- 6 -
Tình hình ở Sài Gòn càng thêm rối rắm. Kể từ khi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam được thành lập vào năm 1960, số người ra “bưng” càng ngày càng nhiều. Ở Sài Gòn bây giờ đủ mọi thành phần.
Một số là thân hữu của các ông Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trịnh Đình Thảo… Một số là những người có học giầu sang, có đầu óc thiên tả đi học ở Pháp về. Một số con những trí thức thành thị, hông theo kháng chiến chống Pháp nên gia đình hông bị ly tán, sa sút. Khi Mỹ tuôn ào ạt vô Miền Nam, họ xoay trở nhanh chóng, tạo thành một thành phần trí thức ưu tú gầy dựng nền móng dân chủ miền Nam. Hông như những gia đình giàu có miền quê, theo kháng chiến chống Pháp rồi sau đó lầm lẫn theo Việt Minh. Một số là các thành phần già thủ cựu đã từng theo kháng chiến chống Pháp. Họ về thành, giữ các chức vụ trong bộ máy chánh quyền, từ văn hóa, giáo dục, kinh tế, tài chánh… Chính nhóm nầy mới là nguy hiểm vì họ đi hàng hai, hông lộ diện. Họ hông phân biệt được Việt Minh và Cộng Sản? Còn lại là một nhóm thật lớn: các sinh viên học sinh. Nhóm nầy còn trẻ, có tinh thần Quốc Gia, đầy nhiệt huyết, hoạt động ất hăng say. Nhưng còn một nhóm nguy hiểm hơn: thành phần sinh viên học sinh hoạt động nội thành. Nhóm nầy bị các cán bộ ‘trí vận” Cộng Sản cài vào, khuấy động tình hình chính trị, văn hoá, xã hội ngay giữa Sài Gòn.
Ngay như bà Ba Hạo, bà Ba Đầm, Bà Út Thừ… hông hiểu một chút gì về Việt Minh và Việt Cộng. Và lẽ tất nhiên, những người dân quê mùa chất phác, đâu có phân biệt được rõ ràng đâu là Việt Minh và đâu là Việt Cộng. Năm rồi (1962) Xuân nhớ hình như là chú Mười Tương và chú Sáu Đâu lên ở nhà Xuân mấy ngày. Chắc lúc đó các xã đang thanh lọc để xây ấp chiến lược. Họ bị động. Họ kiếm đường đi vào trong khu. Vậy là bà Ba Đầm cũng vô tình hông hiểu Việt Cộng là gì nữa, nên giúp đỡ họ. Đó chính cũng là một nguyên nhơn mà ViệtCộng lợi dụng để phá hoại miền Nam.
Xuân tần ngần trước cổng nhà rất lâu. Hông hiểu lần nầy họ có hẹn nữa hôn? Hai lần trước, người quản gia cho biết là gia đình đang có công chuyện. Họ đã hẹn hai lần, cách nhau năm, sáu tháng. Chuyên mục rao vặt ở trang trong tờ báo vẫn còn phần dạy kèm trẻ em tại tư gia của Xuân. Chàng muốn bỏ chỗ nầy đi dạy nơi khác cho rồi, nhưng hông hiểu vì lý do gì, chàng cứ tới nơi nầy hoài. Con đường Hồ Xuân Hương đẹp, êm ả có sức quyến rũ hay nơi đây gần nhà, gần trường Đại Học cho Xuân dễ chạy tới chạy lui bằng chiếc xe đạp cũ xì?
Xuân cũng đã có chỗ dạy kèm, nhưng xa quá. Xa tận chợ Hoà Bình, Chợ Quán. Dạy hai buổi trong tuần, đạp xe lần nào cũng tháo mồ hôi hột. Phùng Xuân cũng tính nghỉ cho rồi. Cô học trò cũng tên Xuân có tật vì bịnh sốt tê liệt. Hai chơn đi yếu nhưng cô bé thông minh, lại siêng học, dễ mến. Gia đình nói con Xuân cho biết thầy dạy hay lắm. Bài toán số học nào khó cách mấy, thầy giải cũng được và giảng lại cho em một cách rõ ràng. Em nó thích lắm. Nhờ thầy kèm, chắc thế nào cháu cũng thi đậu vào đệ thất Gia Long. Làm sao bỏ cho đành với một người học trò chuyên cần như vậy?
Cánh cửa cổng mở. Xuân đi theo người quản gia vào nhà, bước vô phòng khách khá rộng, sáng sủa. Chậu lan kim điệp đang trổ bông để cạnh cửa sổ. Trên tường treo một bức tranh lớn của Monet. Vài tạp chí bỏ lộn xộn nơi góc bàn nhỏ hình chữ nhựt ở cuối góc phòng. Người quản gia mời khách ngồi. Xuân kéo ghế nhưng còn đứng tần ngần nhìn mấy trang báo đang lật bỏ dỡ, cho đến khi người giúp việc mang ra một ly nước đá chanh, Xuân mới chịu ngồi xuống.
Người đàn bà trung niên hiện ra. Tóc cắt hơi thấp, buông xõa lơi lơi gần bờ vai. Đôi môi trái tim tô hồng. Hai mắt rạng rỡ và nụ cười tươi tắn. Xuân bối rối, đứng lên chào hỏi.
-Xin lỗi để cháu đợi quá lâu. Ngày mai cháu đến kèm dùm hai cháu nhỏ. Hình như ngày trước cháu cũng ở Mỹ Tho phải hôn?
– Dạ. Lâu lắm rồi, vào khỏang năm 1948… Ở trong tòa nhà của ông Jacques Lê Văn Đức, cuối đường Hùng Vương, gần bến đò Thạnh Trị. Cháu còn nhớ đám cháy kinh hoàng ở xóm Lò Heo, năm 1950(?), từ khu nhà gần nơi cháu ở lan cho đến sát hông trường Taberd, thiêu rụi gần cả ngàn căn của đám dân nghèo nữa.
– Bác biết rồi. Vậy là?
Con đường Hùng Vương là con đường chính của thành phố, chạy dài từ Dinh TỉnhTrưởng đến bến đò ThạnhTrị. Có cây dái ngựa “ giá ngự” dọc đoạn nhà thương, theo thành 11ème RIC, đến sân vận động rồi trường Bà Sơ.Còn lại là me từ nhà Thờ, trường Taberd đến bến đò. Buổi sáng có những xe ba gác đổ phân thùng và xe xích lô chở người đi chợ. Buổi trưa, trời nắng gắt. Con đường vắng hoe. Hình như sự nhộn nhịp của thành phố nằm ở phía chợ, sát bờ kinh Bảo Định, dài qua cầu Quay, dọc theo con đường bờ sông đến ga xe lửa.
Biệt thự của Ông Jacques Lê Văn Đức nằm trong khu đất khoảng nửa mẫu, chung quanh được bao bọc bằng tường gạch chắc chắn, kế bên trường học của dòng Mến Thánh Giá. Có hai khu nhà riêng biệt. Khu dành cho chủ nhân ở với phòng ốc rộng rãi, đẹp đẽ, ra vào bằng cổng chánh. Còn bên trái là căn nhà to, có nhà bếp, nhà kho và hai khu riêng biệt. Phía bên phải có cây da cao, rễ bu chằng chịt, lá phủ um tùm, che khuất tượng Đức Mẹ nằm bên dưới. Phần sau là vườn hoang, đủ thứ cây cối mọc loạn xạ như chuối, mận, khế, sung… Từ lâu hông có ai dọn dẹp. Chủ nhân là người đàn bà luống tuổi, lại bịnh ho lao, hông mấy khi bước ra khỏi nhà.
Ông Trương Văn Mạnh và ông Nguyễn Văn Bạch mướn căn nhà to nầy. Ông Mạnh là một nha công rất giỏi nghề, nghe đâu bà con với nghệ sĩ PhùngHá. Ông ở Nam Vang về Mỹ Tho, mở phòng trồng răng (cabinet dentaire) ở số 28 đường Ariès, kế bên phòng khám bịnh của đốc tờ Nguyễn Kiểng Bá. Ông Mạnh, thời đó chưa quá bốn mươi, sức khoẻ còn dồi dào nên ông tham gia nhiều chương trình thể thao của thành phố như đua xe đạp, bơi lội, đánh tennis, đua xe mô tô. Ông hy vọng có ngày ông sẽ là Phượng Hoàng Lê Thành Các. Nhà ông có một chiếc Harley Davison và một chiếc xe Traction quinze, một tủ lạnh chạy bằng dầu lửa, một cái radio có cặp mắt thần xanh lét để nghe đài Phát Thanh Pháp Á …
Vào lúc đó, ở những tỉnh lẻ làm gì có nha sĩ, chỉ có nha công thôi. Nha công làm đủ thứ: trồng răng, trám răng bị sâu ăn, nhổ răng, làm răng giả, bịt răng. Ngay như đốc tờ thì mỗi tỉnh chỉ có một. Mỹ Tho có đốc tờ Nguyễn Kiểng Bá. BếnTre có Trần Quới Tử. Ông Mạnh lanh lợi, giao tiếp rộng rãi, nên quen biết nhiều thành phần xã hội trong thành phố Mỹ Tho: từ tỉnh trưởng đến người chủ tiệm báo Nam Cường ở cuối góc chợ, gần cầu Quay, đến bác Ba Phước chủ garage sửa xe… Cho nên công việc làm ăn của ông rất phát đạt.
Bên hông căn nhà là một cây trứng cá gốc to gần khoảng một người ôm, cành lá sum sê. Trưa nào cũng có những bầy chim trao trảo bu đầy, kêu trao tráo, nhảy từ nhánh nầy qua nhánh khác, tìm kiếm những trái chín đỏ. Có những buổi trưa hè, ba đứa – Xuân, Phụng và Yvette – chụm nhum nhau chơi những trò chơi của những đứa con nít khoảng tám, chín tuổi dưới gốc cây trứng cá đó. Những buổi trưa đó qua đi nhanh chóng, nhưng Xuân hông bao giờ quên được hình ảnh của cô bé Yvette Đỗ hớt tóc bum bê. Xuân hay len lén xích lại gần, kê mũi sát đầu Yvette. Tóc thơm mùi bông cau nhà ngoại. Có khi cô bé bất chợt quay đầu lại, bắt gặp. Nàng lấy bàn tay vỗ nhẹ lên đầu Xuân mấy cái, cười cười. Nước da Yvette hơi ngăm ngăm và đôi mắt tròn, đen như hai hột nhãn. Đôi mắt đó đã hớp hồn Xuân từ lúc nào hông biết. Mà cho đến bây giờ, ma mắt của Yvette còn ám ảnh chàng mãi mãi trong cơn mộng mị nằm vun vút nơi tiềm thức vời vợi ở cõi Ngân hà xa xăm.
– Cháu kèm cho hai em Trọng và Hùng. Tụi nó đều học ở Saint –Exupéry hết. Tuần bốn ngày được hông cháu? Chỉ buổi chiều thôi, chừng hai tiếng đồng hồ, cho tụi nó khỏi mê chơi, lo làm bài vở. Tụi nó có hai con chị, nhưng mà chị tụi nó hông kèm được. Tụi nó lờn chị, hổng chịu học…
Xuân cẩn thận dựng chiếc xe đạp bên gốc cây mận hồng đào trước nhà. Mặc dầu trời nóng nhưng chàng cũng ráng mặc áo sơ mi dài tay. Tóc chải thêm chút brillantine bóng mượt. Cũng giống như nơi nhà cô học trò tên Xuân, buổi học bao giờ cũng có sẵn ly nước đá chanh để trên bàn. Hai đứa bé rất ngoan. Xuân cố gắng dùng hết vốn liếng tiếng Pháp của mình để chỉ bài cho tụi nó sau giờ học ở trường…
Một giọng nói êm dịu ru nhè nhẹ từ sau lưng Xuân.
– Ông thầy giáo nầy dạy kèm trẻ em bằng tiếng Pháp coi được lắm nhe! Nhưng mà thầy chia verbe aimer có rành hôn?
– Yvette? Yvette?Em ở đây sao? Em làm anh giựt mình!
– Thì em là chị của hai thằng nầy mà!
– Vậy em, em là… con của Tata M…?
Yvette hiện ra từ một tinh vân xa vời. Yvette trở về lại với ước mơ của chàng rồi. Yvette đang cười rạng rỡ, sáng ngời. Mái tóc cắt ngắn và uốn cuộn tròn gọn ghẽ. Đôi má vẫn hồng như mận Hồng Đào MỹTho. Đôi mắt vẫn đen nhánh như hai hột nhãn. Cánh áo trắng mượt mà, cái jupe xanh lơ. Xuân nhìn Yvette mê muội. Hơn mười năm xa rồi, Yvette trở thành một thiếu nữ đẹp, đầy nhựa sống. Chàng mơ màng…
– Em còn nhận ra được anh sao?
– Sao hông? Ê! Hai thằng nhóc này đi chỗ khác chơi để tao nói chuyện với ông thầy của tụi bây một lát coi.
– Em nhận ra anh từ lúc nào?
– Từ lúc đầu tiên anh dạy hai đứa nhỏ. Má cho biết có một anh sinh viên chịu kèm tụi nó. Hình như thằng đó cũng đã ở MỹTho. Em rình xem anh dạy cả tháng chớ bộ. Hóa ra anh cũng hông thay đổi bao nhiêu. Hơn mười năm rồi, em vẫn còn nhớ vóc dáng, cử chỉ của anh. Em vẫn còn nhớ anh. Nhớ anh hay hun trộm tóc em!
– Em cũng vẫn vậy. Anh nhớ đến con bé Yvette hớt tóc bum bê. Da ngăm ngăm. Tóc ngọt thơm bông cau. Cặp mắt tròn xoe đen nhánh. Con bé chơi đánh đũa dở ẹt, chơi búng hột me thua hoài.
– Tại con Phụng chớ bộ! Con nhỏ đó chúa ăn gian.
Cặp môi của Yvette trề ra như hồi xưa, nhưng bây giờ như mời gọi… Chàng nhớ đến ngôi nhà của Yvette ở MỹTho, bên hông con đường của dinh TỉnhTrưởng. Chung quanh có nhiều cây bông sứ cùi màu trắng. Bông rụng bay tơi tả sau những con trốt cuốn tròn. Chàng nhớ đến con nhỏ mặc bộ đồ tắm đỏ chói có đốm bông trắng. Đồ nhát như thỏ đế. Cứ mỗi lần bỏ xuống nước là la choai choái và mặt xanh như tàu lá. Mà nước ở cầu tàu sau dinh Tỉnh Trưởng đâu có gì là lạnh và sâu lắm đâu! Nước ròng còn nhìn thấy lườn tàu, chìm hồi Thế Chiến thứ hai, trồi lên ở kế bên chưn cầu tắm. Cá nóc (Cá nóc sông, nhỏ chừng bằng ngón tay cái ) đâu cắn chim con gái được! ChắcYvette sợ nước và sợ ma da. Cô bé sợ ma da cũng có lý vì nhiều người đã chết chìm ở đây. Rồi sau đó con bé cũng lần lần dạn nước và lội chó cà chủm cà chụp trong cái phao màu mè nhỏ bé…
– Hôm nay anh tính nói với má em cho anh xin dạy ba ngày cuối tuần thôi.
– Còn mấy ngày đầu tuần anh đi đâu?
– Mấy người bạn cũ rủ anh đi Tây Ninh cùng dạy học trên đó.
– Anh hông tiếp tục đi học nữa sao?
– Có chứ! Phải có tiền anh mới học lên nữa được.
– Anh cẩn thận lúc đi tỉnh xa. Tình hình lúc rày hông yên ổn gì mấy. Em vừa đọc báo sáng nay, thấy có trận đánh lớn ở Ấp Bắc (ngày hai tháng giêng năm 1963).
– Việt Cộng khuấy động. Hổng hiểu tình hình đi đến đâu. Mình sống cũng gần được mười năm an lành ở miền Nam rồi.
Rồi sau đó, có những buổi chiều, hai đứa lang thang trên đường phố. Hai chiếc xe đạp chạy cặp song song nhau, nói chuyện trời đất, mưa nắng… dưới những hàng me lão rụng đầy lá sau cơn gió mạnh. Những ngày bát phố mệt nhoài rồi kết thúc ở tiệm cháo cá trong khu chợ cũ. Đôi khi, hai người ngồi dưới gốc thông già trong vườn Bồ Rô. Cặp môi hôn mọng mềm của Yvette vẫn ngọt ngào như sa bô chê chín, như những trái trứng cá chín đỏ hồng thuở xưa… Yvette lượm những trái thông khô rồi liệng đi tứ phía.
– Mình đừng làm như vậy. Hãy chất thành đống cao.
– Tại sao mình?
– Quăng chúng đi lộn xộn, mình sẽ bị chia lìa.
– Ờ hé! Mình tin dị đoan dữ hôn.
Trường Trung Học Tư Thục Tiến Đức ở bên kia đường, đối diện với bến xe Tây Ninh. Khoảng năm 1958 đến 1963, học trò đi học càng ngày càng đông. Trường công ở tỉnh hông đủ cung ứng cho số lượng học sinh quá nhiều. Hơn nữa, trường Trung Học Đệ Nhứt Cấp Lê Văn Trung ở gần ngã ba Ao Hồ, trong khu vực Tòa Thánh Cao Đài, đã đổi thành trường bán công. Ở nội ô Tòa Thánh chỉ có một trường Tiểu Học dạy đến lớp nhứt: Đạo Đức Học Đường, ngoài ra hông có một trường Trung học nào khác. Một số thầy cũ của Jumoir Vương Mạnh Tuấn đứng ra xin phép mở trường Đệ Nhứt Cấp. Cũng có một số người có của, đứng ra kinh doanh. Họ bỏ tiền cất trường lớp rồi thuê một người có bằng cấp cao làm Hiệu Trưởng. Xong, kêu gọi các sinh viên đang học Đại Học dạy ăn lương giờ. Điều khá đặc biệt là khi đó hông thấy bóng dáng các bà, các cô đi dạy học ở tỉnh lẻ.
Trường Tiến Đức là một loại trường kể trên. Ông Ysup-một người Ấn ở Việt Nam lâu đời, có vợ Việt- đứng ra xây cất, mướn thầy Lê Thanh Tâm làm Hiệu Trưởng. Trường chỉ có một dãy gồm bốn phòng học, dành cho từ lớp Đệ Thất đến Đệ Tứ. Học sinh gồm các làng gần chung quanh như Thanh Điền, Bàu Sen, Trảng Lớn… hoặc miệt xa hơn Tầm Long, BếnSỏi đều tụ về đây.
Số học trò quá đông. Mỗi lớp nhồi nhét đến 60, 70. Có lẽ Ông Giám Đốc muốn kiếm lời nhiều nên hông phân bớt lớp. Nhiều khi lớp Đệ Thất bên nầy tập đọc Anh Văn hay Pháp Văn to tiếng, những lớp bên kia hổng học được. Thầy HuyThắng hay phàn nàn nhiều nhứt. Đành chịu vậy thôi. Vách ngăn lưng chừng của lớp học chỉ cao khoảng ba mét hông đủ chặn tiếng vang lan ra cả toàn trường. Thầy Hiệu Trưởng Lê Thanh Tâm cũng nêu ý kiến đó với ông Giám Đốc Ysup. Ông nầy cười. Để coi. Người Ấn đã tính toán bỏ vốn liếng ra có bấy nhiêu thì phải lấy lời vô cái đã.
Những ngày nóng nực, học trò đua nhau cầm tập vở quạt sành sạch. Đứa nào đứa nấy mồ hôi mồ kê tuôn ra như lổ mội, chảy dầm dề. Em trai bị ướt thì cổi nút áo phanh ngực. Còn các em gái thì đâu làm vậy được, chỉ vén tóc lên cao thôi. Tội nghiệp, áo mỏng của các em gái ướt như mắc mưa. Chúng nó đành quạt lia quạt lịa, cố đẩy lùi cái nóng cháy người từ trên mái tôn hắt xuống. Các em xin đi uống nước và đi đái lia chia. Mỗi lần thấy chúng nó dơ tay lên, thầy giáo hông cần biết chúng xin gì, chỉ cần khoát tay là xong. Xuân cầm cuốn sổ điểm danh nóng hổi mà hông đành lòng gọi các em lên đọc bài. Thầy cũng bực bội như em vì cái cravat cứ vướng ở cổ!
Học trò lại còn khổ hơn nữa trong lúc mưa dông. Mây đen kéo tới mù mịt. Trời tối om.Hông có một bóng đèn. Mưa nổ lốp đốp trên mái tôn. Đây là dịp học trò nói chuyện dậy trời đất. Làm gì để trách mắng chúng bây giờ? Hổng học được thì nói chuyện chớ làm gì? Gió mạnh. Mưa tuôn tóe vào lớp. Thầy trò dồn vào một cục về phía cuối góc. Có đứa né tránh hông được, bị ướt như chuột lột. Mưa nhiều khi rí ra rí rích, kéo dài cho đến hết giờ học. Học trò tuôn nhau ra về dưới cơn mưa còn nặng hột.
Trình độ và tuổi tác học sinh cũng chênh lệch nhau quá nhiều. Những em thi rớt vào trung học, những trò đi học trễ vì nhà nghèo… đều vào trường tư. Cha mẹ làm lụng quần quật, mong cho con cái có chút chữ nghĩa, có chút bằng cấp để thoát khỏi cảnh nghèo khó.
Cho nên, có những em ở độ tuổi 15, 16 học lớp Đệ Thất và 17, 18,19 tuổi học lớp Đệ Ngũ, Đệ Tứ. Thầy giáo nhiều khi hông lớn tuổi hơn học trò bao nhiêu. Sự hiểu biết của ông thầy về xã hội bên ngoài đôi khi thua xa những em lớn tuổi.
Một buổi sáng, thầy Đỗ Bá Chúc đang dạy giờ Sử Địa. Đám học trò lớn tuổi ở cuối lớp bu quanh trò Trung Tín, chúi đầu vào nhau đọc cái gì đó và xì xầm bàn tán. Thầy Chúc để ý nhiều lần. Cuối cùng thầy ném cục phấn về tụi nó. Cả bọn lấm lét, thậm thụt chuyền tay nhau một cuốn tập. Thầy Chúc ngưng dạy, đi xuống bàn chót, đến ngay nơi em lớn tuổi nhứt.
– Trung Tín! Đưa cho thầy cuốn tập!
– Dạ. Hông phải của em, thầy!
– Của ai không biết. Đưa cho thầy. Mau lên.
Trò Tín do dự nhưng rồi cuối cùng cũng đưa cho thầy Chúc. Học trò tỉnh lẻ vẫn ngoan ngoản và có lễ phép. Tụi nó rất kính mến thầy, chưa bao giờ tỏ ra vô lễ với thầy. Ngoài giờ học, chúng nó khoanh tay cúi đầu chào khi gặp những giáo sư cùng dạy học ở trường.
Thầy Chúc mở cuốn tập gấp làm đôi, nhầu nát. Cái gì mà tụi nó chuyền tay nhau đọc dữ vậy? A! Cái tựa nghe hấp dẫn: “ Bảy đêm khoái lạc ”. Thầy xếp tập lại, nghiêm nghị nhìn tụi nó rồi làm như hông có gì, thầy tiếp tục giảng bài cho đến cuối giờ học.
– Trưa nay, lúc em Huân đem cơm tới nhà cho mấy thầy. Em Tín nhớ đi theo gặp thầy lấy cuốn tập nầy về.
Trò Tín xanh mặt. Nó nghĩ trưa nay thế nào cũng bị các thầy xạc cho một trận. Mà nếu mét ba má thì nguy hơn. Các học trò gái đều quay mặt nhìn nó. Chắc có gì quan trọng lắm đây, mới đi tới gặp thầy?
*****
– Ê! Thắng, mầy có đọc cái tập: “Bảy đêm khoái lạc” chép tay nầy bao giờ chưa?
-Chưa. Hồi nhỏ đi học thì chỉ biết những điều tốt lành trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư, đâu có biết gì. Lúc học ở lớp Đệ Ngũ, có nghe tụi bạn nói. Hình như cuốn đó dịch từ tiếng Pháp: “Les sept nuits merveilleuses”, nói về chuyện tình dục vợ chồng trong một tuần lễ hưởng tuần trăng mật.
– Thằng Thắng nói đúng đó. Tao đã đọc qua rồi. Nhưng lúc đó còn nhỏ quá, mới 17 tuổi mà. Học trò tỉnh lẻ mà, còn khờ lắm. Đọc xong rồi cũng quên hết. Đâu có dám đem cuốn tập đó về nhà. Tụi tao chỉ lén đọc trong giờ ra chơi.
– Mầy đọc ở đâu Tuấn?
– Ờ! Để tao nhớ lại, Chúc… A! Lúc đó tao đang học ở trường Lê Văn Trung,Tây Ninh, lớp Đệ Lục E, khoảng năm 195… gì đó. Hông hiểu ở đâu mà thằng Bá Chưởng có. Nó lén lút chuyền tay cho tụi tao. Kể cũng lạ, vì đó là trường đạo, trong vùng Cao Đài mà. Học sinh đều phải đọc kinh trước khi vào học. Tao chỉ còn nhớ: “Đại từ phụ xin thương khai khiếu.Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ”… Ngày nào cũng có chào cờ, sau đó hát bài:’Học sinh hành khúc”. Học trò thời đó ngoan lắm: gặp lúc chào cờ phải đứng nghiêm, bỏ nón xuống; gặp đám ma phải dỡ nón ra; gặp thầy cô cúi đầu chào… Tụi tao đi học còn mặc quần xà lỏn và đi chơn không mà! Gặp con gái còn mắc cỡ thấy mồ tổ. Có bao giờ dám tới gần tụi nó đâu, chỉ cáp đôi tầm bậy tầm bạ chơi chơi vậy thôi. Tụi nó cáp đôi tao với con Thia.Tao sợ gần chết, hông dám ngó nhỏ đó.
Chắc rồi, có lẽ ảnh hưởng của văn minh ngoại quốc tràn ngập vô Việt Nam nên mới có loại sách khiêu dâm như vậy. Vào những năm đó, nhà trường có rất nhiều sách báo của Mỹ cho không cho học sinh như: Thế Giới Tự Do, Sự Thành lập Hiệp Chủng Quốc…
– Còn tao…
– Còn mầy sao hả Thiệu?
– À. Lúc nhỏ tao học Taberd. Cuối tuần chỉ biếtTarzan, Zorro, Charlot, Laurel-Hardy, mấy phim của Mỹ đánh với “mọi da đỏ”và những cưốn hình vẽ: “Tintin”… nhờ số bon points của mấy frères thưởng. Tao vào Sài Gòn năm 1957. Rồi thì mình cũng lang thang ngoài phố. Có mấy tay cứ vò vè bên mình, xòe ra các tấm hình các cô gái ở trần ở truồng và mấy cọc tập giấy nhỏ. Tụi nó lấy tay bung rẹt rẹt, hiện ra cảnh làm tình của cặp nam nữ. Nó cò mồi để mình mua. Mình mắc cỡ, te te bỏ đi chỗ khác.
– Còn tớ nghĩ trong cuốn tập đó tả còn thua Nguyễn Du nhà mình nữa. Chỉ có bảy đêm thôi. Trong truyện Kiều là: ‘Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề”.
– Mầy nói đúng đó, Thuyên. Mà thôi, đừng nói đến chuyện đó nữa. Bây giờ tụi bây nghĩ có nên trả cuốn tập nầy lại cho mấy thằng học trò tinh ma đó hông. Theo tao, nên trả cuốn tập lại cho tụi nó. Giữ lại, mang tiếng là mình cũng đọc như bọn nó. Mà tao nghĩ đám đó hông chỉ có một cuốn nầy thôi đâu. Nhứt quỉ, nhì ma, thứ ba học trò. Chắc còn có nhiều cuốn khác của những thằng trời đánh nào đó cho tụi nó mượn. Mất cuốn nầy rồi tụi nó càng chép thêm nhiều cuốn tập khác nữa. Cũng vậy thôi.
– Thằng Xuân nói nghe có lý. Trả lại cho rồi. Xong nói cho tụi nó là các em còn nhỏ, nên cố gắng học hành, đừng nghĩ lung tung lang tang xao lãng việc học, phí công cha mẹ.
– Thằng nào giỏi thì giảng morale cho tụi nó. Còn tao thì hông được. Tao đã có một cuộc sống bồng bột ở cánh đồng Mỹ Nhiên rồi. Tao đâu có tư cách gì mà dạy dỗ đám học trò xấp xỉ tuổi mình.
Mầy nghĩ coi. Trong đời sống xã hội mình, trai gái vừa mới lớn lên đều phải tự tìm hiểu tình dục. Từ chuyện coi chó nhảy đực, heo bỏ nọc, vịt xiêm cồ quầng con mái cả buổi dưới nước… Rồi bọn mình tưởng tượng ra là mình cũng giống như vậy. Cha sanh mẹ đẻ đâu có ai dạy. Họ coi những điều đó như cái gì cấm kỵ, hông ai dám nói ra. Mẹ sanh con ra ở đâu? Ở bụng mẹ!
Mà có nói ra thì thường ví von. Mầy cũng thừa biết là bọn đàn ông gặp nhau bên bàn tiệc rượu thế nào cũng có những câu chuyện tiếu lâm. Họ nhắc đến cái đó nhiều nhứt. Rồi trong câu đố cũng đầy dẫy đó.T ụi bây xem câu đố nầy có phải cảnh làm tình giữa trai và gái có hơn trong: “Bảy đêm khoái lạc” hông?
Mình tròn vành vạnh, đít bảnh bao,
Mân mân mó mó đút ngay vào.
Thủy hỏa tương giao sôii sình sịch.
Âm dương nhị khí sướng làm sao!
(hút thuốc lào)
Đám giáo sư trẻ thắc mắc: liệu cái nhóm học trò gái có bị mấy thằng học trò trai quỷ sứ nầy dụ coi những cuốn tập đó hông? Ai mà biết được học trò thời bây giờ. Văn minh Âu-Tây như cơn gió lốc, đang tràn ngập thành phố Sài Gòn. Tuổi trẻ đang bắt đầu bị tiêm nhiễm lối sống thực dụng và hiện sinh… Quần cao bồi ống rộng, đầu tóc bồng bềnh, điếu thuốc ngậm phì phà là cái mốt. Tình yêu của những đợt sống mới nhen nhúm: nhóm CTYở Sài Gòn, tập thơ: Em Là Con Gái Trời Bắt Xấu của Lệ Khánh. Cuốn tiểu thuyết Bonjour Tristesse (Buồn ơi!Chào mi) của Francoise Sagan được dịch ra, bán tràn hè phố Lê Lợi.
Thời mới lớn lên của đám giáo sư trẻ nầy ở thành thị chỉ biết Oh, Bernadine…, La guerre et la Paix (ChiếnTranh và Hoà Bình), Giant (Vĩ Đại), Le riz amer (Hạt gạo cay đắng), Olé! O’ Cangaceiro… ở những rạp Lê Lợi và Vĩnh Lợi. Phim Pháp, chiếu ở màn ảnh nhỏ, toàn phim đen trắng chỉ có Trung Tâm Văn Hóa Pháp.Ở mấy quận hơi xa nội ô, chiếu toàn phim Ấn Độ và đôi khi phim Nhựt Bổn như Bạc Trắng Lửa Hồng…..
Chắc đám học trò gái nầy cũng tiêm nhiểm trào lưu mới nầy nên chúng bám riết các thầy giáo trẻ. KimHoàng đeo thầy Vương Mạnh Tuấn, Ngọc Cúc chận thầy Nguyễn Thiệu lại hỏi bài miết và Bình Quang thường mang trái cây cho thầy Xuân. Thầy Tuấn là thầy đẹp trai nhứt trong đám giáo sư dạy ở trường. Thầy là con lai mang hai dòng máu Ấn-Việt. Hai cặp chơn mày dài đậm. Mũi cao. Miệng rộng, lúc nào cũng chúm chím cười. Thầy luôn luôn sức dầu thơm loại gì mà tụi nầy luôn gọi là mùi cà ri.
– Ê! Jumoir. Mầy có tính tới hông. Bọn tớ thấy Kim Hoàng câu mầy mấy tháng nay. Nhất định là nàng hông tha mầy đâu.
– Thằng Chúc nói đúng đó tụi bây. Còn Ngọc Cúc nữa chi. Tao nghĩ tụi bây nên làm đám cưới cho rồi. Đám học trò mà đồn rùm lên, tụi mình cũng khó dạy ở đây.
Rốt cục rồi cũng có hai cái đám cưới. Bình Quang càng đeo riết thầy Xuân. Chọn những ngày nào thầy Xuân ở lại và lợi dụng chỗ quen biết với Ngọc Cúc và Kim Hoàng, nàng thường xuyên đem tới đủ thứ trái cây và các loại bánh.
Chiều nay ông Giám Đốc Ysup mời các giáo sư ăn cà ri thỏ. Đã ăn một lần, Phùng Xuân hông thích mùi vị nồng nặc của cà ri Ấn nên ở nhà.
Cả tỉnh Tây Ninh hông có chỗ nào để đi chơi. Sau bốn giờ chiều, cảnh vật vắng lặng. Con sông chia hai thành phố. Một bên là khu hành chánh, có đường sá sạch sẽ, ngăn nắp. Còn một bên là khu buôn bán. Đọan đường ngắn hông đầy năm trăm thước từ cầu Tây Ninh đến ngã tư đi Trảng Sụp-Thanh Điền-Tầm Long có nhiều tiệm ăn, quán sá và rạp chiếu bóng… Còn phía dưới là chợ búa, hàng tạp hóa… Nơi nầy rộn rịp vào buổi sáng, trưa vắng hoe và buổi chiều tối có bán chè, cháo, hủ tiếu và các món ăn vặt…
– Em đem cho thầy nhiều quá vậy?
– Đâu có gì thầy. Chỉ mấy thứ trong vườn của em thôi: đu đủ, chuối, mận, mãng cầu…. Còn bánh thì em làm.
– Bây nhiêu đó thì thầy ăn cũng hông hết. Thầy chỉ ở đây có mấy ngày thôi.
– Thầy đâu có đi chợ mua được trái cây đâu. Thầy chỉ ăn cơm trong gà mên hông hà!
– Mà nè, Bình Quang. Thầy còn thấy trong giỏ đệm em đem ra có thêm một bộ pyjama và mấy cái quần cụt nữa. Bình Quang!
– Dạ!
– Em lập tức lấy bộ pyjama và mấy cái quần bỏ lại trong giỏ đệm.Nếu hông, thầy hổng lấy bất cứ cái gì hết. Mau lên!
Tiếng nói gay gắt của Xuân làm Bình Quang sợ sệt. Nàng vội vàng cầm mớ quần áo đút lại vào trong giỏ. Đôi mắt rơm rớm nước nhìn Xuân.
– Em mới học may. Nên tập may thử mấy cái đó cho thầy.
Xuân quay lại.Trong bóng tối lờ mờ của buổi chiều tàn, hai mắt Bình Quang ươn ướt như hai viên sỏi đen nằm trong lòng suối trong veo ở núi Điện Bà. Thầy ơi, em thương thầy lắm. Sao thầy lại hờ hững với em như thế. Biết bao là công lao khó nhọc, em phải thức đêm thức hôm lén mẹ may những áo quần nầy cho thầy. Thầy hãy nói cho em biết là thầy có thương em hôn? Em khổ nhiều rồi. Sao thầy nỡ khắt khe với em như thế? Hai con nhỏ quỉ kia cứ chế nhạo em hoài. Sao mầy cua thầy Xuân dở thế. Hông giống như tụi tao chút nào.
Hai người nhìn nhau. Xuân biết, bây giờ chỉ cần môt cử chỉ thân mật là mọi việc sẽ thay đổi tất cả. Ông thầy đâu hơn cô học trò bao nhiêu tuổi. Chắc hai, ba tuổi là cùng. Như thế có được hôn? Đâu có ai cấm cản chàng làm điều đó? Nhưng đây hông phải là cánh đồng hoang Mỹ Nhiên. Ở đây, có nhiều người. Ở đây, Xuân là một con người khác-một thầy giáo, đạo mạo trong bộ quần áo tươm tất, đứng giữa một đám học trò ngây thơ, hiền lành, chất phác. Xuân sao dám lợi dụng lòng kính trọng của đám học trò mình thương yêu? Và hơn nữa sự tin yêu của Yvette?
– Thôi em đi về đi. Trời sắp tối rồi. Nhớ cẩn thận lúc đi qua cái trảng gần Bàu Sen trước khi quẹo vào nhà em. Đừng có khóc nữa. Hãy lau sạch nước mắt rồi hãy về. Nếu hông, ngày mai thầy gọi lên trả bài Pháp văn. Em hông thuộc, thầy cho em cặp mắt kiếng.
Bình Quang ngoan ngoản lau khô nước mắt, rồi đi xuống nhà sau rửa mặt…