← Quay lại trang sách

- 5 -

Kể từ năm 1954 đến năm 1960, dân miền Nam được hưởng cảnh thái bình, sung túc dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm dù cho có một biến động: ngày 22 tháng 02 năm 1957, Hà Minh Trí ám sát Tổng Thống nhơn dịp ông đi kinh lý ở vùng Cao Nguyên Trung Phần. Xuân nghĩ chắc cơ quan tình báo cũng biết ai chủ mưu của sự ám sát đó, nhưng báo chí lại loan tin theo một cách khác. Những lời bàn tán của người kháng chiến trở về thành, còn mơ ước ở một thời xưa cũ cộng thêm bất bình của những đảng phái chính trị bị chánh quyền cấm đoán hông cho hoạt động là mầm mống gây nên những xáo trộn về sau nầy? Thực ra phần đông dân chúng miền Nam còn ngây thơ, vẫn còn tin tưởng và có nhiều cảm tình với Việt Minh. Lại thêm một số lớp người đi kháng chiến chống Pháp thời Việ tMinh, hông hiểu gì về Cộng Sản, vẫn còn hoang tưởng sùng bái Hồ Chí Minh…. Có thể nói người miền Nam “làm chính trị theo cảm tính” hông?

Vào những năm đó, báo chí chỉ in ở Sài Gòn. Ở tỉnh hông có nhà in, ngay cả ngoài miền Trung cũng vậy. Báo cho ngày mai là ra chiều ngày hôm trước. Báo chuyển theo đường xe đò phân phối cùng khắp cả nước, phần đông là về tới quận và các làng sát tỉnh lộ. Mà những làng nầy chưa chắc có sạp nhựt trình bán đủ các loại báo ở thủ đô. Thông tin còn yếu kém. Ngay ở làng dọc đường cái cũng hông có thùng thư. Muốn gởi thư, muốn mua con cò, muốn đánh giây thép phải lên tận nhà giây thép tỉnh. Mà ít có người dân làng nào biết những thứ đó. Một cái giây thép về đến làng là cả làng quýnh quáng lên. Làm sao mà đọc được cái giây thép viết bằng thứ chữ quốc ngữ hông dấu của bưu điện? Phần đông là những người có chút học vấn, ưa theo dõi thời sự, dặn các lơ xe đò mang loại báo mà họ thích đọc. Các xe đò chạy ngang làng theo đúng giờ trong ngày. Các vùng gần Sài Gòn, nhựt trình tới sớm hơn các vùng xa.

Xe đò Á Đông, chạy tuyến đường Sài Gòn – Ba Tri tới làng Lương Quới vào khoảng xế trưa, bỏ hai, ba tờ nhựt trình cho Tư Chà, Quản Cây, Tư Chúc, Hai Ngươn…. Buổi xế chiều hôm đó quanh bàn nước trà thế nào cũng có các chức sắc trong làng như ông Cả Năng, ông Thôn Hai, ông thôn Bơ… hoặc là những người có “máu mặt” ngồi nhâm nhi hết bình trà nầy tới bình trà khác, bàn chuyện thời sự theo các tin sốt dẽo đăng trong báo. Các làng mạc xa xôi tư niên hông thấy mặt được tờ nhựt trình. Và tất nhiên mù tịt về tình hình đất nước. Thông tin yếu kém như thế thì có lợi cho ViệtMinh. Họ tuyên truyền bằng cách rỉ tai, hoặc là mít tinh ở các làng hẻo lánh, xa cách các trục lộ giao thông chính.

Trong lúc này Vân- bây giờ có bí danh là Sáu Trân-đã biết cách in những tờ truyền đơn, khẩu hiệu bằng bột gạo hoặc bằng rau câu(rong biển) phân phát cho dân trong làng. Người ta dùng loại ngòi viết lá tre- nếu cần tựa to thì ngòi viết rông- và mực tím pha thật đậm viết lên tờ giấy trắng.Họ nhồi bột gạo đến đúng độ dẽo, cho vào khuôn, xong úp bản chính lên khuôn bột.Bằng cách nầy, mỗi ngày SáuTrân in cũng được mấy trăm tờ truyền đơn.Họ cũng biết dùng thuốc tím(permanganat kali) và chanh để xoá dấu vết, làm những giấy tờ giả……

Sau khi miền Nam được vài năm an bình: từ năm 1955 đến năm 1960 thì miền Bắc quyết định dùng võ lực tấn công miền Nam theo nghị quyết của hội nghị Trung Ương Đảng Cộng Sản ngày 13-5-1959, cho nên những cán bộ nòng cốt của Cộng Sản còn cài ở miền Nam bắt đầu hoạt động trở lại. Việc đầu tiên là du kích quậy phá khắp nơi. Tình hình trở nên mất an ninh. Chiến tranh bắt đầu!

Từ đầu năm 1960 có nhiều biến động hơn. Ngày 17 tháng giêng năm 1960, đội quân “ tóc dà i” do bà Nguyễn Thị Định khởi động, có sự giựt dây của nhóm cán bộ Việt Minh còn cài lại, biểu tình ở quận Mỏ Cày, Bến Tre. Ngày 26 tháng giêng năm 1960, quân đội Bảy Môn do ViệtMinh kích động đánh chiếm đồn Trảng Sụp (TuaHai) ở Tây Ninh. Ngày 26 tháng tư năm 1960, tuyên cáo của nhóm Caravelle (nhóm Tự DoTiế nBộ) gồm 18 thành viên làm xáo trộn chính trường miền Nam.

Những sự kiện nêu trên hông làm cho người bình dân Sài Gòn lo lắng. Họ vẫn sống bình thản vì thông tin yếu kém như đã nói ở trên. Hông phải người dân bình thường nào ở thủ đô đều cũng đọc được báo. Nhựt trình thời đó chưa nở rộ, có thể in ấn còn khó khăn, dân còn nghèo hay trình độ dân trí còn thấp kém? Chỉ có một hay hai đài phát thanh ở Thủ Đô Sài Gòn thì làm sao dân chúng biết được trọn vẹn tin tức. Radio trasitor thì rất hiếm. Không hiểu Đài phát tuyến ở Quán Tre truyền đi có mạnh không? Dân làng hẻo lánh xa Sài Gòn như vùng quê Châu Phú, Châu Hòa chỉ có một vài người biết dùng cây tre cao chót vót làm ăng ten. Một nguyên nhân nữa là chế độ kiểm duyệt của chính phủ? Điều nầy nhiều khi làm cho tin tức trở nên sai lệch trong chiều hướng có lợi cho nhà nước…

Bà Ba Đầm đang trên đường từ chợ về nhà, bưng rổ cá linh vừa mới mua ở chợ chồm hổm đầu xóm. Bà hông nghe được tiếng nổ, nhưng thấy đau nhói nơi xương bắp chuối. Bà khụy xuống, hông đi được. Bà vạch ống quần lên khỏi đầu gối. Một dòng máu tuôn ra. Mọi người la lối om sòm. Trong khi đó, Xuân nghe tiếng súng nổ dòn tan từng chập ở đài phát thanh, cuối đường Phan Đình Phùng. Bà HaiRiệm chạy ngang nhà la hoảng lên:” Cậu Xuân ơi! Mẹ cậu bị thương rồi kìa ”. Xuân hoảng hốt, vội bước nhanh ra khỏi nhà. Anh bạn Nguyễn Trấn cõng bà Ba trên lưng chạy dọc con đường mòn tuốt ra dốc cầu Thị Nghè, để mẹ lên xe xích lô đưa đi nhà thương. Ngày hôm sau đó, trong lúc đợi y tá băng bó vết thương cho mẹ, Xuân mới nghe tin có đảo chánh ngày hôm qua, được đồn rùm qua miệng mọi người. Chàng đi ra ngoài cổng bịnh viện Nguyễn Văn Học, liếc trộm vào những hàng chữ lớn trên sạp báo. Hóa ra có một nhóm người gồm Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, Trung Tá Vương Văn Đông, Trung Tá Nguyễn Thiệu Hồng, Luật sư Hoàng Cơ Thụy và Bác sĩ Phan Quang Đán xúm nhau đảo chánh hôm 11 tháng 11 năm 1960…

Đâu là nguyên nhân bảng tuyên cáo của nhóm Caravelle ngày 26 tháng 4 năm 1960 và của nhóm người gây binh biến ngày 11 tháng 11 năm 1960?Có phải chánh quyền NgôĐìnhDiệm tóm thâu tất cả quyền lực vào trong tay của họ?Và đưa đến dẹp tan mọi đảng phái chính trị?Hệ lụy là bắt bớ, giam cầm và thủ tiêu rất nhiều người?Vụ mất tích của người thầy cũ, TạChíDiệp, ở cầu TânAn có phải là một trong những vụ thủ tiêu đó hôn?Hông lẽ tầng lớp trí thức họ chỉ phản kháng suông?Cái gì cũng có nguyên nhân của nó.Có bàn tay của ai? VC hay Mẽo?Và mầm mống bất mãn ngấm ngầm lan rộng.

Từ ngày có người con gái đầu lòng vào làm trong hảng dệt may ở Thị Nghè khoảng năm 1955, bà Bảy Mi đem cả gia đình lên Sài Gòn. Mới đầu họ mướn một chái nhà nhỏ ọp ẹp bên cạnh ruộng dâu. Sau đó, dành dụm được chút đỉnh tiền, gia đình cất được căn nhà sàn ở đám ruộng sau Ty Canh Nông.

Cánh đồng ngày gặt còn ngát mùi lúa chín, chạy dài từ con rạch Thị Nghè lên tận sau Viện Dưỡng Lão và ngã ba Hàng Xanh, với nhiều con xẻo nhỏ ngoằn ngoèo đầy cá tép. Đàn cò trắng lượn lờ ngày nắng oi ả. Tiếng chim trích, cúm núm tắc tục vào buổi hoàng hôn. Và nước lớn, ròng ngày hai buổi vẫn còn trong ngát với những bầy cá đối đớp bọt nước.Bọn Xuân ngày nào cũng bơi lội đì đùng trong những con xẻo nhỏ nầy sau những trận đá banh nơi khoảng đất đỏ rộng rãi để chuẩn bị làm xa lộ Sài Gòn-Biên Hoà. Và con đường đất nhỏ ngang qua trại gà Thanh Tâm đầy sình lầy sau cơn mưa.

Họ còn nghèo lắm. Thường thường ngày hai bữa cơm vẫn là rau muống luộc, khi thì chấm chao, chấm hột vịt dầm nước mắm, khi thì chấm cá mòi Ma Rốc. Những năm đó, một bịt mì gói của Nhựt là niềm mơ ước xa vời vợi. Với số đồng lương ít ỏi của người con lớn, người mẹ tằn tiện cho đủ nuôi sống gia đình thì làm sao có tiền mua báo hằng ngày để đọc. Ngay cả mướn báo cũng hông có nữa. Đôi ngày, Xuân đành rề rề ở các sạp báo, liếc trộm để đọc cọp nhựt trình. Xuân biết rất trễ tin nhóm người đảo chánh. Radio transitor còn mắc và ít có gia đình có máy phát thanh điện để nghe tin tức hàng ngày. Cả khu nầy làm gì có điện. Đêm đêm Xuân phải chong đèn dầu để học bài. Cả xóm Xuân ở, lẫn lộn với một số người miền Bắc di cư năm 1954, có được một vài cái radio. Họ biết được tin tức ở đâu? Chỉ có một cách duy nhứt là đọc nhựt trình. Người khá giả, công chức thì mua báo hằng ngày. Còn đọc báo của người nghèo, dân xích lô, xe ba gác, học sinh nghèo…. là đọc báo cọp, hoặc báo mướn.

– Ê Sơn! Báo của tụi mình tính chừng nào ra vậy mậy?

– Không biết chừng nào nữa? Còn đợi mầy và Tô Trần Nguyễn lo chạy xin mấy cái vụ quảng cáo. Mầy nghĩ coi tụi mình không có tiền, đi mượn không ai cho hết thì ra tờ báo rất gian nan.

– Tao biết. Mấy hôm rày tao và thằng cận thị nầy (Tô Trần Nguyễn, Nguyễn Khắc Thiệu) đi bộ muốn rã giò đây mầy ơi! Lội vòng vòng chợ Sài Gòn và gần hết con đường Trần Hưng Đạo mà chẳng có được mấy nơi họ chịu. Hai thằng diện bộ áo sơ mi, thắt cra vát bát phố dưới nắng, tháo mồ hôi hột thiếu đều muốn đi tắm luôn.

– Ráng đi. Tờ Thế Kỷ Hai Mươi của bọn mình có bài vở đầy đủ rồi. Giấy phép cũng đã có. Bây giờ chỉ cần tiền nữa thôi.

– Thì Sơn, mầy nói với thằng Kiều Công Nhịn, làm ở nhà in Nguyễn Bá đường Phạm Ngũ Lão, cho mình nợ tiền in đi. Khi nào ra báo bán được thì lấy tiền trả lại.

– Rủi báo bán không chạy thì lấy tiền đâu ra trả. Tụi bây phải xúm lại năn nỉ nó. Nhưng chắc gì?Mình không trả thì nó nai lưng ra trả à?

– Thì mầy gánh hết. Mầy là chủ bút kiêm chủ nhiệm mà. Thằng Tô Trần Nguyễn và tao chỉ là thư ký và thủ quỉ thôi. Mầy lấy bút hiệu là Sao Trên Rừng thì mầy chắc có nhiều sao và nhiều tiền lắm mà.

– Có cái con mẹ họ! Tụi mình chỉ là một nhóm học sinh vừa đậu Tú Tài xong, mon men vào ngưỡng cửa Đại Học, có một chút ít kiến thức, muốn tìm một con đường khác để đi, làm sao bì lại nhóm Sáng Tạo và Bách Khoa là bực thầy mình.

– Ê Thiệu! (Tô Trần Nguyễn), mầy coi cái lỗ mũi lân và cặp môi của thằng Sơn cà. Nó nói một hơi là chảy hết nước miếng ra ngoài bây giờ.

– Thì nó bao giờ chẳng vậy, phải không Xuân? Nó nói là xì bọt mép và cặp mắt lờ đờ, ra vẻ như là một thi sĩ nổi tiếng tới nơi. Ê, sao mầy lại lấy bút hiệu là Sao Trên Rừng vậy mậy?

– Nó hổng nói đâu. Bà già tao hỏi nó, nó chỉ làm thinh nuốt cuộn bánh xèo. Bả vỗ đầu nó và nói thôi cháu lấy tên khác đi. Nó lờ hai cặp mắt ra hỏi, tên gì bác? Má tao mới nói giỡn: Sao Trong ….. Nó ngẩn người một thoáng, mở to hai con mắt rồi tiếp tục ăn hết cái bánh xèo.

Phùng Xuân thoảng nhớ lại. Hông hiểu nó gặp Nguyễn Đức Sơn từ lúc nào ở cái xóm Canh Nông Thị Nghè nghèo nàn nầy, bàn chuyện văn nghệ, văn gừng, ca hát… Sơn học ở Đại Học Văn Khoa. Thằng Thiệu, học ở SPCN, lúc nào cũng hát nhạc Đoàn Chuẩn. Nó mở miệng là: “Tà áo xanh là màu anh trót yêu…”Buổi họp mặt, cùng với các người bạn gái là học sinh trường GiaLong, thường khi là dĩa trái cóc non với muối ớt. Sơn nhập bọn bàn với tụi nầy định ra tờ nguyệt san: Thế Kỷ Hai Mươi.

Xuân và Sơn đều là hai thằng rách túi, thường khi ghé ăn cơm bữa ở chợ Thị Nghè. Cái thằng lạ chưa! Nó chỉ thích ăn có mỗi món tàu hủ dồn thịt. Ở cái thời một thi sĩ chưa nổi tiếng thì nhà thơ thường nghèo mạt rệp. Hôm nào Xuân rảnh thì hay đèo nó đi đây đi đó, còn hông thì nó đi xe buýt. Có khi nó đi đâu mất tiêu hai ba bữa rồi thấy nó ló mặt về, trông vẻ bơ phờ, chui vào một góc nhà của thằng Nhịn, ngủ một giấc đến chiều chưa chịu thức dậy. Đến tối thì nó than đói bụng.Xuân phải lục nồi bới cho nó tô cơm nguội, chan vô chút cá kho rồi đem tới cho nó. Xuân nhìn Sơn ăn ngon lành mà thương cho bạn. Quê nó đâu tận ngoài Phan Thiết hay Phan Rang gì đó. Nó có cái giọng hơi pha sài gòn. Xuân thích nhứt lúc nó nói chuyện. Cái môi thười lười ra và nước miếng xì thành bọt tràn hai bên mép.

Tụi bạn bá vơ của Xuân thường tụ về nhà Kiều Công Nhịn. Toàn là một lũ học sinh chân ướt chân ráo lên Đại Hoc. Vậy mà đòi làm báo? Có máu văn nghệ hông? Xuân cũng hông biết nữa? Ai cũng có một bài thơ: Hồng Nhung, Hồng Lệ, Trois, Thanh Điệp, Kim Quang, Túy Em…. Lê Thạch Tâm (em đạo diễn Lê Dân)… Bài nào cũng na ná giọng TTKH, hơi hướm của nhóm SángTạo, làm ông chủ bút hông biết đường nào mà lần. Còn Xuân thì biết làm báo biếc gì đâu. Hồi còn học đệ lục, đệ ngũ, chàng chỉ theo các thằng bạn làm mấy tờ bích báo hàng tháng.

– Ê!Sơn. Mầy liệu báo của tụi mình có sống dai hông? Sao tao thấy bài vở lằng nhằng quá. Phải tìm cho ra một hướng đi mới thì báo mới sống nổi. Thơ của mầy nhiều khi tao hông hiểu. Còn thơ của hai thằng Trường Dzạ và Linh Vũ thì lại còn bí hiểm hơn thơ của mầy. Thơ gì mà làm như viết văn xuôi, lâu lâu lại xuống hàng; rồi lại còn dùng chữ nghĩa như “phạm trù”. Tao đọc còn điếc con ráy luôn, làm sao bàng dân thiên hạ hiểu nổi? Vậy làm sao bán được, hở Sơn?

Bài vở của báo Thế Kỷ Hai Mươi chất đầy đống, vương vãi ở góc nhà. Rồi hông ai màng chăm sóc đến những trang giấy đó nữa. Sao Trên Rừng đã lâu lắm rồi hông thấy nó quay trở về. Tờ nguyệt san chắc chìm xuồng luôn. Nhưng Xuân và Nguyễn khắc Thiệu (Nguyễn Niên) còn cố gắng đi xin thêm quảng cáo mấy lần nữa, rồi cũng hông có kết quả gì cho lắm. Hai đứa về nằm chèo queo, buồn bã mấy ngày. Đôi lúc nhìn nhau cười trừ. Có lúc vùng nhau ngồi dậy, mặc quần áo lại cho tươm tất, bương bả leo lên xe buýt tiếp tục đi xin quảng cáo…

Tình hình miền Nam bước qua năm 1961 và năm 1962 có thêm nhiều biến động. Sau vụ án Caravelle, sự bất mãn càng gia tăng. Một số trí thức chống đối chế độ Ngô Đình Diệm bỏ thành phố vào trong rừng rậm vùng Bắc tỉnh Tây Ninh, bên kia biên giới Việt-Miên, kết hợp cùng cán bộ nòng cốt Cộng Sản còn cài lại sau năm 1954. Họ tuyên bố thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ngày 20 tháng mười hai năm 1960. Và đầu tháng hai năm 1961, lực lượng võ trang Giải Phóng Miền Nam chính thức ra đời. Nhưng thực ra, lực lượng nầy đã hoạt động từ lâu. Họ đã quậy phá các nơi hẻo lánh, giết các viên chức xã ấp. An ninh miền Nam bắt đầu suy sụp. Dân chúng từ từ bỏ các làng mạc xa xôi, tìm ra những vùng yên ổn- gần đồn bót hay những làng ven trục lộ giao thông chính- để làm ăn. Xuân đã đọc ở đâu đó và trong khoảng thời gian nào chàng cũng hông còn nhớ, về một câu nói của một viên tướng Alexander Papagos đã chiến thắng du kích Cộng Sản ở Hy Lạp năm 1949: “nếu Cộng Sản mở được mặt trận du kích là kể như họ đã thắng được hiệp đầu.”

Một buổi sáng ngày 27 tháng hai năm 1962, Xuân đang đứng chơi cùng gia đình ông Lý. Họ bón phân rau muống. Thình lình Xuân và Chúc nhìn thấy hai chiếc máy bay khu trục gầm rú vòng qua lại trên bầu trời Xóm Mới. Rồi sau đó có nhiều tiếng nổ lớn và tiếng đạn từ dưới đất bắn lên nghe bụp bụp tạo ra nhiều chụm khói đen nhỏ rải rác khi chúng chúc xuống sát lùm cây khu vực Sài Gòn

– Bố ơi! Trông kìa. Có chiếc máy bay bị bắn rơi, bố ơi!

Xuân và Chúc nhìn theo hướng của cái Lan chỉ. Một làn khói đen tuôn ra từ sau đuôi của chiếc máy bay đang bỏ bom khu vực Sài Gòn.Nó đang sà thấp dần xuống và mất dạng.

– Chắc nó bỏ bom Dinh Độc Lập. Không hiểu Tổng thống có mệnh hệ gì không?

– Không có gì đâu bố! Nó bị bắn rơi rồi.

– Con cái Lan nầy. Làm như mầy ở đó không bằng.

Xuân lật đật chào ông Lý. Và chỉ kịp dơ tay vẫy chào Chúc, cái Lan, cái Huệ rồi thót lên xe, đạp rút về Thị Nghè…

Kể từ ngày quen thằng Trực, thằng Thọ sửa rađiô ở đầu xóm, Xuân biết được nhiều thứ. Tụi nó thường sửa rađiô trănsito và cũng đôi khi sửa những cái rađiô bằng điện cũ, có cái đèn mắt dơi khi mình bật điện lên.

– Ê! Tụi bây. Tao còn đang đi học, nghèo lắm, có cách nào nghe radio được hông?

– Được chứ. Nhưng mà chỉ nghe một mình mầy.

– Nghe một mình tao? Sao kỳ vậy? Tao hỏi như vậy là cốt ý xin tụi bây cái nào cũ cũ của người ta bỏ ra.

– Hổng có cái nào cũ đâu mầy ơi. Cũ rích mà họ còn đem sửa lại để xài. Tao chỉ mầy một cách. Tao cho mầy một cục galen (galène là sulfur chì (PbS), chất bán dẫn, tách được sóng vô tuyến điện.) và một cái écouter (ê cút tơ). Mầy kiếm một sợi dây điện dài và một cái niềng xe đạp cũ. Quấn dây điện vòng quanh niềng xe đạp rồi đưa lên cao làm như một cột ăngten, hướng về phía Quán Tre. Nối dây từ cột ănten xuống cục galen. Từ hai dây nối của êcúttơ, một đầu mầy nối vào cục galen, một đầu mầy nối với một cái kim tây. Dùng đầu kim tây mầy chích chích vào cục galen mầy sẽ bắt được đài phát thanh Sài Gòn. Ê! mà nhớ trời mưa có sấm chớp, mầy đừng có nghe, nghen! Nó giựt mầy chết thẳng cẳng đó nhen!

Bằng cách đó, Xuân nghe được tất cả chương trình ở đài phát thanh. Mấy thằng bạn đó nói trung tâm phát tuyến ở QuánTre, có công suất rất mạnh, khoảng 500KW, phát sóng biến điệu biên độ (AM amplitude modulation) nên rất dễ bắt. Âm thanh hông qua loa, nên phải cầm ê cút tơ để sát vào lỗ tai. Một vài thằng bạn ở vùng Quán Tre cho biết tụi nó còn dùng ăngten nối vào hai đầu của bóng đèn nê-ông để học bài? Một lần gặp thằng Tưởng ở Châu Hòa (Bến Tre), Xuân chỉ cho nó cách làm như thế. Một thời gian sau gặp lại, nó mừng rỡ ra mặt, nói nhờ mầy mà tao nghe được đài Sài Gòn.

Một buổi chiều tối, khoảng giữa tháng hai năm 1962. Xuân chích vào cục galen. Có giọng nói gì lạ vậy?Đây là tiếng nói của Măt Trận Giải Phóng Miền Nam với giọng nói chát chúa. Sao lạ vậy ta? Ở đâu ra vậy? Xuân cũng ráng nghe thêm một chút. Coi họ nói cái gì? Toàn là tin tức chống đối chánh quyền, nói xấu gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm…

Sáng ngày, Phùng Xuân nhìn lên, thấy hướng ăngten hông thay đổi. Đài của Mặt Trận Giải Phóng ở TâyNinh? Hông. Nó phải ở nơi xa hơn và an toàn hơn. Ở đâu? Chiến khu D, Biên Hòa?.Nơi có tin đồn bà Ngô Đình Nhu khai thác gỗ. Hông chắc! Nó phải ở vùng Mỏ Vẹt, sát nách Sài Gòn? Đài nầy chắc có công suất cực mạnh, nghe rõ hơn đài Sài Gòn, truyền đi bằng biến điệu biên độ, độ dài sóng rất lớn nên khó phá? Từ đó, ngày nào Xuân cũng nghe, để biết họ nói cái gì, để so sánh. Phần đông là tin xe cán chó, trật lất, ba xạo nhưng rất nóng hổi…

Xuân lật đật đạp rút từ Xóm Mới về nhà để nghe tin bỏ bom vào Dinh Độc Lập. Bản tin buổi chiều của đài Mặt Trận Giải Phóng cũng là tin ba trợn. Hông có gì chính xác. Bao giờ cũng giọng điệu chửi rủa xa xả, nghe nhàm chán. Chàng chích vào cục galen, bắt đài Sài Gòn. Ông Diệm và gia đình vẫn bình yên. Một chiếc AD6 bị bắn rơi ở bến Bạch Đằng. Phạm Phú Quốc bị bắt. Nguyễn văn Cử dông tuốt lên Nam Vang.

Có cái gì thúc đẩy sau hai lần toan tính hạ bệ Tổng Thống Ngô Đình Diệm? Gia đình trị? Độc tài? Ngấm ngầm tiêu diệt các đảng phái? Thủ tiêu các đảng viên đối lập? Sự chống đối của Ngô Tổng Thống hổng muốn cho Mỹ đổ quân vào Việt Nam?

Năm Phèn lui cui chà sột sột cái ruột xe bằng miếng thiếc cuộn tròn đục nhiều lỗ nhỏ. Xong, Năm Phèn mở hộp keo dán xe làm từ cao su non của đế giầy pha với xăng, lấy tay quệt một cái, thoa một lớp mỏng lên chỗ đã chà nhám, rồi thổi cho mau khô.

– Mầy mần gì vậy Phèn?

– Ủa? Dì Ba. Dì về hồi nào vậy. Tui vá ruột xe lôi.

– Dữ hôn. Mầy hổng ở Châu Bình coi vườn tược của mầy hả? Sao lại ra đây chạy xe lôi?

– Ở gì được dì Ba! Mấy ông trời đen ổng dậy lên, giết tùm lum hết dì Ba ơi?

– Giết ai đâu mậy?

– Trời ơi! Dì ở trển dì hổng biết chớ. Mấy tháng nay, mấy ổng quậy tưới hột sen, dậy trời dậy đất. Cái gì là diệt phong đả tề, tôi cũng hổng biết nữa. Ban hội tề dông mất hết. Ba Thông, anh của Tư Báu chết rồi. Chết chém đó dì Ba!

– Gì dữ vậy mậy? Dân tập kết mà mậy?

– Thiệt mà dì Ba. Dân tập kết tập kiết gì họ cũng giết ráo trọi. Ờ, mà thằng Tưởng, bạn của thằng Xuân nhà mình, dì Ba biết nó chớ?

– Sao hổng biết. Con Hai Thiệt ở ChâuThới chớ đâu!

– Cơ khổ. Cả nhà bị giết hết rồi.

– Gì lạ vậy? Cả nhà đó hiền khô mà.Từ hồi nào tới giờ có làm cái gì bậy bạ đâu. Họ còn đi chơn trong nhiều hơn nữa à nghen.

– Có vậy mới nói.Nghe đâu họ nói nhà thằng Tưởng làm gián điệp.

– Làm gián điệp?

– Thì nhà nó có cây ăng ten cao để nghe ra- điô đó mà.

– Sao tụi nó ngu quá vậy? Làm gián điệp? Ai làm lộ liễu vậy?

– Thì có vậy mới nói. Lúc phong trào-à cái gì đó- à, Đồng Khởi từ năm 1960 đến nay- năm 1962- có lớp trẻ toàn là học sinh gia nhập. Tụi nó bỏ học sớm. Nghe lời mấy ông thầy dụ, theo ráo trọi. Phần đông mấy ông thầy nầy ở bưng về, mở các trường tư thục lèng xèng tới đệ lục, đệ ngũ: như các thầy Nguyễn Trường Phương dạy Viêt Văn, thầy Nguyễn văn Mười dạy Pháp Văn… ở trường trung học tư thục Mỹ Lồng và trường trung học tư thục Châu Thới vậy đó…

Đám nầy mới hông hà. Còn trẻ bân, hăng tiết vịt lắm. Sai đâu đánh đó.C ó biết cái con mẹ gì. Nên mấy ổng mới xài được. Cái lớp của tụi mình đây mà xía vô là có chuyện. Thế nào cũng bị chụp là cái nầy cái nọ rồi ban đêm ban hôm, mấy ổng đến gõ cửa, dắt đi. Hổng khỏi mò tôm, chết chém hay cán cuốc bửa vào đầu, chôn bậy đâu đó, mất xác luôn.

Hồi thời Việt Minh, cũng có vậy nhưng còn đỡ hơn bây giờ. Sao bây giờ mấy ổng, mấy ông Việt Cộng nầy, làm dữ quá hổng biết. Họ đổ thừa bên Quốc Gia rê máy chém đi cùng khắp theo luật số 10/59, còn họ phá xóm làng tan hoang tác hoác. Đám Mười Tông và thằng con trai tên Huệ, Cao Đài Tây Ninh, với họ là hai bên hông đội trời chung. Ông Tổng Linh cũng bị giết chết luôn rồi.

– Mầy cũng là dân kháng chiến mà, sợ gì? Vùng Ba Châu lộn xộn vậy. Còn miệt trên nầy, như Lương Quới, Lương Hoà, có yên hông?

– Sợ chớ dì Ba. Mấy ổng nổi hứng lên là mình chạy hông kịp đó. Ở trên nầy đỡ hơn ở dưới. Tại sao tui hổng biết nữa. Nghe nói ông Trưởng Ban Ám Sát ở trên nầy hiền hơn. Hay là tại tui ít dám xù xí với ai lắm, nên hổng biết rõ lắm. Lo chạy xe lôi, kiếm cơm ngày hai bữa; bỏ cho vợ tui đi đi về về, giựt ba cái dừa kiếm chút huê lợi.

– Còn mấy đứa nhỏ đâu hết rồi?

– Tui đưa hết lên BếnTre. Con vợ tui mướn nhà cho tụi nó ở để đi học. Dì Ba về dưới nầy để làm gì vậy?

– Tính về Châu Bình thăm bà già. Lâu quá hổng có tin tức gì bả, hổng biết lúc rày bả sao rồi nữa?

– Chà! Coi bộ khó à nghen. Ở LươngQuới còn đỡ, chớ ở dưới khó khăn lắm. Lúc rày, có cái vụ Ấp Chiến Lược mới thành lập hôm đầu tháng ba năm 1962, nên lính ruồng bố lung tung. Thôi dì Ba ở đây đi. Ngày mơi, tui nhắn vợ tui, kêu bà già lên.

Từ khi phong trào Đồng Khởi nổi dậy, xóm làng bỏ đi gần hết. Vùng Ba Châu kể như là vùng trắng. Máy bay, cà nông, mọt chê bắn bất kể ngày đêm. Bà Ba Hạo vẫn tiếp tục ở lì, hông sợ súng đạn. Cái trăn-xê được tấn rất chắc. Hai ba lớp ván gõ, bốn năm tầng vỏ dừa, đủ để ngăn súng đạn. Nhưng còn bom thì sao, dì Ba? Vợ Năm Phèn hỏi. Bà Ba mĩm cười, chép miệng. Cái đó thì mầy tới số rồi!

– Cơ khổ! Bả tiếc mấy trái dừa, cau, mãng cầu, sa-bô chê, mấy con tép. Khổ ghê vậy đó. Kêu bả bỏ đi mà bả hổng chịu. Lên Sài Gòn ở mấy lần, bả đòi về hoài. Bả nói ở trên nầy tù túng quá, tao hông chịu đươc. Tụi bây phải đưa tao về quê. Kệ nó, sống chết có số. Việt cộng thì bả hổng sợ đâu. Bả già rồi, có làm gì tụi nó đâu. Còn cái đám cháu ngoại bả, con của bà Hai Miều- tụi nó đi theo mấy ổng ở trỏng rồi.Vậy là có đứa nào dám hó hé tới bả?

– Con vợ tui cũng vậy. Tiếc chi mấy trái dừa hổng biết! Kêu lên trển ở với mấy đứa nhỏ, lo cơm nước cho tụi nhỏ đi học. Hổng chịu là hông. Mình đi đi về về hoài. Mấy ổng nghi rồi sanh chuyện nầy chuyện nọ mới chết chớ.

– Lúc rày đường về dưới có dễ đi hông?

– Hổng dễ đâu dì Ba. Hổng dám đi đường lộ lớn đâu. Máy bay nó thấy là nó bắn chết. Qua khỏi cái bửng nhà Năm Phỉ còn nguy hiểm hơn. Đi len lỏi trong vườn dừa hông hà. Mình hổng biết đường, lớ quớ sụp hầm chông của mấy ổng gài là trời cứu.

Trời chưa bửng sáng, bà Ba Hạo đã có mặt ở Lương Quới. Bà gánh hai thúng đủ thứ: tép khô, khô cá kèo, mãng cầu xiêm, sa bô chê và nước màu dừa…..Bà Ba Đầm mếu máo nhìn bà Ba Hạo đang cầm nón lá quạt lia lịa.

– Má quảy mấy thứ nầy chi cho cực Má.

– Thì gánh cho tụi nhỏ nó ăn chớ mậy. Ở Sè Gòn, mấy thứ nầy mắc mỏ. Cây nhà lá vườn, mình đem lên cho đỡ tốn tiền hôn?

Nói vậy chớ bà Ba Đầm cũng túm gọn các thứ cho vào bao cà ròn. Hai mẹ con nói ba điều bốn chuyện một hồi. Bà Ba Đầm hối má trở lại Châu Bình cho sớm, xong vác mấy bao đồ ăn ra xe lôi cùng Năm Phèn đi Bến Tre…

Ngày hôm đó là ngày Lễ Quốc Khánh, 26 tháng 10 năm 1962. Bữa nay, trước Toà Đô Chánh-Công Trường Lam Sơn- có triễn lãm một số máy bay. Đoàn người lũ lượt kéo nhau đến từ sáng sớm, đông nghẹt từ đầu đường Lê Lợi đến đường Gia Long.

Trung Sĩ Nguyễn Bội Ngọc đang trả lời những câu hỏi cho số đông người bu quanh chiếc trực thăng H34. Phùng Xuân xuống xe buýt ở chợ Bến Thành. Chàng đi bộ tà tà đến nơi. Lần đầu tiên Xuân được ngó thấy chiếc trực thăng. Chàng cố chen chân cho gần hơn để được nhìn rõ chiếc nầy. Chớ các loại máy bay bỏ bom, quan sát-mà Bà Ngoại gọi là Bà Già- thì Xuân đã biết rồi. Hồi đó ở Châu Bình, Xuân thấy máy bay bỏ bom có một chong chóng ở phía trước, bay rất nhanh. Vừa nghe tiếng nó xòe xoè thì thấy nó bay sát gần ngọn dừa, có hình vòng tròn xanh, trắng, đỏ bên hông. Một loạt tiếng súng bắn chát đùng trước, bà ngoại gọi đó là đạn lum đum. Sau đó là bom nổ ầm ầm. Còn cái con Bà Già có cánh đôi, bay mút ở trên, rề rề như đi chợ.

Ông Trung Sĩ đang nói thao thao. Một vật gì đen tròn rơi trước mặt ông ta. Xuân hông hiểu là vật gì? Chợt ông Ngọc cúi nhanh người xuống lượm cục đen tròn, rồi như chớp để vào trong bụng. Ông nằm sấp xuống.Một tiếng nổ đùng kinh hoàng. Một số người té ngã xuống.Một số ùn ùn bỏ chạy.Cùng lúc đó có tiếng hô: “ Lựu đạn, lựu đạn”.

Phùng Xuân chạy vắt giò lên cần cổ. Chàng chạy cho đến đường Lê Lợi. Đứng lại thở giốc. Đám đông túa ra đủ hướng. Vừa đúng lúc Xuân gặp Tiến Tấn, cùng học Chu Văn An ngày xưa.

– Có chuyện gì đấy cậu?

– Tao hổng biết cái gì nữa. Ai quăng trái lựu đạn vô giữa đám đông đang coi máy bay. Chắc ổng chết rồi.

– Ai chết?

– Ông lính đứng bên chiếc trực thăng. Ổng nằm đè lên trái lựu đan, chớ nếu hông chắc thiên hạ chết nhiều.

– Ông ta gan quá.

– Sao Quốc Khánh có huông vậy?

Cũng vào ngày Quốc Khánh năm 1957, Hội chợ được tổ chức ở khu vườn bông Thị Nghè. Cổng chánh rộng lớn ở phía Thị Nghè. Cổng phụ là chiếc cầu bê tông nhỏ chiều ngang khoảng ba mét, bắc ngang rạch Thị Nghè, nối liền khu vườn bông và Sở Thú. Dân miệt Sài Gòn và Chợ Lớn đều đi từ Sở Thú qua cầu nầy để xem hội chợ. Người ta chen nhau ở cầu nhỏ, dẫm đạp lên nhau, chết khá nhiều. Có nhiều người phải nhảy xuống sông bị chết chìm. Sau đó công binh bắc thêm một cầu nổi tạm dùng để qua lại hai chiều. Tại sao họ hông đi cổng Thị Nghè, rộng thênh thang? Chắc hổng ai nghĩ là dân Sài Gòn, Chợ Lớn đổ vào xem Hội Chợ bằng cầu Sở Thú?…

Buổi chiều Xuân bắt đài Mặt Trận Giải Phóng. Cũng giọng ra rả, chát chúa. Nữ chiến sĩ Biệt Động Thành: Mỹ Linh-Con Chim Sắt – đã gan dạ tung quả lựu đạn giết chết một Trung Sĩ Ngụy và đồng bọn, đồng thời phá hủy một chiếc trực thăng HU1A (?) của địch. Phùng Xuân ngao ngán. Chàng biết họ tuyên truyền láo, xạo ke…Lý do là lủy có ở đó.

Cuối tháng mười hai của năm 1962 rồi. Gió bấc bắt đầu thổi mạnh. Bông so đũa nở rộ, khoe một màu trắng toát trên cành khẳng khiu. Bông đậu rồng xanh tim tím chen chúc nhau trong đám lá um tùm ven bên đường. Bông xoài từng chùm lắc lư theo gió, kéo theo đàn ong chăm chỉ bu quanh. Nhờ gió bấc đẩy mà Xuân đạp xe nhẹ nhàng, chạy vùn vụt về Lương Quới.

– Mầy muốn đi vào xóm trong hả? Bây giờ khó đi lắm, chớ hổng phải như hồi xưa. Đường lộ chánh nhiều chông và mìn, hổng đi được đâu. Ra khỏi khu nhà mình, giờ là của mấy ổng rồi.

– Út. Con muốn vô trỏng mà! Làm sao đi.Út giúp con đi.

– Để coi ngày mai, có mấy đứa ở trong xóm trong ra đi chợ hông hả? Tao kêu tụi nó dẫn mầy đi.

– Út biết tụi nó hả?

– Sao hổng biết mậy!

– Sao chú Tám hổng làm gì?

– Ổng còn đi guốc trong bụng họ hơn tao nữa mậy. Nhưng ổng sợ bay cái đầu ổng đi mất nên ổng im re. Nói chung ban Đại Diện xã, ai làm gì trong làng họ đều biết ráo trọi. Nhưng do giây mơ rễ má, do một số còn mê thời kháng chiến, một số sợ bị Việt Minh cho đi mò tôm nên họ hổng nói.

– Trong số đó có Út? Út còn mê cái danh từ Việt Minh quá mà. Vì vậy nên Lương Quới yên lành hơn vùng BaChâu phải hôn Út?

– Mồ tổ cha mầy. Sao mầy biết?

– Má con mới về cách đây mấy tháng. Bả nói cho con nghe.

– Mầy có đi thì về sơm sớm. Về trễ, rắc rối với mấy thằng dân vệ.

Hồi chín năm, bà Út Thừ- người con thứ mười một của ông Hội Đồng Nhượng- còn trẻ, cũng đi kháng chiến chống Pháp đâu trong khu chín. Năm 1954, bà hông tập kết, trở về làng để nuôi đứa con trai. Dân trong làng hông ai nhắc đến người cha của đứa bé, nhưng họ sù sì đó là ông Nguyễn văn Nê, chánh trị viên đại đội 301, tiểu đoàn 310. Cho nên bà cũng còn nhiều cảm tình với những người bên trong- bây giờ là Việt Cộng. Xuân có nghe lời đồn, nhưng chàng hổng dám nhắc đến chuyện của bà, vì nói với người lớn tuổi những việc như vậy: đó là sự cấm kỵ.

Lúc tuổi thanh xuân, khoảng năm 194…, bà rất giỏi giang. Đất chung quanh nhà trồng toàn là cây bông vải và cây dâu tằm ăn. Bà biết cán bông bỏ hột, bung bông, se sợi… rồi kéo go dệt thành vải. Xong bà đem hồ, nhuộm. Những miếng vải thô cứng kêu sột soẹt lúc may thành quần áo. Bà biết nuôi tằm. Tằm sắp kéo kén. Tầm ăn lên nghe rào rào, xong rồi ươm vàng hực trong những cái nia có cắm chà chờ tằm đóng kén và chín. Bọn trẻ bao giờ cũng bu quanh chảo nước sôi kéo tơ để mong chờ ăn nhộng. Vải bằng tơ tằm bao giờ cũng mịn màng và vàng óng ánh. Bà làm việc hông kể ngày đêm. Đến khuya mà bà cũng còn ngồi bên ánh đèn dầu dừa mù mờ, giựt dây, đưa con thoi qua lại lọc cà lọc cọc.

Bà còn biết nung vỏ nghêu trong trấu và vỏ dừa để làm vôi bán cho những người ăn trầu trong làng.

Ngày Tết hoặc ngày giổ quải, một tay bà làm đủ thứ việc: cán bánh phồng mì, bánh phồng nếp; gói bánh tét, bánh ú; quết thịt làm nem; xay lúa, giã gạo…

Rồi sau đình chiến 1954, bà quay lại làng, nuôi con chờ chồng (?) tập kết trở về. Ngày về xa biền biệt và tuổi thanh xuân lớn dần theo cây dừa, cây cau…

Mặt trời chưa ló khỏi ngọn dừa. Chợ đã dần tan. Thằng nhỏ, khoảng 15 tuổi, tên Tri, dẫn Xuân đi. Vừa ra khỏi chợ là một vùng trảng trống. Trường học và khu đình làng vẫn còn đó. Dừa bị đốn bỏ một phần để làm ấp chiến lược. Cổng ra vào sơ sài. Đây là ấp chiến lược? Chàng tự hỏi. Ở Sài Gòn, Xuân có bao giờ biết cái ấp chiến lược là cái gì đâu? Chỉ biết qua báo chí và qua những lời chửi ra rả của đài Mặt Trận Giải Phóng. Và thật sự, đời sống dân tình trong những cái ấp nầy ra làm sao?

Khi gần tới chùa, thằng Tri quẹo phải đi tuốt luốt về hướng sông. Một vài gốc dừa bị dạt một bên. Những dòng chữ nguệch ngoạc: Diệm Nhu bán nước, Đả đảo luật số 10/59… Ngoằn ngoèo, ngoắt ngoéo, trắc tréo, tới lui một hồi rồi len lỏi qua những bập dừa nước sát bờ rạch làm Xuân quên mất là mình đang ở đâu. Chàng đâu có lạ lùng gì những khu vực nầy. Hồi nhỏ chàng lê mòn gót trên những con đường lắc léo xuyên qua bờ dừa khắp làng để bắn chim. Có buổi hông có con chim nào, Xuân buồn tình lấy giàn thun bắn cá nóc nói để chơi kia mà!

Bến Tre là vùng đất của rừng dừa. Đất của những ông “Hội Đồng Dừa” có trên 10 mẫu. Đất của những ông chủ vườn có dừa chất thành đống cao tính bằng thiên. Những ông chủ nầy quanh năm suốt tháng đi ăn đám giỗ từ nhà nầy đến nhà kia, có con rơi con rớt, đánh ỏ thâu đêm, đôi khi thua sặc máu họng, bán từng mẫu vườn dừa.

Đất của những trái dừa kỳ lạ: dừa trăng ăn với cơm dừa nhăn nheo, xốp xộp và béo ngọt; với dừa bông ăn được cả vỏ dòn ngọt khi còn non. Đất của dừa lửa, dừa bị, dừa tam quan, dừa xiêm thiệt, dừa xiêm lai…Đất của những tên gọi từng trái dừa lớn lên theo màu phù sa đục như nước cơm vo: dừa non, dừa váng cháo, dừa nạo, dừa cứng cạy, dừa rám, dừa khô mà chỉ có những người con của Bến tre mới phân biệt được khi lắc nước óc ách hay nhìn màu da trái dừa. Đất của củ hủ dừa, đuông dừa, chuột dừa, ong rùi dừa( ổ ong rùi nhỏ, chừng bằng bàn tay. Ong thường đóng kèo trong cọng bông dừa. Mật thơm ngon ), nước màu dừa và dầu dừa… Dừa bạt ngàn. Phùng Xuân mòn gót chơn son rong chơi suốt ngày trong rừng dừa rợp bóng mát. Có khi đi từ làng nầy sang làng khác mà hông bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời chói chang.

– Ê, Tri. Mầy có lạc đường hông vậy mậy? Sao vòng vo tam quốc hoài vậy? Dẫn tao tới nhà ông Sáu Xe nhen.

– Hổng có lạc đâu anh Ba. Em đi hà rầm hoài, làm sao lạc được. Đi dưới nầy chắc ăn hơn. Ở trên, họ làm hầm nhiều dữ lắm. Đi lớ quớ, sụp hầm, vướng chông cau, chông tre là anh tàn đời luôn.

– Như vầy làm sao lính biết đường mà đi ruồng được.

– Lính dưới quận đi ruồng hả? Họ đâu dám đi theo đường mòn. Họ băng bờ hông hà!

– Sao mầy rành sáu câu quá vậy!

Khi gần đến khu đất nhà của ông Sáu Xe, thằng Tri lấy tay chỉ cho Xuân hướng đi, rồi nó lật đật rẽ qua ngã khác.

Đất vườn vẫn như cũ nhưng cảnh vườn coi vẻ vắng que. Cỏ dại mọc um tùm. Lối vào sân nhà bây giờ cỏ tranh đơm bông trắng xóa. Tàu dừa rụng đầy sân. Mo nang vương vãi khắp nơi. Xuân đứng ngơ ngẩn hồi lâu. Hình bóng Khanh vẫn còn lảng vảng đâu đây. Đôi mắt em bao giờ cũng mơ màng nhìn vào khoảng không xa vắng, hông có được một nụ cười tươi. Còn Vân? Nụ cười chúm chím luôn luôn hiện ra nơi gương mặt rạng rỡ.

Bếp núc trong nhà lạnh tanh. Một cái dóng đựng đồ ăn treo đu đưa ở góc nhà. Bù hống giăng đầy nơi mái lá. Bàn giữa nhà đầy bụi. Bộ ván hông còn nữa. Xuân liếc nhìn vào buồng cũ của Khanh và Vân. Bây giờ là cái trăn xê chất đầy vỏ dừa. Chàng bước ra ngoài, đi vòng căn nhà, hy vọng tìm được một bóng người ở gần đâu đây. Hổng có. Bên kia bờ dừa, cây dâu da vẫn còn đó, nhưng đã qua mùa trái rồi!! Xuân lần bước men theo đường mòn bờ dừa qua nhà chú Chín. Chàng chợt thấy bóng cái nón lá nhấp nhô lên xuống ở cuối bờ. Nghe tiếng Xuân bước sột sạt, người đó đứng lên.

– Thím Sáu, thím làm gì ở đây?

– Bây mới dìa đó hả? Làm sao bây vô được đây? Tao mót bậy bạ ba củ khoai về luộc ăn.

– Con có ghé nhà. Hổng có ai hết. Vân và chú Sáu đi đâu hết rồi thím?

– Ối… Đi công tác hoài mầy ơi. Vân nó đi cả tháng nay rồi.Còn ổng mới đi hồi qua kia.

– Hèn chi. Bếp núc trống trơn.

– Đồ ăn tao để trong trăn xê. Sợ mọt chê, chạy hông kịp.

– Lính đi ruồng thì thím làm sao thím? Sao thím hông ra ngoài chợ, bên trong ấp chiến lược, ở có yên hơn hôn?

– Ối! Tụi nó có bắt bớ gì bà già. Ở để giữ ba cái dừa. Nếu hông bị bẻ trộm, mất hết.

– Hoang tàn như thế nầy mà cũng có người bẻ trộm sao thím?

Nói vậy chớ Xuân thừa biết bả ở đây là lo ăn uống cho chồng và con gái. Ban đêm ban hôm, họ bất thình lình trở về có chỗ nghỉ ngơi, hội họp và cũng để lấy tin tức.

– Con muốn đi thăm Khanh.Có được hông thím?

Bà Sáu Xe ngước nhìn Xuân có ý dò hỏi. Chàng biết vậy, nhưng im lặng, làm bộ ngó ra chỗ khác. Ít phút sau.

– Ừa. Lâu rồi, tao cũng hổng qua bển thăm tụi nó. Tao nhớ hai đứa cháu ngoại quá. Để tao dẫn bây đi. Mau đi, qua đó xà quần hoài, hông tối về hổng kịp. Bây còn trở ra chợ nữa. Độ rày có ấp chiến lược, khó khăn lắm.

Bả dẫn Xuân đi xuyên qua mấy đám cỏ tranh và những bụi lứt rậm ri rậm rịt, cao lút đầu, đến bờ rạch. Có một cái chòi nhỏ gần bờ nước. Có người canh chừng. Bả vô trong nói cái gì đó với người trong chòi. Xong trở ra kêu Xuân bước xuống chiếc xuồng ba lá. Bên kia là Lương Hòa.

Căn nhà lợp lá cà đốp. Chung quanh vừng bằng lá xé. Bên trong trống tan hoang tát hoác. Cái giường tre để kế bên bếp. Mùng túm vắt lên. Mền hông xếp, cuộn tròn vo bên gối.

Hai quày chuối xiêm đen chín bói nằm bù lăng bù lóc ở góc nhà. Có hai ba nải chuối lá hườm hườm. Một quày chuối tiêu, trái thon dài giống như bàn tay búp măng. Và ba quày chuối già hương. Chắc nhà tính gom góp lại đem ra chợ bán. Cũng hông nhiều nhỏi gì! Có lẽ đủ tiền mua gạo?

Hổng có ai. Bà Sáu lui cui lo dọn dẹp. Xuân đi lần theo bờ chuối ra phía sau. Có tiếng con nít ứ é. Và tiếng ru con nhè nhẹ ở đầu bờ.

Ầu… Ơơ… Chiều nay ra sông Cái tự ái cho rồi. Sống làm chi biệt ly công tử. Ơ… ơ… Chết cho rồi… chết cho rồi… cho đặng chữ hiếu trung. ơ…

Ơ… Ví dầu cầu ván đóng đinh. Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi. Khó đi, mượn chén ăn cơm. Mượn ly uống rượu, mượn đờn kéo chơi.

-Khanh! Khanh! Em làm gì ở đây?

– Anh! Anh!! Làm sao anh vô đây được? Ai dẫn anh đi? Ai chỉ em ở đây?

– Nhiều câu hỏi quá! Chỉ biết là anh đến đây được để thăm em. Em có hai con rồi hả?

Khanh hông trả lời, nhìn xuống thằng nhỏ lớn nhứt đang ôm chơn mẹ. Cái bụng chong bóc. Mũi dãi xanh lè xanh lét, chảy lòng thòng. Thằng bé lấy tay quẹt. Cứt mũi hông tuôn ra hết, dính theo bờ má tạo thành một dọc xanh dài. Khanh dùng tay bịt hai lỗ mũi, vít sạch rồi quăng mạnh một cái. Đứa bé nhìn Xuân, khóc ré lên. Đứa con gái Khanh đang ẳm trên tay cũng khóc theo luôn. Khanh bồng con và kéo lê thằng con trai đến gốc dừa mục.

Nàng ngồi xuống, thản nhiên cổi nút áo, phạch ngực, nâng vú cho con gái bú trước mặt Xuân. Còn nàng, tóc tai bù xù nàng hổng màng tới. Con bé thấy vú mẹ, đưa miệng nút chùn chụt, rồi nín khóc ngay và lấy tay mân mê cái vú còn lại. Xuân nhìn thấy cặp vú nổi đầy gân xanh và xề xệ xuống như vú mướp. Hai vú săn cứng như hai trái vú sữa to trắng chín mộng, đã nhiều lần nằm trong tay Xuân và được chàng vân vê, hông còn nữa. Đôi vú tròn trịa săn cứng như hai mộng dừa của thời con gái, của một thời tình yêu trai gái trẻ trung, bồng bột đã qua rồi. Cặp vú bây giờ mềm nhũn và nhão nha nhão nhoẹt chứa đầy sữa mẹ để nuôi con. Ôi! Mùi thơm của mật ngọt ong dúi đâu còn nữa đâu em!

Xuân hiểu rỏ tình cảnh của Khanh. Làm gì có nhiều đồ ăn bổ dưỡng để có được hai bầu sữa to căng tròn. Nhìn căn nhà, cái bếp là chàng hiểu cuộc sống của người mình từng thương yêu. Giờ đây Khanh xơ rơ xác rác, giống như những bà mẹ Viêt Nam thân yêu, nàng làm tất cả cho đàn con. Con nàng là tất cả. Việc nàng tự nhiên vạch hai vú cho con bú trước mặt Xuân đã nói lên điều đó. Có còn gì e thẹn như thời còn con gái đâu? Bây giờ là mẹ, mẹ của hai đứa con cho nên nàng phải ra sức bảo vệ tụi nó. Phùng Xuân nhìn thấy những điều đó trong đôi mắt nàng. Có lẽ, nàng hông còn nhớ đến mối tình đã qua từ lúc cái đám cưới chạy tang ác nghiệt kia?

– Thằng con trai lớn đúng hai tuổi?

– Ừa!

Một tiếng ừa có vẻ như chắc chắn và nuối tiếc một điều gì đó. Xuân có nên hỏi tiếp hông? Hỏi để khơi dậy sự buồn phiền cho Khanh? Trả lời tức là nhắc lại những lúc ân ái sôi nổi ở Mỹ Nhiên, Cái Bông? Em ơi! Dòng nước trôi đi có bao giờ quay trở lại. Gặp nhau lại trong phút giây ngắn ngủi nầy, biết cuộc sống của Khanh như thế là một sự đau khổ khôn cùng của Xuân. Xuân đành phải đánh trống lãng đi.

– Chồng em đâu rồi? Dượng Ba Đẹn?

– Ảnh ở ngoài đầu bờ dừa lo chặt mấy khúc đinh sét, đập miểng chai…

– Chặt đinh sét? Để làm gì?

– Để bỏ vô súng ngựa trời.

– Súng ngựa trời là súng gì?

– Anh đi tới mà hỏi ảnh.

Từ ngày Ba Đẹn là du kích xã, nó chỉ có một việc là lo làm những cây súng ngựa trời. Ở xã nầy, cả đội chỉ có một cây mút ca tong. Làm súng ngựa trời thì dễ, có gì khó đâu! Hông như mấy ông cán bộ dưới huyện chỉ, nào là phải đi tìm những ống tuýp xe đạp, cưa đi một đầu, còn đầu kia đập bít lại, nhồi đinh sét, miểng chai… ngâm trong cứt và nước đái… Ôi thôi, đủ thứ lu bù, hằm bà lằng quá. Mà ngặt, ống tuýp xe đạp khó tìm lắm! Nó làm theo ý nó. Nó đi kiếm những lóng tre đực thật già, cắt bỏ một mắt, còn mắt dưới dùi một lỗ để chuyền dây. Cái thứ nầy giống như ngày xưa nó hay chơi lúc Tết: ra ngoài tiệm chú Tiều mua cục khí đá bằng ngón chơn cái, cho vô khúc tre đực ướt, đã cắt bỏ một đầu. Chỉ cần lắc mạnh môt vài cái, xong đưa vào ngọn lửa là nó nổ to một tiếng bum dòn tan, còn hơn pháo đại và pháo tre nữa

– Dượng Ba làm mấy cây súng nầy có bắn chết được ai hôn?

– Khỏi nói anh Ba. Hổng chết mà mấy thằng dân vệ sợ chạy té đái. Súng em mà nổ cái ùng hả, tụi nó la oai oái.

– Cây súng nầy dượng làm rồi đó hả?

– Ừa! Xong rồi đó.Anh coi có được hông?

Xuân cầm cây súng ngựa trời dựng bên gốc dừa. Chàng ngó qua ngó lại rồi nhìn vào trong lòng ống tre được nện bít bằng đất sét.

-Dượng bỏ gì trong nầy?

– A.Trước hết là thuốc nổ rồi đến miểng chai ngâm trong nước đái. Cái nầy hổng có đinh sét. Em nện chặt bằng đất sét. Anh coi có được hôn?

Xuân nhìn kỹ một lần nữa. Cây súng nầy bắn chắc chẳng giết được ai, chỉ làm cho người ta trầy trụa xơ xịa ngoài da và hoảng sợ. Xuân đã học về vật lý và cơ học ở lớp đệ Nhứt. Chàng hiểu cây súng có sức phụt hậu và thế nào cũng làm cho người bắn bị thương.

– Làm sao dượng cho nó nổ?

– Em nối dây điện và dùng cục pin dẹp hiệu Con Ó. Rồi chích cho nó nổ.

– Nghĩa là dượng phải nằm từ xa?

– Phải rồi anh Ba. Nó nổ cái oành là mấy thằng dân vệ tá hỏa. Em rút dây điện rồi bỏ chạy.

– Ừa hé! Dượng hông bị súng tống trầy mặt. Dượng có bao giờ trở lại chỗ dượng đặt súng coi nó nổ như thế nào hông?

– Hổng có anh!

– Tôi có nghe mấy ông du kích còn lấy ong vò vẽ đuổi lính chạy có cờ nữa mà.

– Họp xã đội, họ cũng có phổ biến. Nhưng chắc đâu miệt dưới. Ở đây hổng có.

Nói vậy chớ Xuân dư biết mấy cha nầy nói xạo dóc tổ. Kiếm được ổ ong vò vẽ đã là khó. Thỉnh thoảng mới gặp được tụi nó đóng ổ nơi cây cao bụi rậm như bụi tre, bụi đủng đỉnh… Rồi lấy ổ ong càng khó hơn. Phải chờ trời tối, tìm cách leo lên nhè nhẹ và lấy bao cà ròn trùm lại. Mà đâu phải lúc nào cũng có dịp để đuổi lính đi ruồng đâu. Trùm kín ít ngày thì ong chết. Treo lên đâu đó, để dành, lớ ngớ bung ổ ra thì nó đánh có mà chết, chạy đâu cho khỏi. Hồi nẫm, Xuân có nhớ là được ăn cháo ong vò vẽ non. Chàng còn nhớ là đám người lớn đợi lúc tối trời đốt đuốc để ngay miệng ổ ong. Ong bay tuôn ra hết, bị đốt chết, còn lại ong non trong ổ…

– Còn em, Khanh?Sao hông dẫn mấy con ra ở trong ấp chiến lược cho nó đỡ hơn hông?

– Ý đâu được anh Ba! Tụi nó biết em rồi, nó hành vợ em chết!

– Dượng làm dượng chịu, chớ vợ con dượng có làm gì đâu. Có ai bắt bớ gì đâu. Rồi ở trong nầy yên hơn hả? Lúc lính ruồng bố thì làm sao? Ở ngoài xã, thiếu gì người có bà con đi theo bên trong nầy mà có ai nói gì đâu?

– Ảnh có làm cho mẹ con một cái hầm, ở ngoài bờ, dưới củ trối bụi chuối.

– Đất thấp hông bị ngập nước à?

-Cái lu vú bò mà. Có gì ba mẹ con chui xuống đó. Xong ảnh lấp miệng lại. Có một cái ống trúc dài để thở.

– Nóng lắm hả em?

– Hầm hơi và nóng lắm. Nhưng mấy mẹ con ráng chịu. Lính đi ruồng hổng có lâu lắm đâu!

Nghĩ đến đó mà Xuân buồn cho Khanh. Vợ một anh chàng du kích sống một ngày mai vô định. Và biết chừng nào Xuân mới gặp lại Khanh. Chắc hông bao giờ. Bây giờ dòng sông đã chia hai…

Bà Sáu Xe đi tới, vói tay bồng lấy đứa cháu gái, hun chùn chụt. Khanh rảnh tay, bới lại cái đầu tóc cho gọn ghẽ. Bây giờ là đầu tóc của một thiếu phụ, có cái búi to ở đằng sau. Hổng còn mái tóc dài để đến ngang vai như thời nàng đi học. Xong, Khanh nhìn Xuân trân trân. Xuân vội quay mặt đi chỗ khác.

– Anh ở lại đây tối hôm nay?

– Hông. Má và thằng Xuân phải dìa liền bây giờ, để nó kịp ra Lương Quới.

Bà trả lời thay cho Xuân và nhanh nhẩu trả đứa cháu gái lại cho Khanh, rồi ôm hun thằng Hải mấy cái. Tổ cha mầy, mũi dãi tùm lum! Xuân cũng vội hun hai con Khanh, nhưng hun thằng Hải nhiều nhứt, rồi quày quả bước đi, sau khi nói lại một câu nhỏ và ngắn ngủi: anh về nghen em. Phùng Xuân biết đàng sau lưng mình có đôi mắt dõi theo và một trái tim nghẹn ngào…… Một lần chót gặp nhau?

– Bây ráng coi chừng coi đổi hai đứa nhỏ nhen.

– Tui dìa nghe dượng Ba.

Bà Sáu Xe vừa tấp ghe vào bến thì nghe hai tiếng súng tắc cù từ hướng Lương Quới. Bả lật đật buông dầm, hối Xuân mau lên bờ, đi miết về nhà. Gặp thằng Tri dọc đường, nó báo cho bả biết là có lính đang đi vô gần đến chùa. Và đám du kích, có anh Năm Tấn chỉ huy, đang trông chừng tụi lính. Nhiều khi dân vệ ra khỏi ấp đi bắn chim cu.

– Vậy là bây đâu có đi dìa ngoải được. Tối nay phải ngủ lại đây rồi sáng sớm theo tụi nó ra chợ.

Cái chiếu rách và cái mềm mỏng tanh hông đủ để che tụi muỗi ma đói kêu vo ve như sáo thổi. Xuân hông nằm được. Chàng phải ngồi dựa vào góc cột nhà, lấy tay phất lia lịa. Nhiều năm qua rồi, cái mềm cũ mèm nầy đâu còn hơi hướm của Khanh và Vân? Mùi mốc hăng hăng làm chàng ngộp thở. Xuân nhớ đến mùi rơm ở cánh đồng Mỹ Nhiên… Phải chi bây giờ mình chui vô được đám lá chuối khô ngủ giống như heo là yên nhứt?…

Xuân hông chờ được bắc. Chàng đưa xe đạp cho người phụ việc xếp lên nóc đò máy, rồi chui vào trong khoan, tìm một chỗ khuất, nằm gác đầu lên thành ghế. Nước lớn. Gió thổi mát rượi. Sóng bạc đầu vỗ mạnh. Đò máy chồng chành, rẽ mũi áp sát vào cồn Phụng. Một vài bóng người hiện ra trong cù lao. Nghe nói hình như ông Đạo Dừa sắp về ở nơi đây. Tiếng máy nổ xình xịch ru Xuân vào giấc ngủ chiều ngắn ngủi đầy mộng mị…