàng làm sao cho Xuân có thể nhận định được rõ ràng Cộng Sản ngoài Bắc và Việt Minh trong Nam? Thời Xuân mới lớn lên xem được hai cuốn phim Ánh Sáng Miền Nam và Chúng tôi Muốn Sống thì chỉ để giải trí vậy thôi, chớ hông thể hiểu rõ tại sao người miền Bắc trốn đi như vậy. Ngay lúc đi học, các thằng bạn Rau Muống chẳng bao giờ nhắc đến những điều gì xảy ra ở miền Bắc theo như những cuốn phim mô tả. Tụi nó hông sống trong vùng đó hay là cha mẹ hổng nói lại? Nhà trường cũng hông dạy.Hổng có giờ chính trị trong chương trình giáo dục và sách vở thì quá ít để tìm hiểu.
Đâu có phải những giờ Huấn Luyện Quân Sự Học Đường ở năm lớp Đệ Tam hun đúc được ý chí và tinh thần chống Cộng Sản miền Bắc? Đó là thời gian học sinh mặc những bộ đồ kaki vàng, mang giầy Bata trắng toát với bê rê màu cứt ngựa, tập hợp trong dãy nhà rộng lớn ở đường Nguyễn Hoàng.Họ nghe giảng viên nói thao thao mà chẳng hiểu gì. Kết cuộc là được bắn ba viên đạn ở trường bắn Thủ Đức.
Phùng Xuân hông buồn nói thêm một tiếng, lầm lũi lần bước theo con đường gập ghềnh loang lỗ trăng suông, lẽo đẽo theo sau Vân. Lại mất một người yêu nữa rồi. Vân hổng thèm hỏi mình có thi đậu hay hông và tại sao anh lại về lúc nầy? Hông để một chút ít thời giờ hai đứa ở bên nhau? Quên mất tất cả những gì toan tính ở cánh đồng hoang. Sao lại mau thế? Khanh gắn bó lâu dài, rồi chợt mất. Loan thoáng qua như một bóng mây. Và Vân, sao lại xa cách một cách vô lối như vậy?
Xuân hông vô nhà. Chàng đứng dựa thân dừa, chán nản nhìn vào khoảng vườn mù mịt hông biết đến bao lâu cho đến khi nhận ra trăng đã lặn mất rồi. Chắc đã khuya lắm. Xuân ngồi bệt xuống gốc dừa thiu thỉu ngủ, hông buồn đuổi muỗi vo ve. Chàng bừng tỉnh khi có tiếng người nói chuyện lao xao và vài ánh đuốc chập chờn trước đường mòn. Xuân đứng dậy, vuốt mặt, vươn vai vài cái rồi vô sân lấy chiếc xe đạp, mầy mò dắt đi trong đêm tối.
Trời hửng sáng khi Xuân vừa ăn xong gói bánh tằm và mấy lá bánh thúi địt xám xịt chan nước cốt dừa. Chàng lật đật phóng xe đi về hướng Giồng Trôm. Đến ngã ba Sơn Đốc thì trời sáng bửng. Giồng Tre kia rồi! Chàng hy vọng gặp lại Loan. Mồ hôi mồ kê chảy ướt cả áo. Xuân mở bung nút áo, phạch ngực cho thoáng mát. Xuân định vào xóm hỏi nhà Loan. Khát nước quá, chàng tấp vào một quán nước đầu chợ.
– Cậu người ở đâu mới tới hả?
– Dạ, cháu ở Lương Quới xuống.
– Xuống đây kiếm ai vậy cậu?
Xuân chưa kịp trả lời thì nghe bà chủ quán nói với bà già nhai trầu bỏm bẻm ngồi bên cạnh.
– Ờ! Ờ! cái con nhỏ đó! Con Tư Én chớ gì? Em của con Ba Lựa, con ông Sáu Lục ở xóm trong.
– Con nhỏ đó sao rồi?
– Nghe nói cái con đó chửa hoang với thằng nào hổng biết, lúc đi chăn vịt ở trong đồng. Ổng đánh cho một trận thừa sống thiếu chết. Bỏ nhà đi lâu rồi.
– Đi đâu?
– Ai biết? Bà hỏi ngất ngơ hôn!
Xuân hoảng hồn, vội quay mặt ra chỗ khác, rồi đứng dậy lật đật trả tiền nước, dắt xe ra đường, đạp ngược về Bến Tre.
Loan đã đi đâu? Bụng mang dạ chửa, dốt đặc cán mai, xách cái mình đó đi đâu bây giờ? Biết tìm em ở đâu bây giờ? Hở Loan ơi?Và người con của tôi, người con của tuổi thanh xuân bồng bột, người con kết tinh giữa đồng hoang mờ ánh trăng suông. Bây giờ con với mẹ con ra sao rồi?
Qua khỏi Giồng Trôm, đến Cát Lỡ, Xuân mệt mỏi tấp vào bên vệ đường dưới bóng mát của đám dúi và cây cần thăng cao nghều nghệu. Chàng nằm bẹp xuống bãi cỏ, kế bên bụi cối xay( Cây dại, trái giống như cối xay- Abatilon indicium)), nhìn lên trời cao xanh tắp. Bên kia vườn, phía ĐôngNgô, vọng tiếng cu đất cườm bổ tư buồn não nuột. Cuộc đời sao nhiều nỗi đắng, the như trái cần thăng mà ít ngọt ngào như trái dúi? Chàng thẩn thờ ngắt lấy vài trái cỏ nổ( Cỏ nổ, trái nhỏ thon dài, chín có màu đen, chạm nước nổ ti tách.(Ruellia tuberosa L.) chín đen bỏ vào miệng, lắng nghe từng tiếng tách tách vang vang trong cổ họng.