← Quay lại trang sách

- 7 -

Yvette đón Xuân ở bến xe Ngã Sáu Sài Gòn. Bữa nay nàng diện một cái áo dài vải mousseline trắng nõn. Tà áo bay nhè nhẹ trong ánh nắng chiều. Nàng có bao giờ bận áo dài đâu. Là dân học ở trường Tây, nên cô nàng hiếm khi mặc áo dài bó sát người. Nàng sợ nhứt là ngày nóng nực, mồ hôi tuôn ướt, áo dài làm rộ rõ những đường cong mềm mại của con gái. Chiều ý mình một lần nầy thôi nhé. Mình hông mặc nữa đâu á! Ừ thì chiều một lần thôi mình. Cũng như mình chìu mình ăn miếng fromage Camenbert hôi mùi thui thúi.

– Mình có bao giờ mò đến những tiệm chuyên bán đồ ăn Tây đâu.

Mặc dù Tây đã về xứ từ lúc Ngô Đình Diệm còn làm Thủ Tướng, nhưng sót lại một số dân Sài Gòn vẫn sính Tây. Cho con đi học trường Tây, tên Tây, khoái đồ ăn Tây, sà bông Tây, son phấn Tây… Hông hề biết rằng Tây xuống giá rồi và văn hóa Mỹ đang tuôn vào Việt Nam nhanh chóng. Phòng Thông Tin Hoa Kỳ nằm chình ình ở đường Nguyễn Huệ, còn Trung Tâm Văn Hóa Pháp ở mãi cuối đường Gia Long, gần nhà thương Grall.

Phùng Xuân dẫn chiếc Vélo Solex. Hai người đi chầm chậm ra đường Võ Tánh, quẹo trái về tiệm phở 79 rồi tà tà đến đường Bùi Chu. Tiệm Radio Bốn bể, bán radio và những phụ tùng sửa máy thu thanh. Bà cô ba Son của Xuân có ba người con gái. Người thứ hai là chủ tiệm Radio Bốn Bể. Người thứ tư có nhà in ở đường Nguyễn An Ninh. Bà cô ba vướng víu chuyện tình duyên trắc trở phải bỏ làng ra đi từ lâu.

– Mình đi đâu bây giờ? Em có thích ăn kem hôn?

– Có. Nhưng mà mình hông muốn đến Mai Hương và những tiệm kem ở đường Lê Lợi và Tự Do đâu. Ở đó ồn ào lắm.

– Vậy thì mình đến Phi Điệp đi. Nơi đó yên tĩnh hơn.

Hai người ngồi đợi. Xuân nhìn nàng. Yvette hơi thẹn, lấy tay vuốt những sợi tóc mai vào ven tai. Có điều gì nhè nhẹ len lén đi vào tâm hồn. Xuân nhận thấy một niềm hạnh phúc tràn đầy. Niềm hạnh phúc mà từ lâu Xuân hông có được. Đối với những người tình đã đi qua- có sự khác biệt mà Xuân nhận biết được. Khanh có nét hồn nhiên, mộc mạc dân dã. Sự tươi trẻ như thời hoang sơ của Vân làm chàng mê muội. Bồng bột và bất cần của Loan gây cho Xuân biết bao nhớ nhung. Yvette là sự hoài niệm sâu xa từ trong tiềm thức sống lại như thuở đầu tiên.

Yvette từ từ múc từng muỗng kem dâu màu hồng đưa vào miệng. Vị ngọt tươi mát đang lần lần thấm vào cổ họng đi xuống bao tử. Buổi trưa Sài Gòn, nắng hun hút, đầy đom đóm, nhưng ngồi trong đây nàng cảm thấy bình yên. Hình như có một chỗ dựa vững chắc nơi người tình đến từ nơi nào xa vời vợi của tuổi lên tám, lên chín.

– Ghê chưa! Em như tiên nữ đang tắm nơi dòng suối.

– Anh làm em mắc cỡ gần chết. Em ghét mưa SàiGòn.

– Ai biểu em hôm nay mặc đồ trắng mỏng te làm chi. Trời mưa tháng năm mà em. Coi kìa. Người em lồ lộ như một bức tượng. Rõ màu trong ngọc trắng ngà (Kiều). Để anh lấy áo của anh choàng cho em.

– Đồ quỉ anh nè! Tại anh bắt em bận áo dài. Còn xúi em tới Thiết Lập để may áo cho đẹp. Bây giờ anh lại chối!

– Áo dài làm đẹp người con gái Việt Nam mà em!

Trời đầu tháng sáu. Mưa nắng Sài Gòn đột ngột, lạ lùng. Người đứng bên kia đường ướt như chuột lột. Người bên nây đường khô queo, nóng như đứng trong giàn xấy dừa. Mưa tuôn cái rào, rồi lại ngưng. Nắng hừng hực trở lại. Cầu vồng hiện lưng chừng bầu trời. Móng dài thì nắng. Móng vắn thì mưa. Hông hiểu có phải như vậy hông. Nóng bưng lên đầu. Mặt đường tỏa hơi. Đủ thứ mùi vị xông lên. Mùi ống cống, mùi đống rác hôi thúi, mùi người, mùi xăng xe, mùi sình lầy, mùi thức ăn, mùi đờm phun ra phèn phẹt vung vãi khắp đường xá. Tất cả pha lẫn lộn làm cho không khí sau cơn mưa lại thêm khó chịu.

Sài Gòn oi bức. Sài Gòn thân mến đang ngột ngạt, khó thở vì ảnh hưởng phong trào đấu tranh của Phật Giáo miền Trung do Thích Trí Quang cầm đầu.

– Trời ơi! Trông ghê quá các thầy ơi.

– Cái gì mà ghê dữ vậy, thầy hiệu trưởng?

– Ngày hôm qua 11 tháng 06, lúc từ Tây Ninh về Sài Gòn, gần đến ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng, xe đò bị chận lại. Đợi lâu quá, tôi hỏi anh lơ xe. Có chuyện gì vậy? Hổng biết nữa. Mấy ông sư, đông lắm, vừa đi vừa gõ mõ tụng kinh theo sau một chiếc xe hơi. Mấy ổng bít ở chỗ đó rồi, làm sao chạy được.

Mình nghĩ chắc có chuyện gì đây. Xuống xe. Đi bộ. Chen qua đám người đến ngã tư. Một ông sư đang ngồi im, hông động đậy. Một số đông sư đang tụng kinh gõ mõ vang trời. Cảnh sát chung quanh cũng án binh bất động, hông phản ứng gì cả.

Bất thình lình, có một nhà sư xách một can xăng nhanh nhẹn tưới lên ông sư đang ngồi im. Thôi chết rồi, họ đốt ông sư nầy chắc, tôi tự nghĩ. Mà thật, ông sư rưới xăng vừa ra khỏi là lửa bùng lên.

– Thầy nói sai. Tôi vừa đọc báo sáng nay. Ông sư tự thiêu mà. Ổng tên là Thích Quảng Đức.

– Sao mầy biết ổng tự thiêu hả Thiệu? Tao cũng đọc nhựt trình như mầy. Mà tao hỏi thiệt mầy nhen. Nếu ổng tự thiêu, sao ổng hông tự đứng lên, bưng lấy can xăng đổ vào người ổng, rồi ngồi xuống đàng hoàng tự châm lửa, đốt. Đàng nầy ổng ngồi im như chết, đợi người khác rưới xăng lên mình. Tức là ổng làm sao đó?

– Ổng làm sao đó là làm sao hả Xuân?

– Mầy có cách suy luận khác?

– Thôi, các thầy đừng tranh luận nữa. Đến giờ dạy học rồi.

Vì ngày 11 tháng 06 năm 1963 là ngày thứ ba. Phùng Xuân kẹt những giờ dạy. Cuối tuần, Phùng Xuân hối hả về Sài Gòn. Có cái gì liên quan giữa Mỹ-Việt Cộng-Phật Giáo trong mấy tháng nay? Họ tung hứng nhịp nhàng lắm. Ông Diệm hông cho Mỹ đổ bộ vào Miền Nam? Phật Giáo muốn khuynh đảo chính trường, đưa họ trở lại như thời Lê, Lý,Trần? Việt Cộng muốn tấn công miền Nam? Mình hông hiểu nổi. Báo chí thì đăng tùm lum. Họ đang hùa theo PhậtGiáo. Mấy ông sư độ rày có giá.

– Mình có biết tin nhà sư tự thiêu hông, Yvette?

– Có, mình. Đọc nhựt trình. Báo nói theo báo. Ra đi ô nhà nước nói theo nhà nước. Hông biết đâu mà lần?

– Sao lạ vậy? Anh hông hiểu có chuyện gì? Đi dạy ở tỉnh lẻ, cuộc sống buồn tẻ lắm. Chuyện xảy ra ở Sài Gòn gần như hông ảnh hưởng đến đời sống thường ngày của họ.

– Chỉ có nghe một tin duy nhứt, mà hổng biết đúng hay là sai.

– Tin gì vậy em? Có là tin giật gân hông?

– Cũng gần như vậy. Chắc là tin ngoài lề. Bêu xấu nhau. Người ta đồn, có một chú tiểu tên Chấn nào đó, trốn quân dịch. Nói anh ta là người ngồi chờ, cầm móc sắt để vít trái tim của nhà sư Thích Quảng Đức ra ngoài cho khỏi bị cháy thành tro.

– Có như vậy sao? Chắc là tin chó cán xe. Hổng có ai mà tin được đâu, trong tình thế như vầy nè. Em cẩn thận khi nói tin nầy cho người khác biết. Tình hình đất nước mình lúc rày sao nghe nó ngột ngạt quá. Ngoài Trung tự thiêu, trong Nam biểu tình. Hình như có nhóm sinh viên cũng rục rịch xuống đường. Mấy ông sư làm dữ quá. Mà thấy, ông Diệm có đem lính đàn áp đâu? Anh nghe đài Mặt Trận Giải Phóng chửi ra rả, riết rồi cũng phát chán. Cuối tuần mình đi đâu cho khuây khoả đi. Ở trong nầy hoài ngộp thở lắm.

– Mình đi về Chợ Đệm ăn cháo lòng đi mình. Qua khỏi quán Ba Râu ở cầu Bình Điền là tới chớ gì!

– Hơi xa đó. Hay là mình đi chỗ nầy…

Hai đứa qua ngã tư Hàng Xanh rồi đến Cầu Sơn. Họ dẫn xe lên cầu Kinh, đứng nhìn dòng nước đục ngầu. Cầu Sài Gòn còn mới tinh, nằm vắt ngang qua con sông rộng. Phía trước là Bình Quới. Đạp xe len lỏi qua những hàng dừa mát rượi, hai đứa tới bờ sông.

– Cùn đường rồi mình. Bên kia là đâu?

– Đây là bến đò. Bên đó là ThủĐức.

– Mình chưa bao giờ tới chỗ nầy? Sao mình biết ở đây?

– Lúc anh còn học Trung Học. Nhà lúc đó nghèo lắm. Vừa mới từ Bến Tre dọn lên. Đâu có nhiều tiền để đi coi xi nê. Anh phải đi kèm trẻ như bây giờ. Thỉnh thoảng chủ nhựt nào cũng đạp xe cùng một vài người bạn về những vùng ngọai ô để vui chơi. Anh hay tới đây, ngồi ở dưới gốc dừa, đọc các cuốn sách bán dọc vĩa hè. Và những lúc sau nầy nữa, trước khi đi dạy, để đọc những cuốn em cho mượn:Le nouveau classe của Milovan Djilas, La guerre et la Paix (Chiến Tranh và Hòa Bình), Anna Karenine,… của Léon Tolstoi, Le Crime et Châtiment (Tội ác và Hình Phạt),…của Dostoiesky, La mère (Người mẹ) của Maxime Gorky. Và cả cuốn Graziella (của Lamartine) mơ mộng, hồn nhiên, trong trắng. Riêng cuốn La Porte étroite (Cánh cửa hẹp) của André Gide đã dẫn anh tới: Retour de l’URSS(Trở về từ Liên Bang Sô Viết) làm anh miên man nghĩ đến chế độ Cọng Sản. Vốn liếng tiếng Pháp của anh đâu bằng em. Anh cũng hiểu lỏm bỏm thôi em à!

Thế nào em? Có cái gì trường tồn được với thời gian. Trãi qua từ thế hệ nầy sang thế hệ khác, ước mơ về một cuộc sống công bằng, tự do vẫn là một lý tưởng tuyệt vời. Anh thấy bao giờ lý tưởng đó cũng xa vời vợi. Niết Bàn đâu ở đâu xa, hơn ngàn năm vẫn mù mút mắt. Cõi đời sau an bình nơi nước Chúa xa tít mù xa hơn cả nghìn năm nay. Đừng hy vọng tìm thấy Thiên Đàng ở cõi đời sau mà hãy cố gắng tìm kiếm Thiên Đàng ở cõi đời nầy.

Phùng Xuân ngồi tựa lưng vào gốc dừa, ngó ra dòng sông rộng đang chảy cuồn cuộn, nói miên man. Yvette nằm gác đầu lên hai bắp vế người tình, trìu mến nhìn người yêu dấu. A! Lại có người trai trẻ mơ mộng…..

– Lần sau mình về lại Mỹ Tho đi nghen mình!

– Ờ, hén, mình. Rồi mình chắc chắn sẽ trở lại MỹTho.

– Sao lại chỉ có mình mình. Còn con mình nữa chứ mình?

Chàng thanh niên hông quay lại nhìn người tình. Xuân thầm nghĩ: Có được như vậy hôn?

Ngọc Tiền là một cây te trong làng bum của nhóm bạn bè đang học Văn Khoa. Gia đình nào có mở tiệc nhảy đầm là có bóng dáng xừ- lũy. Người hơi cao cao, hông bô trai lắm nhưng lũy nhảy cha cha cha, bì bộp, pasodoble… coi thanh thoát. Khi còn học Đệ Nhị, Đệ Nhứt ở PéTrus Ký, lũy đâu có thời giờ nhiều để mà nhảy đầm, còn phải lo gạo nữa chớ. Nếu hông, làm bùi-kiệm thì lúa. Ông bà già nhằn cho sói trán. Sau khi đậu bằng TúTài hai, nó nhảy nhiếc tỏ ra hăng say hơn. Vậy mà năm nào cũng vớ được một cái chứng chỉ. Hông hiểu năm nay ra sao. Mặc kệ. Lũy cứ tiếp tục te cho đả. Ông bà già hăm nó. Năm nay rớt thì cúp tiền. Gặp Xuân và Yvette trong tiệc nhỏ cũng có xập xình kèn trống.

– Ê mầy. Nghe tụi nó nói lúc rày mầy trở về Tây Ninh, dạy ở trển phải hông mậy? Có được nhiều địa hông?

– Làm gì nhiều? Dạy ít giờ để có tiền học thêm vậy mà. Làm nghề bán cháo phổi cũng hông chắc được lâu đâu? Tình hình lúc rày đang hồi rối ren lắm. Biểu tình chống đối tùm lum. Ba bốn thế lực chực lăm le giành giựt. Chiến tranh đang sắp mở màn. Hổng khéo tụi mình sẽ bị động viên hết. Mầy chắc hông có thời giờ để nhảy nhót nữa đâu.

– Tao cũng nghe nói có nhóm sinh viên cũng rục rịch xuống đường. Tụi nó trong nầy cũng bắt chước đám ngoài Trung. Ở ngoải, sinh viên làm dữ lắm. Có Bác sĩ Lê Khắc Quyến và các giáo sư khác cầm đầu.

– Tình hình như thế nầy, hông hiểu sao chính quyền lại cách chức Linh Mục Cao Văn Luận làm gì nữa. Có khác gì chế dầu vào lửa.

– Rồi lại cái ông sư Thích Trí Quang tuyệt thực ở chùa Xá Lợi hôm 18-8-1963 nữa. Lửa sẽ bùng lên.

Lửa sẽ bùng lên. Không khí chánh trị Sài Gòn ngột ngạt. Những cuộc biểu tình và tuyệt thực xảy ra liên tục. Chánh quyền bắt đầu ra tay bắt bớ những người Cọng Sản nằm vùng xúi dục Phật Giáo. Một vài người bạn gái nhỏ học Gia Long, qua cửa sổ phòng học ngó sang chùa Xá Lợi, xầm xì bàn tán về chuyện cảnh sát ập vào chùa bắt đi những ông sư. Những cô cậu học sinh, sinh viên một lần kinh sợ khi một trái lựu đạn quăng vào đầu cô sinh viên Trần thị Ngọc Loan rồi sau đó mới phát nổ năm 1963. Cô bị điếc và bị mất chơn. Và chắc là cô hông bao giờ dám bén mảng đến rạp hát Vĩnh Lợi nữa. Bọn khủng bố thường dân vô tội sao hông liệng vào rạp Lê Lợi có chết nhiều hơn hôn? Nổ ở rạp Lê Lợi, nằm khuất trong nầy-đường Lê Thánh Tôn- đâu có gây sợ sệt và kinh hoàng bằng ngoài rạp Vĩnh Lợi?

Ngày mùng một tháng mười một năm 1963 là ngày thứ sáu nhằm vào lễ Toussaint (Các Thánh). Trước đó nửa tháng, ông Hiệu Trưởng trường Tiến Đức đã quyết định tổ chức một buổi du ngoạn núi Bà Đen bằng xe đạp. Cho nên chiều thứ năm Xuân hông về được Sài Gòn. Sáng sớm, khoảng độ năm mươi em học sinh cùng các thầy ra đi lúc chợ chưa nhóm. Hơi nước còn lượn lờ trên mặt sông. Họ đạp xe theo con đường đất đỏ dẫn lên núi Bà.

Khi còn học trường Lê văn Trung, khoảng năm 1953(?), thầy Vương Mạnh Tuấn đã cùng các bạn đạp xe vòng quanh núi Bà. Khởi đi từ TâyNinh, đến Kédol, vòng qua phía sau núi, đến Phan, trở về ngã ba Suối Đá, đi ngang qua TòaThánh, qua Trảng Dài, rồi trở về trường trong vòng một ngày. Cả bọn mệt nhoài, nhưng mà vui vẻ. Các cô bạn gái coi ra cũng khoẻ hông thua gì bọn con trai. Có lẽ nhờ các thầy Âu Quang Nhứt, thầy Thuần, thầy Lê Minh Đạo, thầy Hồ Thái Bạch… nên các em học trò được một ngày học hỏi rất nhiều thứ…

Mặt trời vừa chớm khỏi đầu núi hơn sào. Cả nhóm đã đến mộ Trình Minh Thế. Cho xe đạp lủi hết vào đám tranh, họ ngồi nghỉ, rồi ăn để chuẩn bị leo núi. Trong lúc đó, thầy Hiệu Trưởng mở rađiô transitor lên nghe tin tức. Hông có gì hết, ngoài loạt tiếng nói: « sáng nay, Hội Đồng Quân Nhân đã đảo chánh, truất phế Tổng Thống ». Nhóm thầy giáo bàng hoàng. Ngay lập tức thầy Thanh Tâm ra lịnh cho mọi người quay trở về. Họ im lặng. Hông nói với nhau một lời. Cố đạp rút về TâyNinh.

Dân tình ở đây vẫn rộn rịp ồn ào như thể hổng có chuyện gì xảy ra. Chiều hôm đó, hông còn xe đò về Sài Gòn. Mua báo thì tin tức cũ của ngày thứ năm. Xuân lại một đêm mất ngủ, thao thức. Cạn hai ba bình trà rồi mà các thầy giáo vẫn còn băn khoăn. Đứa nào đứa nấy cũng đưa ra những lý do lật đổ chế độ: gia đình trị, đàn áp đảng phái, đảng Cần Lao tự tung tự tác, Phật Giáo khuynh đảo, thế lực Mỹ muốn thay người, Việt Cọng phá rối?… Rồi mai đây lại xảy ra chiến tranh? Tình hình sẽ rối ren? Chắc sẽ có lệnh tổng động viên? Thầy Tô Trần Nguyễn và thầy Trần Đình Thuyên bàn cãi hăng say nhứt. Bàn ra tán vào thì đã gần hai giờ sáng. Một đêm hông ngủ.

Cả bọn ra bến xe đò để đi chuyến sớm. Có lịnh giới nghiêm. Xe hông tới được Sài Gòn. Đi xe chuyền về Gò Dầu, về Trảng Bàng, về Củ Chi, rồi tìm cách vào Sài Gòn thì cũng đã gần chiều tối. Thủ đô sao im ắng, bình thản lạ lùng. Hết giới nghiêm… Người ta đi lại vẫn như thường. Hình như hông có chuyện kinh thiên động địa xảy ra. Giết chết một Tổng Thống. Giết chết một chế độ Cọng Hòa còn non trẻ. Hy vọng một chế độ mới tốt đẹp hơn nằm trong tay sai khiến của kẻ khác. Miền Bắc sẽ sung sướng, sẽ có ngày chiếm trọn đươc miền Nam, thực hiện giấc mơ thế giới Cọng Sản đại đồng?