PHẦN 3 Một thời tù tội
Vào những ngày cuối tháng 04 năm 1975, Sài Gòn hổn lọan. Quần áo lính quăng bỏ ngổn ngang cùng đường. Những người dính líu với chế độ cũ, giống như cá ở trong nơm, hốt hoảng tìm đường chạy trốn. Không quân lo lấy máy bay vù lên trời… Hải quân kéo cả đoàn ra khơi… Máy bay quân đội Hoa Kỳ liên tục chở số người ra đi, nhưng hông thể đáp xuống được nữa vì VC bắt đầu pháo kích vô sân bay Tân Sơn Nhứt. Và cuối cùng, họ chuyển về Toà Đại Sứ ở đường Thống Nhứt, di tản một số ngưới còn lại bằng trực thăng. Cảnh chen lấn để vô được bên trong vô cùng khổ sở và đau khổ. Hông đi được bằng máy bay, số còn lại chỉ có một con đường duy nhứt là xuống tàu thoát ra biển.
Trưa ngày 30 tháng 04 năm 1975, Bộ Tư lịnh Sư Đoàn 18BB, chạy tán loạn tan hàng. Thiếu Tá Đoàn Hữu Mỹ cùng anh em ở Trung Tâm Hành Quân hông liên lạc được với ai, tự động bỏ súng đạn, xe cộ và máy móc tuyền tin ở trường đua Phú Thọ. Đại Tá Lê Xuân Hiếu cùng Tướng Lê Minh Đảo thay thường phục ở cư xá Thanh Đa rồi chia tay mạnh ai nấy về nhà.
Mặc đầu có lịnh đầu hàng của Đại Tướng Dương văn Minh nhưng quân đội Bắc Việt khi tiến vào Sài Gòn cũng gặp một số chống cự quyết liệt của các đơn vị Quân đội VNCH. Hổng thể giải quyết được tình trạng đã hầu như hông còn cứu vãn được nữa, một số người quá tuyệt vọng đã tự sát. Làm gì được nữa? VC đã phản bội Hiệp Định Paris năm 1973 cộng thêm sự tiếp tay của ngoại bang, họ đã thừa cơ tiến công. Cũng còn một số trí thức mơ mộng, và một số người ngây thơ tin tưởng VC. Ở đó mà mơ tưởng chính phủ Ba Thành Phần nên sẳn sàng mở cửa Dinh Độc Lập toác hoác để đón xe tăng nghêng ngang vào. Đúng là cái vòng danh lợi cong cong. Kẻ hòng ra khỏi người mong muốn vào. Con cá trong nôm đỏ lừ con mắt. Con cá ở ngoài ngúc ngắc muốn vô. Và VC lại lường gạt. Cắm cờ Mặt Trận Giãi Phóng Miền Nam lên nóc dinh! Nhóm người trọng tuổi thân Việt Minh (?) được dịp, lập tức ló đầu, vui mừng ra mặt, hoan hô đoàn quân “Giải Phóng” tiến vào Sài Gòn. Nhóm thân Cộng, hoặc do Cộng Sản giật dây xuất đầu lộ diện. Nhóm 30 tháng tư, trở cờ nhanh chóng, tay đeo băng đỏ hò hét vang trời. Và từ ngôi nhà ở đường Ký Con của ông Tư Phước, Trần văn Thành và Sáu Ngọc (Marin Pla), vội vàng tiếp xúc với thành phần nằm vùng bấy lâu nay, đón mừng quân giải phóng vào Sài Gòn. Gia đình ông Sáu Xe cũng vậy. Họ vui mừng “cách mạng thành công”, đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào. Nhứt là Vân (Sáu Trân), tỏ ra hăng say hoạt động để “giành thắng lợi mới!”. Cả nhà “hồ hởi, phấn khởi”.
Bà Phùng Xuân sợ sệt, hông biết tìm đường trốn đi đâu vì chồng mình tới giờ phút cuối vẫn biệt tăm, hông biết sống hay chết như thế nào? Bà chỉ biết chở ba đứa con nhỏ lên chiếc Honda chạy vào nhà Ông Bà Ngoại…
Rốt cuộc rồi cũng lại trở về nơi chốn cũ: Long Giao, Long Khánh. Nó còn có tục danh là Hàng Gòn, cách Xuân Lộc khoảng 12 km. Nơi đây đầu tiên là căn cứ Black Horse của Trung Đoàn 11 Thiết Kỵ Hoa Kỳ (11th Armored Cavalry Regiment) từ năm 1966 đến năm 1969. Sau đó giao lại cho Lữ Đoàn 199 Bộ Binh Mỹ. Khi quân đội Mỹ rút đi vào năm 1971, giao lại cho Sư Đoàn 18 BB. Sau khi bỏ bớt sân bay, Trung Đoàn 48 BB và Trung Tâm Huấn Luyện của Sư Đoàn 18 đảm trách phòng thủ căn cứ nầy ( tọa độ YS 450970) (Bây giờ, năm 2012, là căn cứ của Sư Đoàn 302VC, thuộc Quân Khu 7 ). Rồi cuối cùng, khi Trung Tâm Huấn Luyện dời về Long Hải (Bà Riạ) thì căn cứ trở nên quá rộng. Những kho đạn do quân đội Mỹ để lại còn đầy dẫy trong những đám cỏ mọc hoang tàn…
Những ngày đầu tiên hai vệ binh dẫn đám tù vác cuốc xẻng đi trồng khoai lang. Những thằng tù, từ hồi nào tới giờ chuyên môn giơ tay năm ngón để chỉ huy thiên hạ, bây giờ bị hai người bộ đội trẻ bân ăn mặc bộ đồ kaki lèng xèng màu cứt ngựa, đầu đội nón cối và hai chơn đi dép râu lẹp xà lẹp xẹp, kèm theo hai cây AK ra lịnh, nên họ có vẻ quê độ, tỏ ra ngỡ ngàng. Nhưng là thân phận tù binh thì họ có làm gì hơn được? Buổi tối, tù binh được một anh tổ trưởng đưa cho tờ giấy để khai lý lịch trích ngang. Hông anh nào biết khai như thế nào. Cán bộ kêu kê khai tới đời ông nội và tất cả bà con dòng họ nội ngoại. Từ hồi cha sanh mẹ đẻ tới giờ chưa có cái vụ nầy. Đâu có ai mà nhớ hết dữ vậy. Anh nào anh nấy mỗi anh kiếm một góc nhà dưới ánh đèn cầy mù mờ nặn óc viết ra. Chừng nào nộp? Chưa biết. Cứ ráng mà viết cho đầy đủ “Thành khẩn mà khai báo, cách mạng sẽ cứu xét cho về sớm”.
Ở trong doanh trại rộng mênh mông, bộ đội kiểm soát cũng hông có gì nghiêm nhặt lắm. Buổi trưa, sau những bữa ăn no với tép cá đầy đủ, tù binh còn ngồi tụm ba tụm bảy đấu láo với nhau. Xuân vẫn còn e dè, ngồi im lặng nghe. Toàn là những người bạn tù lạ, hông quen biết. Làm sao mà dám nói rõ những ý nghĩ của mình. Một vài người cho chàng biết. Khi chưa sập tiệm, còn là hạ sĩ quan làm việc rất siêng năng. Sau khi bể dĩa, thì hỡi ôi, cái ông thượng úy VC ngồi chình ình một đống tiếp nhận mình chính là anh chàng hạ sĩ quan trong đơn vị mình lúc trước. Nó biết rõ mình nên nó hạch sách đủ điều.
Tù binh vẫn còn tin tưởng là sau khi “thành khẩn khai báo” đầy đủ, nộp giấy trích ngang là họ được trở về sum họp gia đình. Ủy ban quân quản đã có giấy tờ là đi học tập chỉ có một tháng mà! Một vài người nói với Xuân như vậy. Chàng hông biết. Họ đưa cho chàng xem tờ kêu gọi đi “học tập cải tạo” của Ủy Ban Quân Quản. Té ra VC ma giáo chơi chữ, nên tù binh miền Nam ngây thơ bị chữ chơi! Người ta in rõ ràng trên giấy trắng mực đen là: “ đem lương thực và thực phẩm( hiện vật hoặc tiền) đủ dùng trong một tháng ”. Đủ dùng trong một tháng chớ nào phải đi học tập một tháng rồi về đâu! Nếu đi “học tập cải tạo đúng một tháng” thì VC phải viết rõ ràng ngày đi và ngày về chớ. Xuân nhớ lại đến những gì chàng đã đọc trong một vài cuốn sách của Hoàng văn Chí và phim: “Chúng tôi muốn sống”, “Ánh sáng miền Nam” được coi lúc còn nhỏ. VC bao giờ cũng lật lọng, mập mờ đánh bài ba lá.
Tờ khai lý lịch trích ngang được trả đi trả về mấy lần. Lý do: các anh khai báo chưa thành khẩn. Thời gian một tháng sắp hết. Tù binh lại còm lưng viết lại. Bây giờ thấy ai ngồi viết cũng trầm ngâm nghĩ ngợi, phải làm sao viết cho đúng đây.
Xuân hông buồn viết chi cho nhiều. Tờ khai được trả đi trả về mấy lượt, chàng cứ như thế viết y chang như lần trước, ngắn và gọn. Dài dòng quá mình dễ quên. VC có biết gì về lý lịch của mình đâu mà viết chi cho nhiều. Tụi nó bắt thóp mình đó. Hồ sơ đâu còn nữa. Họ hông có đủ nhân sự để lùng sục đọc từng hồ sơ của mình đâu! Hơn nữa, Phùng Xuân để ý mấy anh chàng cán bộ nầy làm trời làm đất chớ một chữ cắn làm hai hông bể! Có nhiều anh chàng cán binh cầm giấy ngược thì làm sao đọc nổi, hở trời!
Còn dư thời gian, Xuân lấy cuốc vun giồng trồng khoai lang và mấy cây cà tô mách lấy hột từ sau nhà bếp. Một vài người nhìn thấy, cho Xuân làm chi cho mệt. Đúng một tháng là mình về rồi mà! Chàng mỉm cười: “ Tôi với mấy anh sẽ có khoai và cà ăn đó”.
Hết khai lý lịch trích ngang. Bây giờ tới khai phần bản thân. Mỗi người phải viết ra và đầy đủ “quá trình hoạt động” từ lúc nhỏ cho đến bây giờ. Lại cắm cúi ngồi nghĩ ngợi, miệng cắn viết suy nghĩ mông lung. Làm sao mà nhớ hết cho nỗi đây? Lại trả tới và trả lui. Lại viết đi và viết lại.
Nhiều tay biạ ra viết lẹ đi cho rồi. Còn dư thời giờ, hông biết làm gì, có một vài nhóm buồn tình, dưới trưa nắng chan chan, xách cuốc xẻng đào khoai mài (trong Đông Y tên là hoài sơn). Củ khoai mài đâu phải dễ đào. Nó thuộc loại củ khoai rừng, mọc ở vùng đất cao. Củ của nó thường đi thẳng sâu xuống đất. Đâu có phải như củ nừng đâu mà nằm khơi khơi trên mặt đất! Với một chút tinh ý, nhìn vào giây leo, chúng ta biết rõ củ lâu hay ít năm. Củ lâu năm thường to dài đâm thẳng xuống đất sâu chừng ba, bốn thước. Phần non ở cuối có nhiều bột, luộc ăn rất ngon. Phần già trên ăn chai và cứng.
Trong thời gian nầy, tù binh chưa bị đói. Họ được cho ăn phủ phê để còn dốc bụng ra khai nữa chứ. Cho nên họ đi đào khoai để ăn chơi thôi.
Gần đến hết hạn một tháng, nhiều người tù tỏ ra bồn chồn lo lắng. Nhưng rồi, hết thời gian ban ngày được thoải mái. Buổi sáng vừa ăn xong là phải lên họp tổ. Trưa nghỉ một chút rồi lại họp. Chiều cơm nước xong là đến họp. Họp cho đến tối. Tù binh có thằng buồn ngủ tỏ ra hết kiên nhẫn. Bất cần, đây là lúc con mồi sập bẫy, khai tầm bậy để cho yên thân.
Bắt đầu cuộc hành trình gian nan cho những người tù binh miền Nam còn ngây thơ như cừu non. Trong lúc đó VC như những con sói. Những người cán bộ VC dạn dày kinh nghiệm trong việc khai thác tim óc con người. Chỉ có cái chén sỏ dây và đôi đũa buộc cứng, treo tòn teng bên quần kaki màu cứt ngựa và hai chơn mang dép râu và túi sắc quàng vai và đầu đội nón cối, đôi khi có tăm xỉa răng ngậm miệng, “cán bộ” đi đến đâu nghe lộc cà lộc cộc đến đó, nhưng trong đầu chứa nhiều mưu mẹo quỉ khốc thần sầu. Trải qua Cải Cách Ruộng Đất kinh hồn, họ biết thế nào là đấu tố và buộc tội kẻ thù. Toán tù binh lần lượt khai ra từ đời cố hỉ cho đến bây giờ. Nhưng rồi cũng bị kiểm điểm. Chưa thành khẩn. Tù ngớ ra. Thế nào mới là thành khẩn? Khai riết cho đến khi nào cách mạng buộc anh có tội là thành khẩn chớ gì?
Khoai lang được đào lên và rồi nấu cho bạn tù ăn. Và cà chua chia nhau mỗi người ít trái. Đám tù bây giờ buồn xo. Mặt mày bí xị. Họ hết bàn tán một tháng là trở về nhà. Ai cũng có vẻ nôn nóng. Và vợ con ở nhà chờ mong, yên chí chồng chỉ đi “học tập cải tạo có một tháng”
Những cơn mưa dông xối xả đến. Hông có đi ra ngoài trồng khoai, dọn cỏ. Sau mỗi lần kiểm điểm, mỗi thằng đứng nhìn mưa rơi, trầm ngâm. Mưa nổi bong bóng. Mưa dai dẳng và hoài hoài hông chịu dứt. Nước ngập láng sân. Bong bóng trôi chảy về cuối dãy nhà. Mưa đến gần khuya, còn rỉ rả kêu tách tách trên mái tôn. Trăng suông hiện ra. Ánh sáng mờ nhạt ôm dài trên luống khoai, lan ra bụi chuối như sương sa. Phùng Xuân ngáp dài. Mấy tháng nay, hông có được một điếu thuốc Ruby Quân Tiếp Vụ…
Trong lúc đó, tháng 8 năm 1975(?), nhóm tù gồm toàn cấp úy “ác ôn, có nợ máu với nhân dân”, đã âm thầm rời khỏi căn cứ Long Giao lúc đêm đày đi Bắc. Nhóm tù còn lại hông hề hay biết(?)
Bài kiểm điểm cứ nhai đi nhai lại. Đêm nào cũng như đêm nào, chỉ có những danh từ đó lập đi lập, như nước đổ lá môn. Có phải như thế hông? Như đờn khải tai trâu thì đúng hơn. Nước đổ lá môn hông thấm, nhưng đờn gảy tai trâu thì trâu nghe riết rồi cũng lập lờ yên lặng, thấm vào lỗ tai, trâu đành đứng một chỗ. VC là học trò của Liên Xô nên họ rành thí nghiệm Palov. Nên cuối cùng bọn tù cũng đành nói theo.
Hai ngày liền, tù được nghỉ xả hơi. Ai nấy cũng mừng. Chắc xong rồi. Và hy vọng được về nhà. Đến đầu hôm ngày 10 tháng 11 năm 1975, trăng đầu tháng vừa lặn, tù binh được lịnh thu dọn đồ đạc. Đám tù mừng rỡ. Tất cả đều lên xe bít bùng, có vệ binh mang súng đi theo. Gương mặt họ hầm hầm.
Đoàn xe di chuyển trong đêm hông trăng, tối đen. Ngồi trong xe, hông nhìn ra được bên ngoài, Xuân ước lượng đoàn xe đi như thế nào. Ra cổng, quẹo trái. Đi về Xuân Lộc. Đến ngã ba Tân Phong, đi thẳng. Quẹo cua Heo. Đi về hướng Tây. Đến ngã ba Dầu Giây. Lại đi thẳng. Về đâu? Về SàiGòn? Đi đâu đây?
Đến khuya, đám tù bồn chồn lo sợ. Nhưng đoàn xe dừng lại. Mọi người được lịnh xuống xe đứng yên tại chỗ. Có người nhận ra. Ôi thôi rồi! Trại Suối Máu, Tân Hiệp.Trại giam tù binh Cộng sản hồi trước. Sao mình lại có duyên vô đây? Trước năm 1975, Xuân đã bao lần mình đi qua đây. Và có bao giờ chàng nghĩ mình sẽ là tù binh bị nhốt vào đây. Đúng là một giấc mơ. Giấc mơ đi tù một tháng trở về của đám tù tan như bọt nước. Vào trại nầy biết bao giờ trở về? Trại có 05 K nhốt từ bò nhứt, bò nhị, bò tam cho đến bò lục…
Mười bài mà đám tù phải học là mười bài viết của kẻ chiến thắng, tự mình vỗ ngực cho mình là tài giỏi. Nào là “Ba dòng thác Cách Mạng”, “Ngụy quân, ngụy quyền”, “Tội gì mà trời không dung, đất không tha”… Rồi sau đó mạt sát người thua thậm tệ, gọi họ là Mỹ- Ngụy. Có phải Miền Nam là Ngụy hông?
– Đâu có anh Lượng! Đồng Minh của miền Bắc là Nga, Tàu, Bắc Hàn, CuBa. Họ yêu cầu những nước “anh em xã hội chủ nghĩa” đến. Họ mới là Ngụy đó. Còn miền Nam có yêu cầu “đồng minh của mình” tới giúp đâu? Hông.
– Sao anh biết?
– Chính phủ Ngô Đình Diệm hông có kêu gọi ai tới. Ổng nói để nước tôi tự chiến đấu. Ông Mỹ phù phép giết Tổng Thống của Đệ nhứt Cọng Hòa rồi a thần phù ngày 09 tháng 03 năm 1966 đổ bộ vô Cam Ranh kéo theo Úc, Tân Tây Lan, Nam Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân, Đài Loan, Tây Ban Nha và réo lên giúp miền Nam tự do chống miền Bắc Cộng Sản!
– Ôi thôi! Miền Bắc rêu rao đánh thắng ba đế quốc Nhựt, Pháp, Mỹ đó.
– Nhưng họ có đánh thắng đế quốc Nhựt bao giờ đâu? Đó là công của chính phủ Trần Trọng Kim mà! Họ cướp của người ta nói là của mình. Vừa ăn cướp vừa la làng. Hông lẽ lịch sử viết sai sự thực?V à người viết cuốn: “Đem tâm tình viết lịch sử” lại viết hông đúng à? Và có phải Mỹ cút hông anh Lượng?
– Nhưng cái độ lượng của Chánh Phủ Trần Trọng Kim là thả hết tù chính trị. Trong số đó có nhiều “ông cố nội” VC lúc bây giờ, để đến nay họ quậy nát tùm xèng cái nước Việt nhỏ bé nầy!
Thiếu Tá Nguyễn văn Lượng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/52 Sư Đoàn 18 mấy hôm rày ăn trúng cái giống gì mà bị tiêu chảy re. Hắn ta cứ ngồi chực chờ trước cầu tiêu. Người càng ngày càng ốm tong teo.
– Chắc ông bị kiết quá. Có đem theo thuốc uống hôn?
– Có con mẹ gì! Nói đi có một tháng rồi về mà. Ai đem thuốc men nhiều làm gì!
– Ở trong nầy dễ gì mà kiếm được mấy viên thuốc than. Tìm ra Ganidan lại càng khó. Tui thấy xung quanh đây có nhiều cỏ mực và rau sam, để ngày nào tui cũng hái cho anh một mớ. Cỏ mực thì anh có thể nhai sống rồi nuốt, nhưng rau sam thì anh phải luộc chín. Tui lấy than ở dưới nhà bếp tán nhuyễn ra. Anh có dám uống hôn?
Trong tù, lúc đầu thằng nào cũng tưởng về sớm, thường tỏ ra hào phóng cho thuốc men bạn tù. Từ khi hông biết được ngày về, tù thường thường để dành lại một chút ít thủ thân. Từ đó, châm, cứu là phương pháp trị bịnh của tù. Nhức đầu cũng châm, cảm sốt cũng cứu…
Thiệt ra, lên hội trường học xong bài nào, vừa phủi đít đứng lên là tù binh quên hết bài đó. Đó là những điều hổng đáng phải cho mình nhớ. Nhớ chi cho mệt. Họ đày đoạ, dầy vò tinh thần mình mà! Mà có gì đâu để phải nhớ những lời lập đi lập lại như con cưỡng, con sáo. Điều đáng nhớ là tới giờ chia cơm. Họ như đám ong bể ổ. Thằng nào tới phiên đi lãnh cơm cũng lo về mau, quăng cái xẹt cuốn tập rồi lẹ lẹ xách thau nhôm xuống nhà bếp lấy cơm và đồ ăn. Mấy thằng còn lại, bày tô chén để chia phần!
Học xong một bài, tù binh được chia thành từng tổ để thảo luận. Có cán bộ ngồi nghe, đánh giá, phê bình. Có những người tù tinh ý. Mầy muốn vậy, tao nói theo ý mầy, cho mầy chết luôn! Làm sao mà cải tạo được họ. Đầu thằng nào thằng nấy đều có sạn. VC cũng biết vậy, nhưng họ tin vào Palov. Nói riết thế nào cũng có thằng nghe. Nhưng cũng có cha nói nghe sao được, khi mà cán bộ nói anh là công binh, anh cũng có tội với “cách mạng, với nhân dân”. “ Sao vậy cán bộ?Anh xây nhà cho bọn ngụy nó ở cho ấm cúng, lắp đặt ống nước cho ngụy nó tắm cho mát”. Anh tù binh “Nam Kỳ” ngẩn tò te, chửi thề trong bụng: “Đụ mẹ, xạo ke tổ cha! Nói vậy mà cũng nói cho được”.
Buổi trưa nắng cháy da. Thiếu Tá Võ Long Tôn, Thiết Đoàn Phó Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh/Sư Đoàn 18 BB, cứ mình trần trục, đi lên đi xuống mấy dãy nhà. Mới có mấy tháng mà ốm cà tong cà teo như cò ma, lòi xương sườn. Thân mình gần như bộ xương cách trí.
Phùng Xuân biết Tôn. Người quê Bến Tre, em Dân Biểu Võ Long Triều. Tôn hở ra là toa toa moa moa với Xuân. Cho nên chàng nói chuyện với Tôn mà hổng cần giữ mồm giữ miệng. Hơn nữa, hai người cũng đã ở lâu nơi Sư Đoàn nên biết nhau.
– Thì anh cũng biết mà. Anh cũng như tui đều biết bài thơ ngụ ngôn: “Con chó sói và con cừu” của La Fontaine. Lý kẻ mạnh bao giờ cũng phải. Họ là kẻ chiến thắng thì họ nói sao cũng được.
Những ngày chủ nhựt, tù binh được nghỉ. Tù đói nên đi vòng vòng quanh, kiếm được thứ gì ăn thì ăn thứ đó. Con cắc ké chạy cũng hông khỏi. Cọng rau sam cũng trụi lủi. Con chuột cũng bị thui cháy. Thậm chí có thằng nói trùn ăn được. Thằng Tuấn tây lai nói nấu cháo ăn ngon lắm! Xuân hông biết. Xuân chỉ lo tom góm mấy cái nang mực. Phòng có ngày bị đày lên rừng, Xuân sẽ dùng nó để vò lá sâm.
Buổi trưa ngày 07 tháng 04 năm 1976. Thứ Tư. Trại Suối Máu ngùn ngụt hơi người tù binh, bốc lên trong nắng. Người tù nào cũng ở trần. Sau buổi cơm trưa, ai nấy đều mệt mỏi. Họ lim dim mắt, ngái ngủ sau những giờ lên lớp bị nhồi nhét bởi những con két biết nói tiếng người. Bổng nhiên, súng nổ. Tiếng la hét. Chạy rần rần. Tù được lịnh vào nhà, đứng ngay chỗ mình ngủ, điểm danh. Vậy là có người trốn rồi. Ai đây? Tại sao lại trốn vào lúc nầy? Bên ngoài dân chúng trở cờ đang ùn ùn tiếp đón họ. Khí thế kẻ chiến thắng đang lên. Hông còn ai bên ngoài hổ trợ mình thì làm sao trốn cho thoát? Đành rằng tù binh được dịp là trốn. Nhưng lúc nầy hông phải là lúc để trốn.
Chừng một giờ sau, anh em biết được Thiếu Tá Trần văn Bé và Thiếu Tá Phạm văn Tư ở K3 đã vượt ngục. Hai người đều là Khóa 19 VBĐL. Nhưng súng đã nổ, chắc có người hông thoát được rồi. Anh Bé là Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu Định Tường. Chắc họ hông tha đâu. Và sau đó, một người chết và một người bị bắt lại. Tin tức sốt dẽo ai cho biết? Làm gì trong tù hông có anh Ba?
Buổi sáng sớm ngày 10 tháng 04 năm 1976, anh Hòa, nhà trưởng nhà 08, cùng với các nhà trưởng khác ở K3, được lịnh đi ra ngoài họp. Lối khoảng gần trưa, có những tràng AK nổ dòn dã. Khi anh Hoà trở về, gom anh em lại, cho biết họ đã xử bắn anh Bé. Gương mặt mọi người thẩn thờ, buồn bã. Con cọp nhe răng đầy máu, dờn móng vuốt hù dọa trước khi ăn thịt con mồi. Tội nghiệp, hai người tù bị điều về Quân Đoàn V quá tàn nhẫn và sớm sủa. Họ hông còn có dịp học xong hết mười bài, để kịp biết mình có tội như thế nào, hòng mong “cách mạng” khoan hồng được mau về sớm!? Mà nếu họ còn sống chắc cũng hông về được. Tội gì mà “trời không dung, đất không tha” thì ở tù cho biết chừng nào ra, hở trời!
Ở trong tù riết rồi cũng muốn điên cái đầu. Tối ngày cái “ô bạc lưa” (haut parleur) ré ré bài hát: “Bóng cây K’nia” với hai giọng hát miền Trung và miền Bắc.Tiếng hát “opera” cao ngất ngưỡng, nhanh và mất lời của cô ca sĩ “Cô gái vót chông” lần lần trở nên chát chúa. Dân miền Nam quen thưởng thức giọng hát rõ lời, luyến láy.Nên hở ra khi nghe “cấy cớ nía, ớ lá cấy cớ nía”, tù đều ré lên như tiếng gà lôi trống: “cà lốc cốc”. Cây K’Nia là cây gì mà xưng tụng dữ vậy? Phùng Xuân hổng biết cây gì. Té ra rồi Xuân cũng biết. Cây K’Nia là cây cầy. Trái giống như trái cốc, cũng chua nhưng xơ hông hè! Có rất nhiều ở khu rừng Thiên nhiên trong Thánh Thất Cao Đài và trong rừng TâyNinh ( Mãi về sau, hơn ba chục năm, Phùng Xuân biết hai giọng ca đó là của ca sỹ Tường Vi và Măng thị Hội ).
Buổi sáng ngày 02 tháng 07 năm 1976, tù binh nhìn lên cột cờ hàng ngày ở K3.Ủa! Đâu mất lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam rồi. Mọi ngày nó vẫn vỗ phành phạch kia mà. Hôm nay nó mất tiêu rồi. Cờ đỏ sao vàng ngạo nghễ. Giờ nầy chắc lá cờ Mặt Trận Giải Phóng ở nóc dinh Độc Lập cũng bay mất rồi. Và cái tên Sài Gòn cũng hông còn nữa. Thôi thôi, tiêu vong đứa con hoang rồi. Bây giờ, mầy đâu được ngồi cùng chiếu với bọn tao để giành phần. Tao bóp mũi cho mầy chết hông kịp ngáp. Mấy người trí thức miền Nam ngu ngơ, khù khờ (?), háo danh và mấy chàng sinh viên, học sinh… trốn vô “bưng”, tưởng VC là VM(?), đánh cho “Mỹ cút, Ngụy nhào” để giành độc lập cho đất nước. Đâu biết rồi đây cái họa Cộng Sản, cái họa kẻ thù phương Bắc, Tàu cộng siết cổ dân mình!
“Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma”(Kiều). Kỳ nầy bọn họ đi đứt, hộc máu, tức cành hông ra mà chết. Mai mốt đây, chỉ ngồi chầu rìa thôi. Cho những người dân Tây, chữ nghĩa cùng mình, hết còn mơ thiên đàng Cộng Sản. André Gide cũng còn chào thua! Mà thiệt, VC còn xí gạt dân miền Tây nữa mà! Có người bạn tù nói với Phùng Xuân: Ngày “giải phóng” thành phố CầnThơ, VC cho mở nhạc thời kháng chiến chống Pháp: “Mùa Thu rồi, ngày hăm ba, ta ra đi sơn hà nguy biến….” “Và,Tiểu Đoàn 307…” “Bên hàng dừa cao, dòng sông mờ soi bóng…” vang rân đầu đường xóm chợ. Người miền Tây sướng như điên. Việt Minh trở về rồi! Được mấy ngày, tiếng hát tắt tịt, đổi qua giọng khác. Họ tiu nghĩu, xìu yểu. Dân miền Nam xét đoán người khác theo cảm tính nên dễ bị lường gạt!(?)
Phùng Xuân ngồi buồn thui thủi một mình. Có còn ai ở kề bên mà chuyện trò như thời còn ở đơn vị với Chúc. Vào đây mình biết nói với ai đây? Hổng hiểu lúc nầy thằng Chúc nó đang ở trại giam nào. Hay là nó dọt đi được rồi?
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn. Màu ngà ngà loang dại cùng quanh trại. Vướng hàng rào kẽm gai, màu trăng nhạt nhòe vàng nhợt hôi mùi nước đái khai ngấy. Chị Hằng khờ khệt, chập chùng chúi xuống trên con đường cát nhòe nhoẹt mùi cứt cầu tiêu của đám tù binh. Hơi tù bốc lên, làm màu trăng chập chờn trên mái tôn, phảng phất hồn trăng trong hơi lạnh của hai người tù vừa bị xử bắn.
Những đêm tối đen. Bầu trời đầy sao. Sông Ngân nằm dài trên bầu trời. Đầu hôm là sao Hôm, rồi sao Cày dần dần lên cao, nằm ngất ngưỡng giữa dãy Ngân Hà, cùng với chòm sao Vua. Tháng tám Sao Bọ Cạp vương hai càng khều khệu. Trời gần về sáng, chòm Vệ Nữ ngủ mơ màng trong hơi sương lạnh với hạt ngọc sao Mai long lánh.
Ôi! Vũ trụ mến yêu. Vũ trụ vô hạn, vĩnh hằng. Vũ trụ là muôn năm trước, là muôn năm sau. Người là một tấm lòng bao la mở rộng. Ai mà cảm thấy nhiều lo lắng, đau buồn. Đêm đêm, ngó lên trời cao, vũ trụ sẽ gột rửa mọi ưu phiền.
Phùng Xuân ngước nhìn bầu trời đầy sao. Lòng nhẹ nhàng lâng lâng. Sao đi rồi sao lại về. Cuộc đi về của bầu trời đầy sao đêm như là một giấc ngủ bình thản của cuộc đời. Và rồi mình lại trở về như lúc ban đầu thôi. Nhưng mà là khi nào? Hãy để lòng ngủ miên man trong vũ trụ bao la thì sẽ cảm nhận được điều đó sao? Hãy bình tâm, coi mọi việc như có như không, chắc chắn mình sẽ vượt qua được giai đoạn khó khăn nầy.
Thời gian trôi qua bao lâu rồi? Bị khép kín bốn hàng rào kẽm gai chung quanh, chàng hông biết được thời gian trôi đi như thế nào. Đầu hôm chỉ ngó sao Hôm là biết một đêm đến. Ngày chỉ ngắm mặt trời lặn là biết một ngày qua. Nhìn thấy được trăng rằm sáng vằng vặc là biết một tháng qua. Hôm nay, trăng non yếu ớt e thẹn như cô gái mới lớn thơm mùi lúa bồng bồng, nằm ngữa mình tắm trong sông sao. Mùng một lưỡi trai, mùng hai lá lúa, mùng ba lưỡi liềm, mùng bốn câu liêm… cứ thế mà biết được ngày qua tháng lại. Văng vẳng âm thanh “Bài Thánh Ca Buồn” của Nguyên Vũ nương theo gió chướng đưa vô trại. Trời trở lạnh. Chắc là Noel rồi. Một năm sắp trôi qua!