- 2 -
Trại tù A20 Xuân Phước, Đồng Xuân, Phú Khánh, ở sâu trong Mật Khu Đồng Bò. Nó là một liên trại: A, B, C, D, E, nhốt nhiều loại tù khác nhau, chạy tuốt vào dãy Trường Sơn. Từ ga LaHai vào trại hông có đường xe đưa khách, dài khoảng 15 km. Vợ con tù “Cải Tạo” muốn đi thăm nuôi phải lội bộ, lần theo con đường đất. Trong phân trại B có nhốt một nhóm tù sĩ quan cấp tá và các loại tù khác.
Tội nghiệp cho hai ông Đại Tá già, bận hai cái áo tù màu xám lợt có in hai chữ cải tạo bự ở sau lưng đi lụm khụm. Ngày nào cũng như ngày nấy, Đại Tá Ông văn Nghĩa và Nguyễn văn Hiền phải lui cui thò đầu vào sâu trong các hầm cầu tiêu lấy ra các thùng cứt. Gặp thùng phân đặc thì đỡ khổ. Bữa nào anh em ăn món nước mắm thúi bị ỉa chảy thì thùng cứt lỏng le. Anh em tù hông có giấy để đi cầu. Có những người cẩn thận, cắt từng miếng vải nhỏ để chùi. Riết rồi hết vải, chỉ có cách là rửa bằng nước. Mỗi buổi sáng, anh em tù đứng sắp hàng trước cửa cầu tiêu. Người nào trên tay cũng cầm một ly hay lon nước hông phải để đánh răng xúc miệng mà để rửa đít (!).
Hai ông già phải đi nhè nhẹ và chậm chạp, nếu hông cứt văng đổ ướt quần áo. Nhưng khổ nỗi, hai ông già rồi nên phải đi khòm khòm, nên thùng cứt càng lắc lư. Cứt và nước đái bắn ra tung tóe. Mùa hè thì khoẻ re. Hai ông cứ bận quần áo dính cứt đái, nhảy ùm xuống suối, mặc sức tắm giặt. Mùa lạnh thì giặt sơ sịa rồi lật đật đi lên. Vậy mà hai ông cụ cũng run bây bẩy như thằn lằn đứt đuôi.
Từ chỗ lấy cứt, hai ông già khệ nệ khiêng thùng cứt ra cổng. Đến cổng để thùng xuống, hai ông Đại Tá già bỏ nón ra, đứng nghiêm, la lớn lên, báo cáo xin ra khỏi trại. La nhỏ là hông được, phải la lại. Hai ông già thay phiên nhau, mỗi người la một ngày. Chớ nếu để một người la hoài, rát cổ họng, khan tiếng.
Sau đó, họ thủng tha thủng thẳng khiêng đến chỗ khu rau xanh. Một ông đi xuống suối múc nước để đổ đầy thùng. Ông còn lại lấy tay bóp bóp cho cứt nát vụn ra. Ngày đầu tiên, ông Nghĩa lấy khúc cây thò vô để quậy cho nhừ. Một cán bộ công an râu mép còn lông măng đi qua.
– Anh kia. Làm gì thế?
– Dạ. Báo cáo cán bộ pha cứt để tưới rau.
– Anh không được làm vậy, nghe chưa? Lấy tay bóp cho nó nát nhừ vào. Anh lấy cây trộn không có năng suất, nghe chưa?
– Dạ. Báo cáo cán bộ. Nghe rõ.
– Hai anh báo cáo lại.
Hai tiếng nói cùng vang lên
– Dạ. Báo cáo cán bộ. Nghe rõ.
Thế là ngày nào, hai ông già cũng phải thay phiên nhau lấy tay bóp cứt cho nát nhừ. Gặp thùng nào lỏng le thì đỡ khổ. Trúng thùng nào có đầy cứt su, hai ông già hôm đó trúng mối. Bóp thật lâu, cứt mới tan.
Thùng cứt nát nhừ. Hai ông già lụi hụi lấy thùng nhỏ múc cứt lỏng đổ tràn lên những luống rau muống vừa mới cắt. Cứ thế mà từng đám rau muống tưới toàn cứt tươi thúi rùm nuôi tù năm nầy sang năm khác. Vậy mà có năm, trời bão lụt. Hông có rau muống ăn, tù phải ăn đọt khoai mì luộc. Đọt khoai mì phải luộc cho thật kỹ. Luộc sơ sơ là ăn bị say. Có khi chết. Tội nghiệp có một vài trự hình sự đói quá, đào trộm, phủi sạch, nhai ngấu nga ngấu nghiến. Trúng loại khoai mì H34. Chết thẳng cẳng vì có quá nhiều arsenic.
Rau muống cắt về, hông cần lặt sạch. Tù nhà bếp đem xốc nước ào ào, rồi bỏ vô chảo đụn, nấu cho sôi. Xong chia cho tù ăn hàng ngày với mấy lát khoai mì phơi khô nấu chín đen thui đen thít như cục cứt su. Có hôm, một người tù ăn trúng phải vỏ khoai mì ở trong phân cứt nằm trong nhúm rau muống chín. Nó la lên. Nhưng mà đâu có bỏ rau muống được. Bỏ là đói. Thôi ráng nuốt cho qua con trăng nầy. Ráng nuốt để đợi đến ngày thanh tra, ngày Tết có được một tẻo thịt heo đầy mỡ bằng ngón tay út. Thằng tù nào gan lắm mới dám nuốt liền, vì hông biết mùi vị miếng thịt mỡ ngon cỡ nào!
Tù tắm là rộn ràng nhứt. Ngày mùa hè, hôm nào có đi “lao động” bên ngoài, nếu là cán bộ dễ dãi sẽ dẫn tù đến suối. Khi có lịnh của trưởng toán báo hôm nay cán bộ cho tắm. Tù lập tức bỏ cuốc xẻng, cổi quần áo. Tù truồng như nhộng, ào ào tuôn xuống suối như bầy vịt, vẫy vùng trong dòng nước suối trong, mặc sức mà kỳ cọ. Hô lên về. Tất cả vọt nhanh lên, hông lau chùi, mặc nguyên quần áo vô. Đầu cổ tóc tai còn nước ướt chảy nhỏ giọt. Chỉ có toán “rau xanh” là mặc sức tắm, mặc sức mà vùng vẫy trong dòng suối tuôn chảy ào ào, hì hụp mò những con chem chép trong khe đá, len lén mấp mấp từng miếng thịt mềm mùm mụp ngon ngọt.
Mỗi nhà có một hồ nước. Nhưng ít khi đầy. Nước bôm từ suối. Ngày nào hông có đi lao động, tù tắm nước trong hồ. Tù canh. Nghe tiếng máy bơm nổ xình xịch, tù biết có nước. Hô lên cái rần. Thế là cha con ào ra, đứng sát thành hồ. Đủ thứ để múc: lon, thùng, tô, chén… Tù xối ào ào, hông kịp chà xà bông (Mà đâu phải thằng tù nào cũng có xà bông). Thằng nào thằng nấy truồng dòng dõng, cu dái lòng thòng, la hét, cười nói, đùa giỡn đả đời. Cũng có thằng sợ thấy cu, mặc quần xà lỏn. Nhưng phải cho mau. Có tù chưa kịp xối tan hết xà bông. Hết nước. Trên mình còn bột bèo trắng xóa.
Bữa ăn tù rất đơn giản. Chỉ có ba thau nhỏ gồm thau nước muối cá, thau rau muống, thau khoai mì khô đen thui đen thít như cục cứt su của trẻ con rặn hoài hổng ra hay khoai lang, tùy theo mùa. Hông có thau nào đầy, chỉ lưng lưng mà chia cho tám người. Nên tù đói triền miên. Vào những ngày lễ lớn hay Tết, tù được nghỉ một ngày, có được khoảng lưng lưng chén cơm và một miếng thịt heo bầy nhầy bạc nhạt chút síu sùi siu, chừng một ngón tay cái. Đó là những lúc huy hoàng trong tù. Thằng nào thằng nấy chắp chắp, mút mút. Có những thằng kín đáo hơn, đem miếng thịt heo vào trong góc khuất, bần thần nhìn hồi lâu, nhớ ông nhớ cha gì hổng biết.
Ở trước cửa trại có một hầm xi măng xây nổi lên trên, có mấy tấm tôn đậy sơ sài. Muối và cá đổ chung nhau, pha thêm nước suối. Lúc mùa mưa bão, nước mưa tràn vô hầm ngập đầy. Bây giờ nước muối bị pha loãng, cá ươn sình lên. Nước muối thúi hoắc. Anh em tù phàn nàn. Mới đầu, viên Trung Úy trưởng trại Phân Khu B bảo các anh là tù, các anh phải ăn như vậy. Hông có ý kiến.Các nhà trưởng “phản ánh” lên trên nhiều lần mới được ăn nước muối trở lại.
Xuân nằm giữa hai ông già. Bữa nay hai bàn tay của hai bố sao mà nghe mùi thum thủm hoài. Hôm nay trúng cứt tụi bây ăn gì mà ỉa ra cứng ngắc, tụi tao bóp hoài hông nhuyễn. Đâu có xà bông thơm để hai ổng rửa tay cho hết thúi. Đêm tối, hai ba nằm im lặng, ngẫm số phận mình.“Khi sao phong gấm rũ là? Giờ sao tan tác như hoa giữa đường? Mặt sao dày gió dạn sương?Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?”.( Kiều )
Ông Hiền ít khi nào thổ lộ chuyện mình. Ông Nghĩa, người Huế, có vẻ thích nói chuyện với Xuân. Hai người dặn nhau là ai về trước tới báo cho nhà biết. Nhà ông ở đường Trần Bình Trọng, bên hông nhà thờ Chợ Quán. Nói vậy chớ biết khi nào về. Ở trại giam nầy quá kiên cố, tường xây 220, song cửa sắt lớn bằng ngón chơn cái thì làm sao ra được? Ở giữa rừng núi trùng trùng điệp điệp, muốn vượt ngục, phải có ý chí mạnh mẽ và sức khoẻ dồi dào.
Hơn nữa, VC đầy đọa tù binh cả thể xác lẫn tinh thần thì dễ rục xương nhanh. Cả ngày đi “lao động” thiếu điều muốn ngắc ngư rồi mà tối nào về cũng phải họp tổ, phê bình, kiểm điểm, bình bầu anh hùng thi đua, học tập gương tốt. Rồi lâu lâu lại có màn học tập chánh trị. Nỗi ám ảnh người tù vẫn còn: thỉnh thoảng vẫn lại phải ngồi thức, cắn răng viết lại bản tự khai. Ai có còn nhớ gần sáu, bẩy năm về trước, hồi mới vô tù mình đã khai những gì hôn?
Trong phân trại cũng có những nhóm anh em thân tín hoạt động bí mật, chia sẻ nhau những tin tức bên ngoài, sinh hoạt văn nghệ, ra báo chuyền tay. Nhưng thỉnh thoảng bị “ăng ten” tố giác. Họ bị bắt, cùm xà lim, “kiên giam”…
Hai ổng cũng đói lắm vì chưa thăm nuôi được. Nằm bên, Xuân nghe hai ổng nói thèm đủ thứ. Ổng gặp một củ khoai mì đẹt rơi rớt dọc đường, đưa mắt nhìn tới nhìn lui, hổng có ai. Ông già nhanh nhẩu cúi xuống, lượm lấy rồi đưa tay phủi phủi bỏ mau vô miệng. Nhưng hông nhai được, nước miếng trào ra làm hai hàm ổng cứng ngắc. Đừng nói đến cục đường, miếng thịt mỡ. Đó chỉ là nằm mơ thôi. Cho nên tù nằm gần nhau hay nói về các món ăn cho đả thèm. Như thế là ăn hàm thụ.
Ở tù nghe được nhiều món ăn lạ. Vì tù có bao giờ ở chung với nhau có lâu đâu. Mai trại nầy, mốt trại khác. Bữa nay nhà nầy, bữa kia nhà khác. Mỗi người lạ là kể một món ăn. Mỗi lần thay đổi là mỗi lần tù phải bày đủ thứ gánh hàng xén nhỏ của mình để khám xét. Đây là dịp để mấy ông cán bộ lấy cớ cướp của tù. Một con dao nhỏ có cán đẽo giũa thật đẹp, có khắc rồng rắn cũng bị lấy. Một lon lò nhỏ, đốt bằng vải tẩm đèn cầy, đủ để nấu một ly nước sôi uống trà cũng bị tich thu. Cái gì ông cán bộ thích là ổng lấy. Lại thêm mấy ông thần nước mặn hình sự giữ trật tự xía vô kiếm chác. Riết rồi, tù chỉ còn mấy cái chén nhựa là an toàn nhứt.
Cũng có những lúc thoải mái vào dịp lễ lớn. Tù được sắp hàng xem chiếu bóng. Đó là lúc trông thấy được bóng dáng các “cán bộ gái”. Phùng Xuân nghe nói, nhưng hổng biết có hay hông: có một vài cô cán bộ mê tù cải tạo rồi giúp cho vượt ngục an toàn và cũng có thằng tù đẹp trai, còn “phong độ” lớ quớ chộp được một mối tình(!) “cho không biếu không”, ọt ẹt chớp nhoáng nơi rẫy bắp, bìa rừng…? Chỉ biết là có những khi đi “lao động”, qua khu các cô thì các cô cũng nhìn bọn tù dữ lắm. Và nghe được toàn giọng của Lệ Thu, Thanh Thúy…, hát những bài lúc trước năm 1975, vang rân trong phòng.
Có một lần, nhà tù tổ chức đánh bóng chuyền giữa đội tù và đội công an trại. Đội tù lựa ra toàn là những kiện tướng. Đội công an tưởng bở, chừng như dễ sơi tái tù ốm đói. Đội tù đánh cho đội công an thua siểng niểng. Một trái banh đập thật mạnh của bác sĩ Nhứt ở trại A qua lưới, đội công an hông đỡ được. Được dịp, anh em đứng bên ngoài hò hét: “Đập đi!Đập thật mạnh cho chết nó đi!”. Trả thù bằng miệng!
Trăng rằm. Trời đã khuya. Mọi người tù đã ngủ. Phùng Xuân nằm sấp, rụt cổ như con rùa, nhìn ra sân qua những song sắt. Hông thể ngồi ngắm trăng được. Thỉnh thoảng công an đi rỏn, ngó vô thấy mình ngồi chong ngóc nhìn ra ngoài thì có chuyện. Sáng ra thế nào cũng bị làm kiểm điểm.
Ánh trăng hông còn lung linh nữa, chỉ là một màu xám xịt. Ngó ra tòan thấy kẽm gai bao bọc chung quanh và những dãy nhà giăng giăng. Làm sao ngẩng đầu lên thấy ánh trăng như sương sa và cúi đầu xuống nhớ quê nhà?“Cử đầu vọng minh nguyệt. Đê đầu tư cố hương” như Lý Bạch, trong tư thế nằm giống như con rùa? Ánh trăng như đám mây mù bao phủ những người tù.
Trăng suông trên cánh đồng Mỹ Nhiên đâu còn nữa. Trăng rừng lung linh huyền ảo trong những đêm hành quân đã xa rồi. Trăng bàng bạc ngủ dài trong căn cứ Trảng Lớn đã mất tiêu. Tất cả trôi đi thực mau. Có bao giờ trở lại?
Mọi sự biến đổi hông lường được. Có một bàn tay của Thượng Đế sắp sẳn hay là sự chuyển dịch của không-thời gian? Thời còn đi dạy học, đã có một vài lần Phùng Xuân liếc sơ qua những cuốn sách viết về “Kinh Dịch”. Nhưng thực ra họ viết về Bói Dịch. Xuân khó hiểu thấu đáo thế nào là “Dịch”?
Người Việt từ thuở xa xưa, nơi vùng sông Hoàng Hà, hông tin có Thượng Đế, chỉ tin vào sự biến đổi vũ trụ ảnh hưởng đến con người. Hở ra là kêu ông Trời, rủa Trời, trách Trời, chớ nào có tôn thờ ông Trời? Vậy thì những quẻ bói Dịch có còn đúng hôn?T ừ sướng đến khổ rồi từ khổ đến sướng. Tất cả có phải là một vòng lẩn quẩn? Thế thì mình đang bị giam cầm khổ sở trong tù, chừng nào mình được thả ra?
Có một vài người tù, do sự mặc khải của Thiên Chúa, đã được linh mục trong trại tù làm phép rửa tội. Và sau đó, họ có được một niềm tin vững vàng dựa vào Chúa. Họ hy vọng đến ngày mai tươi sáng.
Phùng Xuân suy nghĩ miên man. Bất chợt, hai chơn người ngừng lại đứng chắn trước khung cửa sắt. Công an đi rỏn canh đêm. Bóng trăng tự nhiên bị chẻ ra làm hai. Một vừng khối đen che lấp song cửa như hai bóng đen ma quỉ. Xuân rụt cổ, úp mặt xuống, hi hí mắt ngó lên. Hai khối đen sì. Màu trăng hông còn nữa, bị biến thành màu xám nơi sân thềm, đọng lại ở hai ống quần vàng ngóe…
Nhơn dịp bãi trường, bà Phùng Xuân xin được giấy phép phường cấp. Lần theo những lời viết ẩn ý của chồng, bà đoán được chồng đang ở nơi nào và làm thế nào để đi tới trại Xuân Phước. Đường đi thật gian nan. Xe đò hông còn như trước. Bây giờ mọi thứ đều phải vô quốc doanh. Chủ và lơ xe coi hành khách hổng ra gì. Và nỗi chầu chực mua được một cái vé xe thật là khổ nhục. Phải đứng sắp hàng từ đêm hôm trước mới mua được cái vé xe cho ngày hôm nay. Xuống ga La Hai từ sáng sớm, đi bộ lần theo con đường mà người ta chỉ vào trại Xuân Phước.
Bà dẫn theo ba đứa con, lếch thếch lội bộ, đùm túm mang theo đủ thứ cho chồng. Hai đứa con gái nhỏ đi theo hông kịp mẹ, chạy lúp xúp. Đồ mang theo tới hai ba giỏ đệm, hông xách một lần được, bà phải đi theo kiểu chân chim. Thằng Ken cũng phải quảy một giỏ đựng quần áo. Đồ ăn tom góp lại trong những lần đứa con gái lớn đứng xếp hàng cả buổi mới mua được. Khoai lang xấy khô, mắm ruốc kho đặc… Và mấy bánh thuốc rê là quí lắm rồi. Gần đến chiều tối mới tới nơi. Hết giờ làm việc. Bốn mẹ con quây quần ngủ trong nhà tiếp khách trống bốc.Gió thổi hù hù. Cả bốn mẹ con đều run sợ.
Cán bộ trại nhìn thằng Ken, rồi nhìn vô giấy tờ, lật đi lật lại, lật lên lật xuống, lật qua lật lại. Bà Phùng Xuân sốt ruột, hông hiểu “ông công an” làm gì mà săm soi giấy tờ lâu quá vậy. Bà sợ sệt. Đã có những lần bà trông thấy các “ông cán bộ” cầm giấy ngược. Họ hông biết đọc. Hiệu Trưởng của trường bà dạy đã từng đọc nước I- Răng thành nước Một- Răng. Ai nấy ngồi nghe, cười bể bụng.
Hông hiểu ông nầy có đọc được hay hông? Bộ họ hông tính cho thăm nuôi? Vì bà đi ra đây là đi đại, chớ hông có giấy cho thăm nuôi của trại.
-Cái thằng Mỹ lai kia là con của bà?
– Dạ. Nó là con nuôi của tôi. Tôi nuôi nó từ hồi nhỏ.
– Bà nuôi làm gì thứ đồ con đế quốc đó. Tôi không cho nó thăm nuôi. Bà dẫn nó ra tuốt ngoài đường lộ, bỏ nó ngoài đó.
Bà Phùng Xuân ái ngại nhìn Ken. Biết hông thể năn nỉ được, bà nói nhỏ nhẹ với nó. Rồi dắt con đi.
Hông có giấy phép của trại. Cán bộ công an nói “nhờ sự khoan hồng của cách mạng” nên cho Xuân được gặp mặt vợ con. Nên thời gian thăm nuôi đâu có bao lâu. Chỉ vỏn vẹn có 20 phút, đủ để vợ chồng nói về cuộc sống gia đình. Hơn nữa người công an ngồi sát đầu bàn ghi ghi chép chép. Làm sao nói được cái gì? Xuân ôm hun hai đứa con gái, hỏi vài câu. Thằng Ken ngồi tuốt ngoài đường, liếc mắt nhìn vô, khóc thút tha thút thít. Xuân đưa tay vẫy vẫy, chào nó. Tội nghiệp, mấy năm nay rồi, hông thấy mặt con. Hổng biết Loan đi đâu mất rồi. Mà giờ nầy, nếu nàng có trở lại cũng hông biết đường đâu mà tìm.
– Anh làm cái gì đó? Liên lạc với thằng con đế quốc Mỹ của anh hả? Tôi tuyên bố lần sau anh không được thăm nuôi.
Phùng Xuân ngước nhìn người công an, hổng nói một lời. Mà thực ra Xuân cũng hông muốn vợ chàng thăm nuôi một lần nào nữa hết. Mỗi lần đi là các con phải nhịn ăn đủ thứ để cho ba. Xuân nhìn thấy những món đồ so ra ngày trước hông có gì đáng giá, nhưng lúc rày phải chạy đôn chạy đáo để kiếm tiềm mua những món đó. Thịt, cá… bây giờ là thứ xa xỉ. Ở ngoài chỉ ăn độn với khoai mì, khoai lang.
Đã hết giờ. Bà Phùng Xuân lui cui thu dọn những thứ gì cần đưa cho chồng, dồn nhét thành một bao nhỏ. Xong rồi đứng nhìn chồng lủi thủi đi vô trại.
Con đường về ga LaHai hun hút nắng trưa. Gần hơn mấy năm trời nàng mới có dịp gặp lại người chồng thân yêu mà nàng ngỡ đã bị chết mất ở đâu rồi. Ngày 01 tháng 05 năm 1975, hông thấy chồng trở về. Nàng thấp tha thấp thỏm mong đợi từng giờ. Bặt tin tức. Bà nghĩ rằng chồng mình đã chết. Bà cùng người em gái đến từng xác người lính nằm khắp nơi trên đoạn đường xa lộ Sài Gòn- Biên Hoà. Hy vọng được thấy mặt chồng, nhưng hông có. Chết mất xác ở nơi nào? Làm sao biết được. Bà hông nghĩ những người đồng đội của chồng cũng còn sống.Nhưng mấy hôm sau, nàng được tin chồng bị bắt. Và rồi, hông biết ở đâu?
Cho đến khi được thư chồng, nàng vui mừng. Hông ngại đường sá xa xôi và đường đi nước bước như thế nào, nàng liều mình đi để thăm chồng. Đâu ngờ đường đi gian nan như thế nầy. Nàng lại còn cả gan dẫn ba đứa con nhỏ theo.
Đầu tiên, xin giấy nghỉ phép của nhà trường để đi thăm nuôi chồng. Sau đó, cầm giấy nghỉ phép và hộ khẩu đem ra phường để xin giấy chứng nhận đi đường, đồng thời xin phường yêu cầu trại cho được thăm nuôi. Rồi tiếp đến, đứng chờ chực để mua được vé xe lửa đi Nha Trang đến Chí Thạnh-La Hai. Mấy mẹ con ngủ vật vờ vật vưởng trên xe lửa, bo bo giữ mấy giỏ đồ ăn sợ bị mất. Sau năm 1975, xe lửa chạy tuyến đường Bắc Nam đông nghẹt người đi nên trộm cắp lộng hành hông ai kiểm soát nổi.
Nàng cố gắng đi để được gặp chồng vì hông hiểu chừng nào chồng về. Nàng nghe người ta nói là khi nào “học tập tốt” thì được về. Mà biết thế nào là “học tập tốt”. Phùng Xuân cũng hông thể nói cho nàng chừng nào học tập tốt. Thời gian là bao lâu? Năm năm, mười năm, mười lăm năm ai mà biết được? Nhưng từ cuối năm 1981, 82 có một số người được thả về. Có người được về thì thế nào lần lượt cũng đến phiên mình. Có biến chuyển thì làm gì mà hông có thay đổi?