← Quay lại trang sách

PHẦN 2 Một Thời chinh chiến

Nguyễn Ngọc Tiền đột ngột nộp đơn vào trường Võ Bị Đà Lạt. Có phải vì lủy sợ bị động viên đến nơi hay là nó thích nhà binh? Phùng Xuân tìm gặp nó để hỏi về tình hình đảo chánh đã qua. Nó cũng ngớ ra, hông dè xảy ra mau như vậy: nghĩa là họ giết Ông Tổng Thống một cách chớp nhoáng, hông thương tiếc, cạn tàu ráo máng. Ông Diệm đã có ý muốn điều đình rồi mà. Những ý tưởng giành giựt quyền lực, thanh toán lẫn nhau vẫn còn đầy dẫy trong một xã hội phong kiến Việt Nam nhiều hận thù. Trần ThủĐộ chôn sống dòng dõi nhà Lý. Nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn giết nhau, đào mộ lẫn nhau… Cải Cách Ruộng Đất miền Bắc của Cọng Sản: chặt đầu, chôn sống, giết oan uổng biết bao nhiêu mạng người… Cọng Sản thanh toán Quốc Gia, máu đổ biết là bao nhiêu!

– Thì tao cũng khoái như Nguyễn CôngTrứ chứ mậy! Phen nầy lại vòng trời đất dọc ngang ngang dọc, nợ tang bồng vay trả trả vay một chút coi.

– Tao tưởng mầy tối ngày chỉ biết nhông nhông trên chiếc Vespa, hết chạy từ nhà nầy đến nhà khác để có bum mà te cho đả.

– Bây giờ đã đến lúc chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, xếp bút nghiên theo viêc đao cung như trong Chinh Phụ Ngâm. Loạn ly đến nơi rồi mầy!

– Sao mầy biết?

– Những thằng đi bum bộ mầy tưởng tụi nó chỉ có biết nhảy nhót hông sao? Tụi nó cũng thông hiểu thời sự lắm. Bàn ra tán vào tối ngày. Còn mầy, Xuân?

– Còn tao? Chàng tuổi trẻ vốn dòng nghèo kiết(!), xếp bút nghiên theo việc đao cung. Nhà tao lúc nầy cũng nghèo lắm. Sau chiến tranh, hông còn gì cả. Tao nghĩ tao đi dạy bây giờ có lương ba cọc ba đồng để tiếp tục học nữa, nhưng có bằng cấp rồi thì cũng làm nghề bán cháo phổi. Tao hông thích gõ đầu trẻ. Như mầy nói: đất nước loạn ly đến rồi. Rốt cuộc cũng bị động viên vào nhà binh ráo trọi.

– Thì nộp đơn vào Võ Bị như tao đi.

– Để tao đi rủ thằng Nguyễn Bá Lai. Nó đang học bên khoa học nhưng lại ráng kiếm thêm MG nữa. Cái thằng sao ôm đồm quá. Hông hiểu nó có chịu đi hôn hay là đợi bị động viên?

Những thằng trai trẻ sống một thời thanh bình như Ngọc Tiền, Bá Lai, Phùng Xuân… hông biết rằng người chỉ huy trưởng trường Võ Bị Đà Lạt-Đại Tá Nguyễn Ngọc Huyến- đã bị phe đảo chánh bắt ép về phía họ, góp phần xóa đi một thời tươi đẹp của nền Cộng Hoà còn non trẻ?

Cuộc sống Ngọc Tiền đã biến đổi hoàn toàn sau hai tháng đầu tiên ở quân trường. Mái tóc bồng bềnh kiểu bụi đời đã hông còn. Thay vào đó là cái đầu bị húi cao lên, giống như đầu cá lóc. Lần đầu tiên, thoạt nhìn vào kiếng, nó hơi ngỡ ngàng, cúi đầu nghĩ ngợi. Nhưng có thời giờ đâu để nghĩ tiếp. Tiếng còi lại thổi. Lại phải chạy. Tập hợp, chạy. Đi ăn, chạy. Đi học, chạy. Đi ngủ, chạy… Chạy rút về phòng để còn kịp leo lên giường.

Mầy ngày đầu tiên, tự nhiên nó ôm đầu khóc oà như đứa trẻ. Khóc một mình. Khóc cho đã. Nuốc tiếc một thời ăn chơi vui vẻ, nhớ bồ, nhớ nhà? Bị cán bộ tân khóa sinh bắt gặp. Chạy hết ba vòng sân. Năm chục cái hít đất và một trăm cái nhảy sổm. Mệt phờ râu. Chỉ kịp bung đôi giầy, nó ngã ỳ ra sàn nằm thở khò. Rồi lại khóc. Rồi lại bị bắt gặp. Tiếp tục ba vòng sân, trăm cái hít đất, năm chục cái nhảy xổm. Đêm nào, anh em sắp sửa đi ngủ, cũng nhìn thấy một mình nó lệt bệt vừa chạy vừa la: Tôi hông nhớ nhà nữa!

Kỷ luật nhà binh làm cho nó khó chịu: ăn ngồi thẳng lưng, bưng chén cơm vuông góc, đi đứng tỏ ra mạnh bạo, hùng dũng, hô lớn tiếng… Rồi mọi việc sẽ qua đi. Thằng Nguyễn Bá Lai nói. Phùng Xuân cũng nghĩ vậy. Đã trôi theo dòng nước thì cứ trôi theo đi. Đôi lúc bị tắp vào bờ rồi lại cũng phải xuôi theo con nước. Chừng mươi hôm hông thấy nó chạy nữa. Chắc nó tởn rồi. Mấy tháng sau, nó tỏ ra cứng cỏi.

– Mầy có còn muốn te nữa hôn?

– Còn mẹ gì nữa đâu mà te với tét! Bị dợt te tua thì có!

– Mầy chịu cơm nhà binh rồi đó nghen, Tiền.

Quân trường như là một không gian khép kín. Mấy tháng đầu tiên, bọn Xuân mù tịt về tình hình xảy ra bên ngoài. Trong môi trường sống mới, Phùng Xuân đã mất dần tin tức của những người bạn ngày xưa. Xa Sài Gòn là hông còn biết được gì hết. Bây giờ Sao Trên Rừng ra sao rồi? Đỗ Bá Chúc, Thắng, Thuyên, Vương Mạnh Tuấn, Nguyễn Niên(Thiệu) có còn dạy ở trường Tiến Đức nữa hôn? Nhóm học trò ngày xưa nay đâu rồi?…Còn gia đình? Còn mấy em sống ra sao rồi?

Chỉ có còn những lá thư từng tháng của Yvette đầy những lời âu yếm, nhớ nhung dày dằng dặc. Nàng trách móc sao chàng vội vàng nộp đơn vô Võ Bị mà hông cho nàng và gia đình biết. Yvette kể không khí sôi sục ở Sài Gòn. Việt Cộng khủng bố tùm lum. Mìn nổ, lưu đạn quăng tưới hột sen vào đám dân lành. Miễn sao gây được tiếng thì thôi. Phe phái tranh giành quyền lợi. Chỉnh lý rồi Hiến Chương Vũng Tàu. Học sinh, sinh viên xuống đường. Tướng NguyễnKhánh, đã có một lần thăm trường Võ Bị, phải túm nắm đất sống lưu vong.

Hông còn gì để nhớ. Chỉ có những người bạn mặc cùng màu áo, cùng giống nhau ở đôi giầy MAP, cùng giống nhau ở cái nón, cùng giống nhau ở cây súng trường Garant M1, tập hợp cùng một lúc, chạy đi ăn cùng một lúc, cùng ăn giống như nhau ở đôi đũa, cái chén, ly uống nước và cả nước uống…

Nguyễn Tâm Hồng là thằng lý lắc, nghịch ngợm nhứt. Nó là dân ET, Thiếu Sinh Quân mà! Cuối tuần khám xét: đánh giầy sơ sơ, quần áo nhét, đút lung tung. Nó cào cọ cho có nếp khi xếp mền gối và quần áo. Cây súng trường hông bao giờ lau chùi được sạch sẽ. Vậy mà khi khám xét cuối tuần lại hổng có gì hết. Cái thằng hên thiệt. Rồi nó cũng dung dăng dung dẻ ra phố.

Thằng nào lại hông tán dóc với mấy cô bán hàng trong chợ Hòa Bình, ăn phở Bằng… rồi la cà ở cà phê Tùng, nghe nhạc… trong khói thuốc mờ mịt. Thời gian đầu là lân la nơi các hàng bán đồ đạc ở chợ Hòa Bình cho đến chiều, rồi theo xe ChiLăng về trường. Có thằng về sớm hơn. Hai ba giờ đã thấy lót tót tới cổng rồi. Có nhiều thằng cũng trời ơi lắm. Tụi nó dò đâu ra địa chỉ của Bà Chín Thái ở đường Trần Hưng Đạo, rồi rỉ tai nhau. Thằng Lai biết thì thằng Xuân cũng biết. Ở Sàigòn lâu năm, chắc thằng Lai là thổ địa. Nó biết những khu ở đường Lý Thái Tổ, khu bến xe Pétrus Ký…. Giờ đây ở Đà Lạt hông hiểu sao nó mò đâu ra chỗ đó. Rồi lại quen các cô nữ sinh Bùi Thị Xuân….

– Đi với tao tới chỗ đó chơi!

– Hông. Mầy dẫn tao tới nhà các cô học ở Bùi Thị Xuân như Trang, Ngọc, Lệ An…. thì tao tới. Đến các cô còn có trà nước, ăn kẹo. Ngắm các người đẹp rồi tán dóc chuyện trời mây đất nước, có thú vị hơn hông. Còn hơn mầy tới đó, vừa tốn sức vừa tốn tiền.

– Tới đó đỡ hơn. Mầy cà kê hoài với các cô đó, mai mốt mầy sẽ làm rể Đà Lạt.

– Có gì đâu? Chỉ nghe Trang, Ngọc ca nhạc của Đòan Chuẩn, Lệ An ngâm thơ của Lệ Khánh. Mở rađiô lên nghe tiếng hát cao vút của Thanh Tuyền. Rồi lâu lâu rủ các em đi bát phố Đà Lạt, ăn phở Bằng, uống cà phê Tùng.

– Tập thơ: Em là con gái trời bắt xấu của Lệ Khánh?

– Chắc cô ta yêu một chàng trai Võ Bị nào đó. Tao hông biết nữa.

Nói vậy chớ Xuân hông dám lui tới hoài với các cô Trưng Vương. Hình bóng Yvette vẫn lẽo đẽo trong cơn ngủ…

Tháng mười hai. Trời trở lạnh. Hoa Pensée mọc ngoài vườn chen chúc trong lá xanh những màu đỏ thẩm, tím than, vàng tươi. Hoa đào đỏ thắm nở rộ theo những đường thông thủy. Các cô gái Đà Lạt lại càng đẹp thêm trong những cánh áo lạnh đủ màu. Họ nói bằng giọng ‘HuếĐàlạt’ nhẹ nhàng như chim hót.

Đã cầm giấy phép trong tay, Xuân còn ngỡ ngàng. Tại sao có sự lạ lùng nầy? Xuân hông kịp hỏi Trung Úy Phạm Xuân Thất lý do, chỉ biết rằng có người đang chờ ở ngoài Câu Lạc Bộ Nhữ Văn Hải. Xuân có linh tính biết chắc người ấy là Yvette.

Mở cửa nhìn quanh. Đâu rồi? Ở đâu rồi? Kìa kìa. Đúng là Yvette. Nàng ngồi ở góc bàn, khuất sau bóng cửa sổ. Như một thiên thần trong chuyện thần tiên. Em đây rồi. Đứng lên mừng rỡ. Anh như ngộp thở. Dừng lại. Chỉ muốn nhào tới ôm trọn em vào lòng, hun một cái thật lâu trên má, trên môi. Vùi mũi vô những tơ đen mun để hít hít mùi tóc. Mùi bông cau. Bộ quân phục bắt dừng lại. Anh hông muốn ở đây lâu đâu em. Anh hông hun em được. Mình ra taxi đi em. Chắc em neo xe lâu rồi. Mình đi mau ra cửa. Tới xe tắc xi. Tóc vẫn còn thơm ngọt bông cau nhà Ngoại.

– Đúng là dân nhà binh. Mình ôm siết em quá, hun em lâu quá làm em ngộp thở. Em chết bây giờ.

– Thì cho chết đi, để nhớ mãi mãi. Khỏi phải tương tư từ lúc em còn tí xíu, tám chín tuổi.

– Chết đi để nhớ mãi mãi à mình? Còn mai sau, lỡ em xa mình, mình có bao giờ nhớ em hôn?

Tình yêu đầu đời nuôi dưỡng cuộc sống. Đời người có thể tàn tạ, già nua héo hắt nhưng mối tình đó vẫn sống mãi. Hãy ấp ủ nó để bao giờ cũng thấy cuộc đời tươi đẹp hơn.

Chiếc xe tắc xi đi vào cửa sau của tòa nhà đồ sộ nằm trên ngọn đồi cao thoai thoải. Mặt trước khách sạn Palace nhìn về núi Liang Biang, núi Voi, trường Yersin và hồ Xuân Hương…

– Trời nhiều sao quá hả mình?

– Nhiều sao lắm. Sao nào là sao của mình, còn sao nào là sao của anh trong thiên hà tít xa xa? Mình nhìn về bên trái đỉnh LangBiang kìa. Chòm Bắc Đẩu đã dẫn đôi sao mình tới đó để mình có ngày gặp nhau đêm nay.

Chiếc giường rộng rãi, sang trọng vẫn còn chật chội cho hai người. Những cái hun rất lâu, rất lâu đến ngộp thở. Mắt nhìn tận mắt khờ dại. Môi cắn môi rướm máu. Có phải hơn năm rồi anh hông hun em? Những cái hun trả bằng những chữ yêu đương em viết cho anh và anh viết cho em. Hun đến rã rời, đờ đẫn, nghẹt thở đến chết thôi.

– Hai ông bà già hình như hông đồng ý chuyện chúng mình. Ba có vẻ im lặng, hổng có ý kiến.

– Còn mẹ thì sao?

– Bả hông phản đối. Chỉ nói: Mầy lấy dân nhà binh, rủi nó ra trận, súng bắn cái đùng. Nó trúng đạn. Nó chết ngắc. Lúc đó mầy thành đàn bà góa sớm.

– Thời buổi chiến tranh. Đâu biết được ngày mai. Nếu nghĩ như hai ông bà chắc chẳng có cô gái nào dám lấy chồng lính đâu em.

– Tình hình Sài Gòn hai năm nay hông yên, mình à!Việt Cộng đánh bom tùm lum. (Ngày 16-2-64 nổ bom rạp hát Kinh Đô, ngày 25-8-64 ở khách sạn Caravelle, ngày30-3-65 đánh bom Toà Đại Sứ Mỹ ở đường Hàm Nghi, ngày 25-6-65 ở nhà hàng Mỹ Cảnh)

Tệ hại nhứt là ở nhà Hàng Mỹ Cảnh. Dân chúng chết phần đông là những người hay đi hóng mát vào buổi chiều ở bờ sông.

– Mình nên ít lui tới những chỗ đó đi. Việt Cộng bây giờ bắt đầu khủng bố ở SàiGòn để gây tiếng vang. Hồi thời 50, họ giết dân làng như giết cóc nhái, có ai biết đâu. Em có sợ hôn?

– Mình hả? Mình hổng sợ đâu.

Xuân đợi chờ một câu nói tiếp của Yvette. Im lặng.Im lặng. Xuân nghe tiếng vải sột soạt.

– Mình làm gì vậy?

– Còn mình đây nè. Mình hông sợ thành góa phụ đâu mình ơi. Em yêu mình. Em yêu mình!

Phùng Xuân xoay người, ôm trọn cả thân mình, da thịt mượt mà ngào ngọt hương thơm mật ong rùi bay vút về cõi không gian vô tận, thanh thoát có tiếng đàn dìu dặt. Hông có không gian bốn chiều. Thế giới bây giờ là của Từ Thức và Giáng Hương. Xuân chưa muốn về trần gian. Thinh không lặng tờ. Tiếng nhạc cõi tiên réo rắt suốt đêm trường đầy ánh sao mơ màng trong sông Ngân …

Chiếc taxi rời hồ Than Thở, đi về hướng ấp Thái Phiên rồi đến đồi Bắc. Chàng thanh niên hông vội xuống xe. Xuân nâng bàn tay Yvette lên ngắm hồi lâu, rồi nhìn vào đôi mắt nàng say đắm. Đôi mắt hột nhãn đen lay láy của ngày xưa vẫn còn sâu thăm thẳm. Đôi mắt ngây thơ của quá khứ vút xa vời vợi. Còn ngày mai đôi mắt nầy sao đây em? Vẫn in mãi hình bóng anh. Hay vụt bay về tương lai, đâu rõi nhìn lại quá khứ? Và đôi mắt em, đôi mắt anh cùng tan biến vào cõi hư vô. Có còn nhìn tận mắt như ngày hôm nay hôn?

Người thanh niên tràn đầy sinh lực ôm ghì mái tóc người yêu. Phùng Xuân vùi mũi hun thiệt lâu, thật sâu vào mái tóc để còn giữ mãi hương vị của những sợi tơ huyền óng ánh. Ôi! Mùi bông cau nhà ngoại! Yvette nấc lên từng cơn. Nước mắt mặn nồng chan chát như màu máu rỉ ra trong đôi mắt đỏ hoe….

– Em thích mùi áo lính của mình.

– Sao vậy mình?

– Nó hòa lẫn mùi người con trai, làm thành một thứ mùi đặc biệt. Em chết vì cái mùi nầy mình ơi!

– Còn anh sẽ chết vì mùi tóc em. Mùi bông cau lẫn mùi hương của những sợi tơ mun ngay ngáy những ngày biếng gội.

Yvette lại nấc lên từng cơn. Hai dòng nước mắt nàng ướt đẫm đôi má, chảy dài xuống áo Jaspé màu nâu sậm. Giọt nước mắt biến thành màu máu đỏ tươi, tan trong thớ vải. Nước miếng môi hôn của mình bào bọt ruột gan anh đau đáu từng cơn, mình ơi!

Chàng thanh niên thẫn thờ dõi theo chiếc taxi chở Yvette khuất sau chân đồi Bắc. Xuân chưa đi vào cổng vội, tần ngần đứng một hồi lâu. Còn gì đâu mà đứng mà nhìn mà mong. Chỉ thông xanh, xanh dày thăm thẳm ngăn cách đôi ta.Yvette đâu rồi? Em đi về đâu? Xa anh mãi mãi, có phải hông. Hàng thông chia rẽ chúng ta rồi!

Ai có từng ngồi trên đồi thông thật cao, thật cao ở vùng Đà Lạt? Ai có nghe tiếng thông reo vi vu trong gió ngàn? Núi trời lồng lộng, chỉ có mình thông. Thông nghêu ngao. Thông dang tay cùng sương gió. Thông thơm ngào ngạt cùng mùi hoa lan.. trên tận đỉnh LangBiang, Lapé Sud, Lapé Nord, Dambé, núi Voi, Ankroet… Thông nằm dài bạt ngàn. Thông ơi là thông. Thông có rụng hết lá làm trơ cành hôn? Hông, hông. Thông có bao giờ rơi hết lá đâu. Thông vẫn xanh mướt, mượt mà. Lá thông gối đầu ta khi nằm ngòai bãi học. Thông rủ rỉ bên tai như người tình đêm dài của những buổi thực tập địa hình đầy sao trời. Ngồi dưới gốc thông mà ngắm sao Bắc Đẩu, sao Ngưu Lang, sao Vua…. Ôi sao Vệ Nữ sao mà giống Yvette nằm vắt ngủ yên lành trên cõi trời sao xa xăm.

Sao trời là niềm an ủi vô tận của những đêm gác đồi Bắc. Sao giăng giăng như những đom đóm ở những xẻo rạch đầy lục bình. Sao băng như những lá thông rơi. Lá thông đầy mủi nhọn như kim nhỏ chích chích vào trái tim lòng nhung nhớ Yvette vô hạn.

Đêm di hành. Đoàn người mệt mỏi dù có tiếng trống thôi thúc tiễn đưa. Sao mà cứ đi đi mãi trong đêm tối thế. Đâu có được ngắm trăng. Đâu có được nhìn sao trời Đà Lạt trong vắt như thủy tinh. Thằng nầy cứ đùn thằng kia mà đi miết vào cõi vô tận trong cơn buồn ngủ nằm nơi ruột gan. Làm sao mà nhìn lên bầu trời để thấy sao giăng vằng vặc mà nhớ tới em đây, hở Yvette?

Chàng Sinh Viên Sĩ Quan hông buồn theo Nguyễn Bá Lai bát phố trong những ngày Chủ nhựt nữa. Xuân cùng Nguyễn Thanh Liêm vùi đầu vào thư viện.

Thư viện của quân trường cũng có khá nhiều đầu sách, nhưng phần đông bằng tiếng Anh và Pháp. Thanh Liêm chăm chú đọc những quyễn binh thư Đức của Clausewitz, Ludendorff… Gặp nó là nó toàn nói về chiến thuật và chiến lược của các binh gia đó. Còn lại thêm Machiavelli nữa chớ. Xuân nghe mà nhức cái đầu. Chàng hông màng chú ý đến những chuyện đó. Cắm đầu vào chữ nghĩa để quên ngày tháng qua mau. Miệt mài dịch từng trang sách cho Đa Hiệu…

Mới đó mà đã tới ngày mãn khóa rồi. Ngày mà thằng Ngọc Tiền nao nức. Để làm gì? Để nó thoát khỏi cảnh tù túng của quân trường? Hay để nó cầm súng xông pha ngòai chiến trận cho thỏa chí làm trai?

Nó hí hửng ngâm nga:

Không ngủ thì cũng Sĩ Quan,

Ngủ hoài thì cũng đàng hoàng gắn lon.

– Mầy coi chừng tụi nó giũa mầy.

– Thì cũng có thằng ngủ gục trong lớp học như tao chớ bộ. Có thằng nào khỏe ở ngòai bãi suốt ngày mà về lớp hông ngủ hôn?

Sau lễ mãn khóa, Xuân bồn chồn lo lắng, hông hiểu Yvette có chuyện gì hông mà đến bây giờ Xuân hổng được chút tin tức gì của Yvette. Thư mời Xuân đã gởi từ lâu và Yvette cũng trả lời là sẽ đến dự. Em ở đâu bây giờ? Em ở đâu bây giờ? Biết hỏi ai? Sao em hông đến? Nhiều câu hỏi đó trong đầu chàng mấy hôm nay. Còn thì giờ đâu mà tìm được câu trả lời. Chọn đơn vị để phục vụ. Lo sắp sếp hành trang lên đường ra Dục Mỹ học khóa 23 Rừng Núi Sình Lầy trong sáu tuần lễ. Đêm đêm Xuân nằm mơ nghe tiếng Yvette gọi mình ơi, anh ơi! Có chuyện gì? Bây giờ em ở đâu?

Ngọc Tiền thích Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến…nhưng với thân hình nhỏ con ai mà chọn. Rút cuộc, nó đành chọn Bộ Binh.Một đơn vị xa lơ xa lắc ngòai miền Trung: Trung Đoàn 51 Biệt Lập.

– Sao hông về Sư Đoàn10 như tao mậy? Cho gần nhà.

– Tao hông thích. Đi xa cho thỏa chí tang bồng.

– Con khỉ. Mầy mơ các o Huế thì có. Rồi mấy em hồi thời bum biếc với mầy, mầy cho rớt đài hết rồi chắc?

Căn cứ Sình vào tuần cuối ở đèo Rọ Tượng là hắc ám nhứt, sau căn cứ Rừng nhàn hạ, tắm suối nước nóng.Và căn cứ Núi trèo đèo lội suối, ngắm nhìn hòn Vọng Phu.

Đường hải lộ từ Nam ra Bắc,

Khỏi Ba Ngòi sắp tới Qui Nhơn.

Gập ghềnh đồi núi chập chùng,

Xa xa trông thấy một hòn núi xanh

Ngay giữa đỉnh hình nhân lộ vẻ,

Tay ẳm bồng một trẻ hài nhi

Đó là hòn núi Vọng Phu….

(Bài tập đọc)

Bão ở căn cứ Sình. Bão rớt của miền Trung cuối tháng mười hai. Mưa dai dẳng. Mưa thúi đất. Mưa tối mày tối mặt. Bầu trời lúc nào cũng xám xịt. Giảng viên đứng dưới nước. Đám học viên cũng bị ngập mặn ngang bụng. Có nghe gì đâu! Chỉ lo vuốt mặt. Đứng run cằm cặp. Gà men cơm khỏi cần chan canh. Mặc đồ ướt, cuộn tròn poncho ngủ. Vậy mà cũng ráng kết thúc bài tấn công đảo ban đêm. Hông có sao trời thì có sao biển. Làm gì nhớ được, mơ được Yvette ở đây? Ánh lân tinh lấp lánh từng đợt, từng đợt theo chiếc dầm bơi trong nước muối mặn đắng chát nơi cổ họng.

Xuân hông nhớ mình đã chạy đọan đường từ Ninh Hoà về Dục Mỹ như thế nào. Cơn nóng sốt miên man. Ăn hông được. Nằm li bì. Nguyễn Bá Lai dìu Xuân lên C-130 từ lúc nào? Và tiếng rù rù của động cơ máy bay vật chàng thanh niên ngã ịch xuống sàn…

Tháng mười một. Yvette nghĩ mình sắp gặp lại người tình trong ngày lễ ra trường. Nàng mơ đến cảm giác êm ấm được người yêu ôm trong vòng tay, đến nụ hôn ngây ngất. Yêu là gì mà sao nó hành hạ trong nhớ nhung dài vật vã. Ở đâu cũng nhìn thấy hình bóng người tình, cũng nghe lời nói chàng rủ rỉ bên tai. Trong giấc mơ màng, bao giờ cũng thấy người tình hiện ra, khẽ chạm vào đôi môi và hun một cái thiệt lâu dài. Nàng im lặng, tận hưởng đê mê, vội choàng tay ôm thật chặt. Nhưng hông, giựt mình, hông có chàng. Chỉ có đôi tay quờ quạo vào đêm tối im lặng. Nàng buồn rã rượi. Phải chi mình ở đây cùng em, rong xe cùng phố. Cùng ngồi với em trên chiếc xe Solex để em được vòng tay ôm mình như ngày hôm nay.

Đến ngã ba Hồng Thập Tự, trong cơn mơ ao ước, Yvette hông nhìn thấy chiếc Citroen màu xám thù lù một đống đang trờ tới. Nàng hông kịp phản ứng. Hoảng loạn. Một tiếng ầm vang lên. Nàng cảm thấy đau nhức dữ dội và chỉ kịp kêu lên một tiếng: Mình ơi. Tỉnh lặng. Nàng ngất đi.

Yvette mở mắt. Nàng mơ hồ thấy mình nằm trong căn phòng rộng. Trên trần, quạt máy đang chạy chầm chậm.Một lúc sau, nàng nhìn rõ mọi vật chung quanh. Nàng đang nằm trên giường phủ toàn đầy vải trắng. Có chuyện gì? Nàng đã chết rồi hả? Hông. Nàng vẫn còn nhúc nhích được hai chơn, nhưng sao có một bên nặng hông dở lên được. Nàng định lên tiếng gọi ai đó. Và cánh cửa phòng xịch mở. Một người mặc đồ trắng bước vào.

– Tui đang ở đâu đây?

– Trong nhà thương.

Ngay lúc đó, mẹ nàng đi vào hối hả

– Con làm má lo gần chết. Nằm bất tỉnh suốt hai ngày nay rồi.

– Sao vậy má?

– Con bị xe đụng, gãy hai chơn. Rồi có người chở con vào đây.

– Ai vậy má biết hôn?

– Tội nghiệp nó. Lẽ ra nó bỏ chạy luôn thì có ai mà biết. Nhưng mà nó chở con vô đây, rồi báo cho nhà biết. Tội nghiệp. Thằng hiền ghê! Thằng Christophe đó. Nó xin lỗi ríu rít. Con nhìn qua bàn. Ngày nào cũng có một bó hoa mới nó mang vô cho con.

– Một ông Tây?

– Nó còn trẻ lắm, con.

Cuối cùng rồi nàng cũng gặp Christophe. Chàng thanh niên người Pháp lịch sự, ân cần. Christophe hông ngờ gặp được cô gái nói trôi chảy tiếng Pháp nên rất vui mừng. Họ nói chuyện với nhau, hiểu nhau rất dễ dàng. Từ đó, ngày nào cũng có một bó bông, khi thì lay-ơn, khi thì hồng, khi thì cúc luôn luôn ở trên bàn. Và cứ hai ba ngày, Christophe vào thăm và nói chuyện với Yvette rất lâu, nên ít khi nàng có thì giờ nghĩ đến Xuân. Nhưng khi hông có ai, nàng lại tự hỏi bây giờ Xuân làm gì? Đã ra trường và đi biền biệt nơi đâu? Làm sao hai người liên lạc được với nhau? Nhờ ai trong gia đình? Hông có ai hết. Và Xuân đang hành quân trong rừng sâu, bị thương hay sống chết rồi? Những giọt nước mắt chảy dài xuống đôi má xanh xao. Nàng thở dài…

Nhiều tuần lễ trôi qua, Yvette hông nhận được tin tức gì của Xuân. Nàng càng ngày càng trở nên tiều tụy.Tìm anh nơi đâu bây giờ? Nhưng nhờ mẹ nàng luôn luôn ở bên cạnh, nàng cũng bớt đi phiền muộn. Sau khi ra khỏi nhà thương, gia đình định đưa nàng lên Đà Lạt để dưỡng bịnh. Yvette hông chịu. Nàng nghĩ rằng nếu đi xa khỏi Sài Gòn thì Xuân biết đường đâu mà tìm. Nàng trông ngóng ngày đêm tin tức người yêu. Sao mà như vậy kìa? Một lá thư cũng hông có là sao? Nàng hông đi lại được. Hai chơn còn bó bột. Ngày đêm nàng chỉ ngồi lỳ một chỗ trên giường. Người ngày càng xanh xao, gầy ốm. Cuối cùng, sau khi cắt băng bó bột được đôi ngày, Yvette vẫn chưa đi lại dễ dàng, nhưng gia đình đã quyết định đưa nàng lên vùng đất hoa Anh Đào để nghỉ ngơi…

Cơn bịnh thương hàn đã quật ngã người thiếu úy vừa mới ra trường. Xuân phải nằm Cọng Hòa hơn một tháng trời.

– Thưa bác. Cho cháu hỏi thăm cô Yvette Đỗ.

– À! Cô Tư đó hả? Cổ hổng có ở đây. Cổ đi Đà Lạt dưỡng bịnh rồi. Cổ bị đụng xe, bị gãy hai chơn. Gia đình đưa cổ lên trển khoảng hơn tuần nay. Mà cậu là gì của cổ để tôi nói lại.

Biết người quản gia mới có nói lại hay hông? Xuân quay lưng đi mà lòng nặng trĩu. Chỉ ghi lại người bạn hồi nhỏ ở Mỹ Tho. Ôi! Người bạn hồi nhỏ của một thời ký ức xa vời vợi. Người nhà chắc chẳng thèm nói lại vì họ hông thích Xuân?Một cái thằng bạn xa xưa mà ai thèm nhớ làm gì. Gia đình chắc nghe qua rồi bỏ. Xuân buồn bã, đạp xe thửng thờ trên đường về. Làm sao gặp em đây, hở Yvette? Chắc xa nhau vĩnh viễn rồi? Mình đành mất nhau rồi hả em? Làm sao em kiếm được anh? Biết anh ở Sư Đòan nào? Vùng I, Vùng II …? Em đâu có rành những nơi đó.Em đâu có biết anh rời xa biền biệt SàiGòn đến một nơi hẻo lánh nào hôn?

Hông hẻo lánh quá đâu em! Nơi đây, Xóm Cát, vùng ngọai ô của Bà Rịa. Tiểu Đòan 3/43 đang ở đó.

Thượng sĩ nhứt Bậc Cẩm Hom tập họp trung đội 2 trình diện Thiếu Úy mới ra trường. Xuân nhìn những người lính mới của mình. Có vẻ gì xơ xác. Họ vừa nhìn Xuân vừa đưa tay so hàng. Họ có ý dò xét ông Thiếu úy trẻ Võ Bị Đà Lạt mới tò te ra đơn vị. Chẳng có người nào mặc bộ đồ hơi hơi vừa vặn. Áo rộng thùng thình, quần xúng xính. Quần áo Xuân cũng rộng như họ. Xuân cố gắng thay đổi nhiều lần để tìm một bộ đồ đúng khổ người mình. Cũng khó lắm, trừ phi phải đi sửa lại. Binh nhì Mừng, vừa mới làm ô đô cho chàng, nói Thiếu Úy ráng bận ít bữa, em sẽ đem ra Bà Rịa sửa cho. Họ lộn trái vải rồi may, mặc đẹp hơn.

Trung đội trang bị lộn xộn. Hạ sĩ nhứt Độ mang Thompson. Ông Hom đeo lủng lẳng cây Carbine M2 báng dài. À! sao lại còn cây súng phóng lựu cũ xì nầy đây, cao quá tầm của binh nhứt Nga lùn tịt chưa tới 1 mét 50. Hạ sĩ Hiền, người nhỏ con nhưng trông có vẻ rắn chắc, có lẽ là một nông dân, nhìn Xuân như dò hỏi sao hông chú ý tới khẩu Trung liên BAR. Phùng Xuân chú tới cây FM nầy lắm chớ. Linh hồn của trung đội mà. Và, đột nhiên, nhớ anh Năm Nhiên của thời 1948. Tội nghiệp binh nhứt Tô, cao chưa đầy 1m50 mà đeo cây Garant M1 dài khoảng 1m 10. Xuân nhìn thấy báng súng gần chấm đất.Toàn là các loại súng cũ kỹ của thời Đệ nhị thế chiến, cách nay ngót nghét 20 năm.

Ông Hom cho biết trung đội chỉ có 16 người. Hai người đi phép thường niên. Còn 14 người. Quân số chỉ bằng một tiểu đội. Sao ít quá vậy? Ông nói nhiều lần bổ sung, nhưng tụi nó đào ngũ hoài à Thiếu Úy.

– Hông có cách gì giữ họ được sao?

– Giữ gì được, Thiếu Úy. Về hôm trước hôm sau là tụi nó bỏ súng trốn mất. Ngoài Bà Rịa có trạm gác của Quân Cảnh mà hông biết tụi nó lòn ngã nào. Nhứt là mấy thằng Tàu Chợ Lớn. Chắc tụi nó có đường dây?

Hôm sau, Xuân đi một vòng nơi đóng quân. Mỗi người một miếng poncho làm lều. Võng treo tòn teng từ hai đầu, đôi khi là hai nhánh cây, đôi khi là môt cành cây và một cọc gỗ… Dưới đất bày lỏn chà lỏn chỏn nồi niêu, soong chảo đầy lọ nghẹ. Một vài miếng khô kho nước mắm đặc sệt bạc màu muối. Cái trách nhỏ buộc hờ nơi cọc đầu võng. Khô đã là mặn mà họ còn kho nữa. Bữa cơm chẳng có gì để ăn thêm? Ba cục gạch lượm lặt đâu đó để làm cái bếp, méo mó đen thui. Cái chén, đôi đũa úp trên ba lô. Những người độc thân ở có vẻ bừa bãi hơn người có gia đình.

Súng móc đại trên đầu võng, cũng có khi để bên gốc cây. Cây súng phóng lựu của binh nhứt Nga cao quá khổ, dựng đứng ngoài cọc lều. Ngày hôm qua Xuân hông thấy mấy cái máy truyền tin ANPRC-6. Hôm nay Xuân chú ý đến những thứ ấy. Người tiểu đội trưởng mang Thompson: Hạ sĩ nhứt Độ.

– Cái thứ nầy còn nghe tốt hôn?

– Khi được khi không.Thiếu Úy. Nghe ba trật ba duột lắm. Đôi khi em giận em đá nó mấy đá. Vậy mà nghe được.

– Có vậy nữa sao? Ông Hom hổng biết à?

– Biết chứ.Nhưng ổng nói đại đội kêu cứ giữ. Nhiều khi đụng trận, kêu oang oang mà có nghe cái khỉ mốc gì. Mang nó theo càng thêm cồng kềnh.

Trung đội có 16 người mà lại có tới hai cái ANPRC-6. Có cần hông? Sao lại xài quân dụng quá cũ để làm gì?

Xuân đi đến nơi ở của Hạ sĩ Hiền. Hai vợ chồng đang ăn cơm, dợm đứng dậy để chào. Xuân ra dấu hai người cứ ăn. Rồi Xuân ngồi xuống nơi cạnh của hố đào cho trung liên.

– Mình đóng quân nơi đây lâu chưa?

– Cũng gần ba tháng à, Thiếu Úy.

– Hèn chi cái hố anh đào rất công phu.

– Có vợ em phụ nữa. Mỗi ngày tụi em đào thêm một chút. Thành ra cái hố mới được như vậy.

Hiền còn trẻ, như là nông dân. Hai bàn tay to, chai sạn. Tướng lam lũ, chịu khó làm ăn. Nhà quê nghèo lắm sao mà vô lính? Hay là chiến tranh hông làm lụng được ở vùng xôi đậu? Chị Hiền trẻ hơn, chưa đầy đôi mươi, còn kẹp tóc. Xuân thấy họ như là cặp vợ chồng mới cưới, quấn quít nhau như đôi chim non. Cô vợ hơi e thẹn, rụt rè khi biết Xuân đang ngồi nhìn hai vợ chồng ăn cơm. Xuân ngó lơ sang chỗ khác. Hai thùng đạn đại liên 30 cũ chứa đầy nước, chắc để nấu ăn và rửa chén bát. Một vài cái tô đá trong rỗ lót lá chuối. Một cái nồi nấu cơm. Một cái trách nhỏ để kho, chiên, xào hay để luộc rau? Tài sản của những người vợ chồng lính của Phùng Xuân?

Xuân đi trở lại nơi võng của mình, lấy bản đồ gặp Trung Úy Phạm Đức Tú, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2. Chắc ngày mai có lịnh đi đâu đây.

Hoà Long là một quận của tỉnh Phước Tuy, cách Bà Rịa độ 6 cây số nằm về phía Bắc trên tỉnh lộ 2 nối liền Long Khánh-Bà Rịa. Đồn điền cao su bạt ngàn từ Long Khánh về đến Xà Bang, đến gần Hoà Long. Có nhóm người Chư’ Rư sống lang thang nơi đây. Tỉnh lộ nằm giữa hai mật khu Mây Tào và Hát Dịch. Có haiTrung đoàn Việt Cộng 33 và 275 hoạt đông thường xuyên ở vùng nầy. Nghe nói người Trung Đoàn Trưởng 33 là một ông già đầu bạc, rất dầy dạn chiến trường, chuyên môn dùng du kích chiến. Chiến đòan Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan vừa mới đóng ở núi Đất, cố ý ngăn chận họat động của hai trung đòan nầy?

Những nơi quen thuộc Bình Ba, Ngãi Giao… Và BìnhGiã nữa, nơi mà thủ khoa khóa 19 VBĐL hy sinh ngay từ lúc đầu. Du kích quậy phá nhiều ở xã Long Phước, sát bên quận và xa hơn nữa: xã Long Tân

Bà Rịa toàn đất cát. Trái lại Hoà Long đất đai rất mầu mỡ. Đất đỏ từ vùng Long Khánh tràn xuống đến Hoà Long, Long Phước, Long Tân, Long Điền và tận cuối quận Đất Đỏ đến xã Phước Lợi. Màu đỏ trộn với màu cát trắng làm thành một lớp phân thích hợp cho giống lúa gạo Nanh Chồn thơm ngon ở vùng nầy.

– Ông Hom. Ông nhắc chừng anh em là vùng nầy du kích nhiều lắm đó. Mình đóng quân hai ngày nay sau lưng nhà bà Hai Nỉ. Bả có thằng con đi cà xẹo. Chắc là nó bị tật từ hồi nhỏ. Nhưng tôi để ý thấy nó cứ xăm xoi đám lính mình hoài.Hông tin nó được đâu.

– Thiếu úy để tui. Tui cũng có dặn anh em rồi. Nó mà cắc bùm là mình lãnh một con đó nghe.

Bà Hai Nỉ vả lả với anh em lính. Mượn cái gì bà cũng cho. Nhưng thằng con của bả- thằng Ba Xẹo, mấy người lính của Xuân đặt tên cho nó như vậy- hay đổ quạu và nhăn nhó khi một vài người lính vào nhà, ngồi nói chuyện với bả. Nó ngó mấy người lính chăm hẳm.

Trung đội rút đi khỏi nhà bà Hai Nỉ độ mười phút, vào sâu trong xã Long Phước.Thằng Ba Xẹo rướn người lên mái nhà, rút soạt khẩu CKC rồi băng mình qua đám chuối rậm. Nó tót xuống giao thông hào như con sóc, biến mất trong địa đạo tối om.

Lục soát xong chừng hơn hai mươi căn nhà. Có lịnh tạm nghỉ. Bố trí và canh gác kỹ lưỡng. Anh em sẳn sàng ăn trưa. Hạ sĩ Hiền để cây trung liên trên bộ ván gõ trong căn nhà vách lá. Chung quanh chuối dày đặc. Độ chừng ba mươi thước là hông nhìn thấy được. Anh em cùng ngồi bệt xuống đất mở gà mèn ra. Khô cá cơm kho. Khô cá khoai. Khô cá hố, cá nóc… Toàn là khô cho buổi trưa đạm bạc. Món ăn hành quân của đám lính!

– Hông có gì khác hơn là khô hả Mừng?

– Gấp quá tụi em chỉ đem theo khô cho dễ ăn. Luộc bậy ba cái rau lang hổng kịp, Thiếu úy.

-Còn cái lon gì nữa vậy?

– Nước mắm kho quẹt. Thẩm quyền ăn hông?

Xuân cười. Lấy mũ sắt làm ghế, Xuân ngồi xuống cầm gà men cơm của mình. Chàng nghĩ: Cũng còn có mùi vị hơn những bữa ăn ở cánh đồng Mỹ Nhiên…

Ăn xong, Xuân mở bi đông uống chừng mươi hớp. Đứng dậy. Để nón sắt trên ván. Bước ra ngoài hàng hiên. Vừa dừng lại quan sát. Chưa thấy rõ những bụi chuối. Một tiếng bốp gọn nhẹ. Nghe hình như ở giữa trán Xuân. Một phản xạ nhanh gọn. Hông nằm xuống. Xuân xoay người bước vào trong nhà. Hông đầy nửa tích tắc.Một tiếng bốp nữa đuổi theo. Xuân hông nghe tiếng súng nổ ròn tan của các anh em bắn trả. Và tiếng hô xung phong. Chỉ nhìn thấy Hiền nằm ngã vật xuống. Máu từ ngực, từ ngực Hiền phun ra có vòi. Mà hông phải. Ngay tim trái. Xuân nhào tới. Ngón tay cái bịt ngay lỗ sâu hoắm.Đâu có nhằm nhò gì. Máu vẫn tuôn. Xuân kêu lên: Hiền! Hiền…Vài tiếng kêu nữa. Kêu nữa. Kêu nữa. Hông! Hông! Hiền. Hiền ặc ặc lên vài cái. Như con vịt bị cắt tiết. Như con gà bị cắt cổ. Như con heo bị con dao nhọn đâm thẳng vô tim, ngoẻo đầu sang bên. Xuân kêu nữa. Ấn tay mạnh vào cái lỗ sâu hun húc quái ác kia. Nhưng Hiền trợn trừng mắt. Trợn trừng mắt nhìn Xuân. Hiền nhắm mắt. Máu hơi ngừng chảy. Rồi dứt hẳn. Xuân rút ngón tay cái ra. Thẩn thờ nhìn Hiền nằm bất động. Nó chết rồi. Xuân nghĩ chắc chắn như vậy.

Súng vẫn nổ. Giọng ông Hom oang oang. Tiếng súng nổ ròn tan. Carbin, Garant, súng phóng lựu, Thompson bắn bất kể. Chỉ thiếu tiếng nổ dòn của cây trung liên. Binh nhứt Hòa hét lên ở đầu máy. Đụ mẹ cái máy mắc dịch. Hông chịu nghe. Nó đá mấy cái vô ANPRC-10. Có nghe được chưa? Tiếng hô xung phong vang rền. Xuân chạy ra khỏi nhà.Đáng lẽ ra, Xuân phải bình tỉnh chỉ huy ngay lúc đầu tiên. Cái chết của Hiền làm chàng hoảng lọan. Có tiếng la hét.

– Kéo nó lên. Nó bị thương rồi.

– Cái gì vậy?

– Thằng du kích Ba Xẹo, Thiếu úy. Tụi em bắn nó què giò mà nó còn lết được xuống hố.

– Thằng Ba Xẹo? Có phải nó hôn?

– Chớ gì nữa. Tụi em lấy được cây CKC nè.

Xuân đi đến nơi thằng Ba Xẹo nằm. Chắc nó bị xui xẻo. Hông kịp nhào xuống giao thông hào. Có bao giờ bắn được mấy thằng du kích bắn sẻ đâu? Có chỗ núp đàng hoàng và nhanh như sóc mà. Cặp mắt nó sui xị, hơi lưng tròng. Nó ngó Xuân, hình như van xin điều gì đó? Nó sợ Xuân tức giận bắn nó chết? Xuân có bao giờ cầm súng giết một mạng người hôn? Hông. Lòng nhân đạo vẫn còn ở người sĩ quan mới ra trường. Mà Xuân đâu có quyền giết một thương binh địch. Mất thêm một mạng người. Bà hai Nỉ sẽ khóc con.

Màu đỏ tươi tuôn ướt bắp đùi nó. Có vẻ mất máu nhiều. Y tá đại đội sộc lên tới. Xé toạt quần ra. Quấn băng cứu thương. Cầm máu tạm thời. Nó nhìn Xuân, nhìn trân trân. Nó liếc qua những người lính. Họ thản nhiên nhìn Ba Xẹo và tự hỏi sao nó bắn họ? Có thù hận gì hôn? Họ chỉ lo cứu anh chớ hông có giết anh đâu. Họ nhìn anh có vẻ thương cảm hơn là anh nhìn họ đầy thù hận.

Phùng Xuân ra lịnh anh em lấy poncho võng nó đến gần chỗ Hiền đang nằm. Hai cái poncho. Một cái khép kín và một cái mở ra. Ba Xẹo có biết ai đang nằm bên kia hôn? Chút nữa trong xe cứu thương chạy về tỉnh, kề bên cái poncho đóng kín, nó nghĩ gì? Giết chết một sinh mạng? Giết chết một gia đình son trẻ đang tràn đầy hạnh phúc. Rồi đây ra tới nhà thương, bà hai Nỉ sẽ gặp chị Hiền. Con bà bắn chết chồng tôi. Nhưng Xuân nghĩ chị Hiền sẽ khóc ngất bên xác chồng. Có thời giờ đâu mà nghĩ, mà thù hận người du kích V.C đã giết chết chồng mình.

Hiền ơi! Chết rồi sao? Sao chết dễ dàng quá vậy? Thì mới vừa ăn cơm trưa với mình đây mà. Sao chết dễ quá vậy? Baptême de feu của mình là như vậy sao? Sao viên đạn hông trúng mình mà đi ngay vào tim Hiền? Người du kích VC rõ ràng là nhắm ngay đầu mình. Sao viên đạn lại đi chệch như vậy? Có phải tại số mình lớn, chưa đến lúc chết. Phải có người khác thế mạng.

Viên đạn đầu tiên- chắc nhắm ngay đầu Xuân- chệt xuống, xé rách môt bên vạt áo.Viên đạn thứ hai bắn vói theo, nát các chân ghế. Hai viên đạn ác nghiệt đã né mình. Thằng du kích khôn lanh, nghĩ là Xuân sẽ nằm xuống để tránh đạn. Hông may cho Hiền, còn đang ngồi bệt dưới đất, ăn chưa xong bữa cơm.

Hiền ơi! Mình mắc Hiền một món nợ-món nợ thật to tát- mà có lẽ suốt đời mình hông bao giờ trả được? Phùng Xuân vẫn nhớ đến đôi mắt Hiền lúc sắp chết trừng mắt nhìn Xuân. Rồi Xuân sẽ gặp mặt chị Hiền. Trời ơi! Xuân sợ. Xuân sợ dòng nước mắt chan hòa của người vợ trẻ khóc chồng. Giờ nầy chắc chị đang hớt ha hớt hải chạy ra nhà thương Bà Rịa để nhìn xác Hiền.

Ôi! Nỗi đau đớn của người vợ trẻ mất chồng chắc là lớn hơn nỗi đau của người chỉ huy mất người đồng đội đầu tiên trong trận đầu đời. Xuân thiếu kinh nghiệm chiến trường? Một sĩ quan vừa mới tò te ra trường, đâu có bằng một ông Thượng sĩ đánh trận lâu năm. Lẽ ra Xuân hông nên ló mặt ra như vậy. Viên Thiếu Úy trẻ hận mình đã sơ suất gây thiệt mạng của người đồng đội. Lấy gì đền bù lại được?

Sự sống và sự chết hông có lằn ranh phân biệt. Vừa mới ăn cơm, vừa mới nói chuyện với nhau là mất tiêu rồi. Điều Xuân chú ý là hông thấy các đồng đội khóc- dù chỉ hơi rươm rướm mắt-cho người bạn mình vừa chết. Họ thấy cái chết nhiều quá nên họ trở nên chai lỳ với cái chết hay là họ coi cái chết ở chiến trận thật là bình thường? Hoặc là họ xem nhẹ cái chết như là một điều tất yếu phải xảy ra khi chấp nhận cuộc đời lính tráng? Hay là họ nghĩ cuộc đời nầy vô thường như triết lý nhà Phật. Sống ở cuộc đời nầy quá khổ đau nên tìm một kiếp sống khác tốt hơn. Xuân nhìn thấy những gương mặt buồn của họ mà hông biết trong lòng họ như thế nào? Xuân nghe thoáng thoáng đâu đây giọng của một người binh sĩ trả lời: thằng Hiền đi mua muối rồi hay là thằng Hiền nó lên bàn thờ rồi.

Quá dễ dàng cho một cái chết. Nhưng với Xuân thì hông. Chàng ngồi thừ rất lâu, nghĩ đến người đồng đội vừa chết. Những nỗi thương cảm, đau đớn mà gia đình phải gánh chịu. Cha mẹ khóc con. Vợ khóc chồng. Những giọt nước mắt của anh em, của bà con chòm xóm. Một cái chết quá dễ làm cho chàng Thiếu úy mới ra trường buồn ray rứt.

Yvette ơi! Em có biết anh vừa thoát chết hôn? May mắn đã giúp anh còn sống để có ngày gặp em. Nhưng thần chết đã cướp đi sinh mạng, hạnh phúc của người đồng đội có người vợ trẻ hơn em. Em ơi! Chúng mình hãy cám ơn Trời đã ban cho chúng mình ân sủng đó. Nhưng anh hông hiểu sao Thượng Đế lại lấy cái của người nầy để ban cho người kia. Có bất công hôn em?

Chỉ cần một tiếng cắc bùm là giết lẫn nhau.Vũ khí tối tân giết người quá dễ dàng. Một số ít người có thể dùng súng đạn giết chết một số thật lớn người khác. Mà tại sao số đông người khác ngu ngốc như vậy? Đem thân thí mạng cho người ta bắn mình? Thằng Ba Xẹo nó biết gì thù hận? Ai gieo vào đầu óc sự giết chóc kia? Chỉ có những kẻ ăn không ngồi rồi, không tưởng trên tầng lớp chóp bu tận ngoài xa kia tạo ra những sự thù hận để thỏa mãn sự ngông cuồng của họ. Những người dưới họ chỉ là những con cưởng lập đi lập lại lời họ nói như Xuân đã từng nghe khi đi theo Vân dự mít tinh ở Lương Hòa, Bến Tre thuở 1960…

Xã Phước Lợi, thuộc quận Đất Đỏ, là một giồng đất gò cát nằm thoi loi. Chung quanh là đồng ruộng. Chỉ có một chút xíu về hướng Đông là giáp với khu rừng chồi có nhiều thú nhỏ như nhím, sóc, thỏ… và trái cây rừng như trái gùi, trái mây…

Tháng năm năm 1966. Nắng nổ đom đóm. Đại đội về đây khoảng một tuần. Đây là xã xôi đậu. Ban ngày, dọc theo đường lộ, lính của Xuân rong cùng khắp đầu trên ngõ dưới. Ban đêm, VC mò về xóm trong. Thằng Đực và con Sa là hai đứa học trò ngoài chợ, hay lân la đến chơi, cho Xuân những trái gùi chín, ăn chua lè; những trái mây rừng nhỏ bằng ngón tay út, ăn chát ngắc. Tụi nó cũng cho Xuân những trái gùi muối chua. Món nầy chấm mắm ruốc của bà giáo Thảo thì ngon. Rồi từ đó, Xuân lâu lâu cũng dò biết được một vài gia đình trong xóm. Ai thân VC và ai thân Quốc Gia…

Trời nắng chang chang. Chàng sĩ quan Úc và Xuân cùng ngồi tựa lưng vào bờ đất, uống từng ngụm nước đá lạnh. Chàng thanh niên người Úc nầy có giọng nói khó nghe, âm hưởng của tiếng Anh xa dần mẫu quốc.

– Viết cho tôi đi.Tôi hông nghe được giọng Úc của ông.

À! Peter Maurice Arnie. Cấp bậc Trung úy(?).Tốt nghiệp Royal Military College Duntroon. Chà, cũng là dân nhà binh chuyên nghiệp như mình đây. Có vậy mà Xuân chỉ thoáng nghe left-tenant. Rồi hai ba bữa sau, họ cũng bắt đầu thân thiện nhau, đía nhau tía lia.

Trung đội Peter có khoảng 30, 40 người, ngày ngày cùng Trung đội Xuân đóng cọc sắt từ phía cuối Quận Đất Đỏ băng qua đồng ruộng đến tận xã Phước Lợi.

– Trung đội của anh ít, chỉ có 14 người thôi. Vậy hôm nay, anh lấy phần đất gần đây. Còn đằng xa kia để cho tôi.

– Sao vậy? Cứ làm như cũ. Tôi đi xa có sao đâu?

– Vì anh ít người. Mang cọc sắt và kẽm gai đi xa nặng lắm. Công việc sẽ chậm lại. Chúng ta cần làm xong phần việc nội trong tuần nầy.

– Cám ơn anh.

Xuân ra lịnh cho người mình dừng lại và chỉ cho họ phần hôm nay mình phải làm.

– Hông phải đi xa nữa. Ráng cùng họ làm rút đọan cuối cho đến xã PhướcLợi.

Nhưng một tiếng bùm vang lên cùng một cụm khói ở phần đất trung đội Xuân làm ngày hôm qua. Khỏi nói, tất cả mọi người cùng thốt lên: Có mìn!

– Đứng yên tại chỗ. Đừng chạy nhốn nháo. Ông Hom. Cho anh em lần bước ra theo đường cũ.

Khổ thay cho trung đội của Peter. Một trái mìn nhảy. Ít nhứt phải có hai, ba người chết và bị thương khoảng mươi người. Nếu người của Xuân làm đúng chỗ ngày hôm qua là trung đội bị xóa sổ.

Chỉ hông đầy năm phút. Hai chiếc trực thăng cứu thương đã đáp xuống. Xuân đứng nhìn bạn và đồng đội đang chật vật, hối hả đưa người bị thương lên. Họ hông tỏ vẻ hoảng loạn, tuần tự làm việc. Xuân im lặng đứng nhìn bạn, thương bạn mà hông làm gì được. Bạn từ đất nước xa xôi ở miền Nam Bán cầu đến nơi nầy để đổ xương máu cho lý tưởng mà bạn yêu mến. Vợ của đồng đội bạn mất chồng, gia đình mất người thân. Những giọt nước mắt làm sao cho vơi hết nỗi buồn. Xin chia buồn cùng bạn, người bạn trẻ xa xôi.

Cuối cùng, rồi tất cả lên trực thăng. Peter quay lại. Hai cánh tay cùng đưa lên. Vĩnh biệt. Chúng ta chắc chắn sẽ hông bao giờ gặp lại. Có thể bạn với tôi, bọn mình sẽ thua cuộc trong trận chiến nầy. Và rồi, Phùng Xuân đứng nhìn dòng chữ CBS mờ nhạt trên thân một trực thăng bay về Vũng Tàu…

Lại một sự may mắn đến với Xuân. Nó đến từ đâu? Hông hiểu được. May mắn của người nầy là xui xẻo cho người kia. Các người lính Úc chết thay cho binh sĩ của Xuân. Sao đến thời điểm đó Peter lại đổi ý. Có một nguyên nhân nào, một động lực nào tác động vào ý định của Peter?

Ai mà biết Thượng Đế? Ai mà hiểu được Thượng Đế? Thượng Đế là đấng Tối Thượng, Toàn Năng… Hông hiểu được Ngài, nên con người giải thích mỗi người mỗi khác. Có người tin vào quyền lực của thiên nhiên, của đạo Chúa, của đạo Phật, của đạo Hồi, của mệnh trời. Có đúng là Chúa Jésus, Thái Tử Shidarta, Thiên sứ Mohammed, Khổng Tử… cũng hông hiểu gì về Thượng Đế nên lý giải mỗi người mỗi khác?Và thế hệ sau bám vào đó, đặt ra nhiều qui luật, vẽ ra những con đường tìm lấy thanh bình ở cõi đời sau? Chỉ có Cọng Sản là hông cần hiểu Thượng Đế và hông cần giải thích. Họ muốn biến đổi thế giới nầy bằng bạo lực để tìm lấy Thiên Đàng Cọng Sản. Và, rốt cuộc, cũng hông chắc tìm ra được, chỉ thấy máu đổ thịt rơi, thù hận chồng chất.

Nhưng có một điều chắc chắn là VC đã dò la biết được nơi Xuân và Peter đóng cọc sắt. Chỉ cần một vài ly rượu đế ở độ nhậu là các chú lính bật mí hết…