← Quay lại trang sách

Chương 5

Vì việc tôi đã làm với Chúa ở sân sau nhà bà tôi mà bà tôi không thèm nói với mẹ tôi nữa. Mẹ tôi không nói với bác Aggie, cũng không nói với anh trai Tom của mẹ. Bố tôi không nói với ai trong gia đình nhà mẹ và tất cả họ không nói với bố tôi bởi vì bố tôi là người miền Bắc và là người có tính khí kỳ quặc. Không ai nói với bác Jane, vợ của bác Tom, bởi vì bác ấy là người Galway và vì bác ấy có dáng vẻ của một người Tây Ban Nha. Tất cả đều nói với bác Pat, bởi vì bác ấy bị tật ở đầu, vì bác ấy đơn giản, và vì bác ấy bán báo. Mọi người gọi bác ấy là Abbot hoặc Ab Sheehan và không ai biết tại sao người ta lại gọi bác ấy như vậy. Tất cả mọi người đều nói với bác Pa Keating bởi vì bác ấy bị nhiễm khí gas trong chiến tranh và đã lấy bác Aggie và nếu mọi người không nói chuyện với bác ấy thì bác ấy cũng cóc thèm đánh một cái rắm đó là lý do tại sao những người đàn ông ở quán South gọi bác ấy là ông khí gas.

Tôi thích mình cũng như vậy, một ông khí gas, cóc thèm đánh một cái rắm cua, và đó là những gì tôi nói với thiên thần trên bậc thang thứ bảy cho đến khi tôi nhớ ra rằng không ai lại nói đến rắm rít trước sự có mặt của một thiên thần.

Bác Tom và bác Jane có con cái nhưng bố mẹ của chúng tôi không nói với những đứa trẻ đó nên chúng tôi không được phép nói với họ. Hai bác ấy có một con trai và một con gái, Gerry và Peggy, và nếu mẹ tôi bắt gặp chúng tôi nói chuyện với họ thì mẹ tôi lại la mắng nhưng chúng tôi không biết làm thế nào để không nói chuyện với họ.

Những người sống trong các ngõ ở Limerick có các kiểu không nói với nhau rất đa dạng và bạn phải mất nhiều năm mới quen được với các kiểu đó. Có những người không nói chuyện với nhau bởi vì trong thời kỳ xảy ra cuộc nội chiến năm 1922 cha của họ ở hai phe đối đầu. Nếu một người đàn ông tham gia quân đội Anh thì gia đình của anh ta có khi phải chuyển đến sống ở một khu khác của Limerick nơi có những gia đình có người đi lính cho Anh. Nếu người nào trong gia đình bạn có quan hệ với người Anh trong khoảng thời gian tám trăm nàm trở về đây thì chuyện đó sẽ được moi ra ném vào mặt bạn thường xuyên và bạn có thể phải chuyển đến Dublin noi chẳng có ai thèm quan tâm đến chuyện đó hết.

Trong ngõ nào cũng có người nào đó không nói chuyên với một người nào đó hoặc mọi người không nói chuyện với một người nào đó hoặc một người nào đó không nói chuyện với mọi người. Nhìn cách người ta đi qua nhau là bạn có thể biết họ không nói chuyện với nhau. Đàn bà thì hếch mũi lên, bặm môi lại và ngoảnh mặt đi chỗ khác. Nếu người đàn bà nào đang mang khăn trùm đầu thì bà ta sẽ rẽ vào một góc và giật khăn xuống vai như thể muốn nói: “Cứ thử nhìn hay thử nói một lời xem, đồ chó cái, ta sẽ xé cái bộ mặt của mi ra”.

Thật tệ khi bà tôi không thèm nói với chúng tôi bởi vì chúng tôi không thể chạy đến nhà bà mỗi khi chúng tôi muốn vay đường, trà, hay sữa. Đến nhà bác Aggie thì chẳng nước non gì. Bác ấy sẽ cấu đứt đầu bạn. Bác ấy sẽ rít lên: “Biến ngay, và bảo bố mày hãy nhúc nhích cái mông miền bắc và hãy kiếm việc gì đó mà làm như những người đàn ông ở Limerick”.

Người ta nói bác Aggie luôn bực tức bởi vì tóc bác ấy đỏ và người ta cũng nói rằng tóc bác ấy đỏ bởi vì bác ấy hay bực tức.

Mẹ tôi thân với cô Bridey Hannon, một cô gái chưa chồng sống với bố mẹ ở nhà bên. Mẹ tôi và cô Bridey lúc nào cũng có thể ngồi nói chuyện với nhau được. Hễ bố tôi ra ngoài đi dạo thì cô Bridey lại sang nhà tôi và cô ấy với mẹ tôi lại ngồi bên bếp uống trà và hút thuốc. Nếu nhà tôi không còn gì thì cô ấy mang trà, đường và sữa sang. Đôi khi họ pha đi pha lại một ấm trà và những lúc như thế mẹ tôi hay kêu trà nồng và nhạt quá.

Mẹ tôi và cô Bridey ngồi sát bếp quá đến nỗi cẳng chân họ đỏ lên rồi chuyển sang tía và xanh. Họ nói chuyện hàng giờ, họ thầm thầm thì thì và cười trước những chuyện bí mật. Chúng tôi không được phép nghe những chuyện bí mật vì thế họ hay bảo chúng tôi ra ngoài chơi để họ nói chuyện. Tôi thường ngồi trên bậc thang thứ bảy nghe trộm họ và họ không phát hiện ra. Dù ở bên ngoài trời đang mưa đi nữa mẹ tôi vẫn bắt chúng tôi phải đi chơi và mẹ còn giao cho chúng tôi nhiệm vụ canh phòng bố tôi. Mẹ tôi bảo: “Nếu nhìn thấy bố về thì chạy nhanh về báo cho mẹ”. Mẹ tôi nói với cô Bridey:

-Cô đã bao giờ nghe bài thơ ai đó chắc là làm về tôi và anh ấy chưa?

-Bài thơ nào kia, chị Angela?

-Bài thơ Người đàn ông miền Bắc ấy. Minnie MacAdorey ở Mỹ đã đọc cho tôi nghe bài thơ đó.

- Tôi chưa bao giờ nghe bài thơ đó. Đọc cho tôi nghe đi. Mẹ tôi đọc bài thơ đó nhưng bà cười suốt và tôi không hiểu tại sao bà lại cười như thế,

Anh đến từ miền Bắc nên anh không nói nhiều

Nhưng giọng anh ấm áp và trái tim anh chân thành.

Nhìn vào mắt anh tôi biết anh không hề dối trá,

Nên tôi cưới người đàn ông miền Bắc tôi yêu.

Ôi, Garryowen có thể vui tươi hơn

Người đàn ông trầm lặng đến từ Vịnh Neagh

Và tôi biết rằng mặt trời kia tỏa nắng

Xuống dòng sông chảy qua phố nhà tôi.

Và tôi nói với niềm vui và ngập tràn kiêu hãnh

Rằng không có người đàn ông nào tuyệt hơn

trên khắp Munster

và cả Limerick này chẳng có con tim nào hạnh phúc được

như con tim tôi ở bên người dàn ông miền Bắc.

Tôi ước rằng người Limerick này chỉ biết

Chúng tôi là hàng xóm tốt bụng thế thôi.

Sẽ không có hận thù và khinh thường nhỏ mọn

Giữa hai miền Nam, Bắc nước tôi.

Mẹ tôi luôn đọc lại khổ thơ thứ ba và cười đến nỗi giàn giụa cả nước mắt và tôi không hiểu tại sao. Mẹ tôi như phát cuồng khi đọc,

Và cả Limerick này chẳng có con tim nào hạnh phúc được như con tim tôi ở bên người đàn ông miền Bắc.

Nếu người đàn ông miền Bắc của mẹ tôi đi dạo về sớm mà thấy cô Bridey ở trong bếp nhà tôi thì thế nào người đàn ông ấy cũng nói: “Lại ngồi lê, ngồi lê, ngồi lê” và đội nguyên mũ đứng đó cho đến khi cô Bridey phải chuồn.

Mẹ của cô Bridey và những người sống trong ngõ của chúng tôi và các ngõ lân cận thỉnh thoảng lại đến nhờ bố tôi viết một bức thư để gửi lên chính quyền hoặc gửi cho người thân ở xa. Bố tôi ngồi ở bàn với cây bút và lọ mực và khi người ta bảo ông viết nguyên văn như họ nói ông lắc đầu: “O, không, đó đâu phải những gì bà muốn nói” và ông lẳng lặng viết theo ý mình. Người ta bảo ông rằng đó đích thị là những gì lúc đầu người ta muốn nói, rằng ông có cách diễn đạt bằng tiếng Anh rất hay và rằng ông viết chữ rất đẹp. Họ đưa cho ông sáu xu để bồi dưỡng cho công sức ông bỏ ra nhưng ông xua tay không nhận và thế là người ta đưa tiền cho mẹ tôi bởi vì bố tôi quá cao thượng không cầm sáu xu. Khi người ta về rồi bố tôi mới cầm tiền đưa cho tôi đi mua thuốc lá ở cửa hàng Kathleen O’Connell.

Bà tôi ngủ ở chiếc giường to trên gác và phía trên đầu giường của bà có treo một bức tranh Trái tim thiêng của Jésus còn trên bệ lò sưởi ở phòng bà thì có đặt một bức tượng Trái tim thiêng của Jésus. Bà tôi muốn chuyển từ dùng khí gas sang dùng điện để bà có thể để một ngọn điện đỏ dưới bức tượng suốt ngày đêm. Lòng sùng bái Trái tim thiêng của bà đã được đồn khắp trong ngõ đó và các ngõ xung quanh.

Bác Pat ngủ ở một chiếc giường nhỏ được kê ngay trong góc phòng ấy để bà tôi tiện theo dõi giờ đi về và việc cầu nguyện hàng ngày của bác ấy. Bác ấy có thể bị tật ở đầu, bác ấy có thể không biết đọc biết viết, bác ấy có thể uống quá chén, nhưng bác ấy không thể quên cầu nguyện trước khi đi ngủ.

Bác Pat nói với bà tôi rằng có một người đàn ông đang tìm một chỗ ở để hàng ngày ông ta có thể tắm rửa và có hai bữa ăn, bữa trưa và bữa trà. Tên ông ta là Bill Galvin và ông ta có một công việc ổn định ở lò nung vôi. Người ông ta phủ đầy bụi vôi trắng xóa nhưng chắc chắn như thế còn tốt hơn là bụi than.

Bà tôi sẽ phải nhường giường to cho ông ta và như thế bà sẽ phải chuyển vào ngủ trong phòng nhỏ. Bà tôi mang theo bức tranh Trái tim thiêng của Jésus vào trong đó và để bức tượng ở lại để theo dõi hai người đàn ông. Hơn nữa, trong phòng nhỏ không có chỗ cho bà tôi đặt bức tượng.

Bill Galvin đến xem chỗ ở. Ông ta là một người đàn ông bé nhỏ, người trắng xóa vì bụi vôi, và ông ta khụt khịt liên tục như một con chó. Ông ta đề nghị bà tôi chuyển bức tượng đi chỗ khác bởi ông ta là người theo đạo Tin lành và bởi vì ông ta sẽ bị mất ngủ vì nó. Bà tôi la mắng bác Pat vì bác ấy đã không nói trước là sẽ rước về nhà một người theo đạo Tin lành. Bà tôi than vãn: “Chúa ơi, rồi người trong ngõ sẽ thi nhau mà đồn đại”.

Bác Pat nói rằng bác ấy không biết Bill Galvin là người theo đạo Tin lành. Bạn mà chỉ nhìn ông ta thôi đặc biệt khi ông ta bị bụi vôi bám trắng cả người thì bạn không thể biết ông ta là người theo đạo Tin lành. Ông ấy trông giống như một người Thiên Chúa giáo bình thường vả lại bạn chẳng tưởng tượng nổi một người theo đạo Tin lành lại đi làm ở lò nung vôi.

Bill Galvin nói rằng người vợ tội nghiệp vừa mới qua đời của ông ta là một tín đồ Thiên Chúa giáo và rằng khi còn sống bà ấy treo những bức tranh Trái tim thiêng của Jésus và tranh Đức Mẹ Maria quanh tường nhà. Bản thân ông ta không có gì để phản đối Trái tim thiêng của Jésus hết, chỉ có điều bức tượng sẽ làm ông ta nghĩ tới người vợ tội nghiệp của óng ta và điểu đó khiến ông ta đau buồn.

Bà tôi nói: “Ôi, xin Chúa hãy cứu giúp chúng con, tại sao anh không kể cho tôi nghe ngay từ đầu hả? Tôi sẽ chuyển bức tượng xuống bậu cửa sổ ở phòng tôi và anh sẽ không đau lòng vì phải nhìn thấy nó nữa”.

Sáng sáng bà tôi nấu bữa trưa cho cho ông Bill và mang tới lò nung vôi cho ông ta. Mẹ tôi thắc mắc tại sao lúc đi làm ông ấy không mang bữa trưa theo mà phải bắt tội bà tôi như thế và bà tôi nói:

-Chị tưởng mẹ chị sẽ dậy từ tờ mờ nấu nướng cho ông lớn ấy rồi xếp thức ăn vào hộp cho ông lớn ấy mang đi sao?

Mẹ tôi gợi ý:

-Một tuần nữa là Frank được nghỉ học và nếu mỗi tuần mẹ cho nó sáu xu thì nó sẽ vui vẻ mang bữa trưa cho ông ấy.

Tôi không muốn ngày nào cũng phải đến nhà bà tôi. Tôi không muốn mang bữa trưa đến tận đường Dock cho Bill Galvin, nhưng mẹ tôi nói rằng chúng tôi sẽ kiếm được những sáu xu và nếu tôi không chịu làm thì tôi sẽ chẳng được đi đâu hết.

Mẹ tôi nói: “Mày sẽ phải ở trong nhà. Mày sẽ không được đi chơi với bạn”.

Bà tôi cảnh cáo tôi phải đưa bữa trưa cho ông Bill đến nơi đến chốn và không được lang thang, không được nhìn chỗ này chỗ kia, không được đá vỏ hộp làm mũi giày chóng hỏng. Bữa trưa còn nóng hôi hổi và đó chính là điều Bill Galvin muốn.

Một mùi thơm rất hấp dẫn tỏa ra từ hộp thức ăn, thịt lợn muối xông khói, bắp cải, hai củ khoai tây tẩm bột trắng to tướng. Chắc chắn nếu tôi có nếm một nửa củ khoai tây thì ông ta cũng chẳng để ý. Ông ta sẽ không phàn nàn với bà tôi đâu bởi vì ông ấy chỉ khịt mũi thôi có nói chuyện đâu.

Sẽ khôn ngoan hơn nếu tôi ăn nốt nửa củ khoai để ông ấy khỏi thắc mắc tại sao ông ấy lại thấy một nửa củ. Tôi cũng có thể nếm thử thịt xông khói và bắp cải và nếu tôi ăn cả củ khoai còn lại thì ông ta sẽ nghĩ là bà tôi không gửi cho ông ấy món khoai.

Củ khoai thứ hai tan trong miệng tôi và tôi sẽ phải nếm thử một ít bắp cải, và tiện đấy nếm thử luôn một ít thịt muối xông khói. Bây giờ thì chẳng còn gì nhiều và ông ấy thế nào cũng nghi ngờ vậy nên tôi chén tất.

Tôi phải làm gì bây giờ? Bà tôi sẽ giết tôi mất, mẹ tôi sẽ câm tôi ra ngoài trong một năm. Bill Galvin sẽ chôn tôi trong lò nung vôi. Tôi sẽ nói với ông ấy rằng tôi bị một con chó ở đường Dock tấn công và cướp sạch bữa trưa của ông ấy và tôi may mắn lắm mới không bị nó xơi tái.

Bill Galvin trợn mắt nhìn tôi:

- Vậy sao? Thế mẩu bắp cải nào dính trên áo mày thế kia hả? Cái mõm ngu đần của con chó đó đã liếm mày chăng? Đi về nhà bảo bà mày rằng mày đã ăn bữa trưa của tao làm tao đói muốn nhũn người ra ở lò vôi.

-Bà cháu sẽ giết cháu mất.

-Bảo bà mày đừng có giết mày vội mà hãy gửi chút gì cho tao ăn cái đã và nếu mày không khẩn trương mang bữa trưa đến cho tao thì tao sẽ giết mày và ném mày vào lò nung vôi và như thế sẽ chẳng còn gì nhiều để mẹ mày than khóc đâu con ạ.

Bà tôi nói:

-Sao mày lại mang cái hộp về? Gã đó tự mang về được cơ mà?

-Ông ấy muốn lấy thêm thức ăn.

-Thế nghĩa là sao? Lạy Chúa, chân gã đó có một cái hố à?

-Ông ấy đang nhũn người ra vì đói ở ngoài lò vôi.

-Mày đang giỡn tao chắc?

-Ông ấy bảo bà gửi cho ông ấy chút gì ăn.

-Tao không gửi. Tao vừa mới gửi bữa trưa cho gã rồi.

-Ông ấy không nhận được.

-Không ư? Tại sao không?

-Cháu đã ăn mất rồi.

-Gì?

-Cháu đói quá nên cháu đã nếm thử và cháu không nhịn được.

-Lạy Chúa, lạy Maria, lạy thánh Joseph.

Bà tôi tát vào đầu tôi một cái khiến tôi phát khóc. Bà tôi gầm lên như một nữ thần báo tử và vừa nhảy tanh tách trong bếp vừa dọa lôi tôi đến linh mục, đến giám mục, đến Giáo hoàng. Bà tôi cắt bánh mì, làm sandwich và khoai tây và dứ dứ con dao về phía tôi:

- Mang những cái sandwich này tới cho Bill Galvin và nếu mày liếc chúng một cái thôi thì bà sẽ lột da mày ra.

Dĩ nhiên là bà tôi chạy đến gặp mẹ tôi và họ đồng ý với nhau rằng cách duy nhất để tôi có thể chuộc lại tội tày đình của mình là đưa bữa trưa không công cho Bill Galvin trong nửa tháng. Trong thời gian đó ngày nào tôi cũng phải đợi để mang hộp đựng thức ăn về và như thế có nghĩa là tôi phải ngồi nhìn ông ta tống thức ăn vào cái miệng rộng của ông ta còn ông ta thì lại không phải là loại người biết hỏi bạn có một cái miệng ở trên mặt hay không.

Ngày nào tôi mang hộp đựng thức ăn về bà tôi cũng bắt tôi quì trước bức tượng Trái tim thiêng của Jésus để ăn năn.

Mẹ tôi nói: “Mẹ là một người tử vì thuốc lá và bố của chúng mày cũng vậy”.

Nhà chúng tôi có thể thiếu trà và bánh mì nhưng bố mẹ tôi luôn xoay xở để có được thuốc lá, những điếu thuốc Wild Woodbine. Sáng ra và bất cứ lúc nào họ uống trà họ nhất quyết phải hút thuốc. Ngày nào họ cũng bảo chúng tôi rằng chúng tôi không bao giờ được hút thuốc, rằng hút thuốc hại phổi, rằng hút thuốc không có lợi cho tim, rằng hút thuốc làm bạn chậm lớn, còn họ thì cứ ngồi bên bếp phì phèo. Mẹ tôi nói: “Nếu mẹ mà nhìn thấy mày hút thuốc thì mẹ đập vỡ mặt mày ra”. Họ nói rằng thuốc lá làm sâu răng của bạn và bạn có thể thấy là họ nói không sai. Răng của họ đều đã ố đen và thỉnh thoảng người này hoặc người kia lại phải chia tay với một cái răng của mình. Bố tôi bảo rằng ở chân răng của bố tôi có những lỗ hổng lớn đến nỗi đủ cho một con chim sẻ và cả gia đình của nó trú ngụ. Bố tôi còn mấy cái răng chưa rụng nhưng bố lại đến bệnh viện nhổ tiệt đi để cắm cả một bộ răng giả. Khi bố tôi về nhà với hàm răng giả bố tôi cười để khoe những cái răng trắng mới khiến bố trông giống một người Mỹ và mỗi khi kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện ma bố tôi lại dùng răng hàm dưới cắn lên môi trên để minh họa cho câu chuyện thêm phần rùng rợn. Răng của mẹ tôi tồi đến nỗi mẹ tôi phải đi đến bệnh viện Barrington để nhổ tuột tất cả răng đi cùng một lúc và khi mẹ tôi trở về mẹ tôi phải lấy giẻ bịt miệng để máu khỏi chảy. Mẹ tôi phải ngồi cả đêm bởi vì bạn không thể nằm khi lợi của bạn chảy máu nếu không bạn sẽ bị tắc thở trong lúc ngủ. Mẹ tôi nói khi nào lợi của mẹ tôi ngừng chảy máu mẹ tôi sẽ bỏ thuốc hoàn toàn nhưng lúc lợi đang có vấn đề thế này thì mẹ cần hút thuốc để quên đau. Mẹ tôi sai Malachy ra cửa hàng Kathleen O’Connell mua chịu năm điếu thuốc Woodbin. Nếu ai đó có thể mang được thuốc lá ra khỏi cửa hàng của Kathleen thì người đó là Malachy. Mẹ tôi nói rằng nó dễ thương còn tôi với cái mồm rộng và bố tôi với tính khí kỳ quặc có đi cũng chẳng được việc.

Khi lợi của mẹ tôi ngừng chảy máu và lành lại mẹ tôi đến bệnh viện để cắm răng giả. Mẹ tôi bảo rằng khi nào hàm răng mới yên vị trong lợi thì mẹ tôi sẽ bỏ thuốc nhưng mẹ tôi chẳng bao giờ thực hiện được. Những chiếc răng giả cọ vào lợi của mẹ tôi làm lợi sưng đau và những điếu thuốc Woodbin giúp mẹ tôi bớt khó chịu hơn. Hễ bố mẹ tôi có một hoặc hai điếu thuốc thì họ lại ngồi bên bếp hút với nhau và khi họ nói chuyện răng của họ phát ra những tiếng lách cách. Họ cố ngăn những tiếng lách cách ấy bằng cách cử động hàm tới lui nhưng làm như thế chỉ khiến cho tình hình trở nên tồi tệ hơn mà thôi và họ nguyền rủa các nha sĩ và những người làm răng giả ở Dublin và trong khi họ rủa người ta răng của họ vẫn không ngừng phát ra những tiếng lách cách. Bố tôi bảo rằng những chiếc răng đó là răng dành cho những người giàu ở Dublin và họ lắp không vừa nên thải ra cho những người nghèo ở Limerick những người chẳng quan tâm đến chuyện vừa hay không bởi khi bạn nghèo thì bạn làm gì có nhiều thứ để mà nhai và bạn nên biết ơn vì dù sao trong mồm bạn vẫn còn có răng. Nếu họ nói quá nhiều thì lợi của họ sưng đau và răng của họ rơi ra. Những lúc như thế họ ngồi bên bếp nói chuyện với vẻ mặt nhăn nhó. Đêm nào họ cũng tháo răng cho vào lọ ngâm nước. Malachy hỏi tại sao họ phải làm vậy và bố tôi giải thích rằng răng giả cần phải được rửa sạch. Mẹ tôi nói: “Không, ai lại để răng giả trong mồm mà đi ngủ bởi vì nhỡ đâu răng rơi ra làm anh ngạt không thở được là chết luôn”.

Những cái răng giả là nguyên nhân khiến Malachy phải đến bệnh viện Barrington và khiến tôi phải trải qua một cuộc phẫu thuật. Nửa đêm Malachy thì thầm vào tai tôi: “Anh với em đi xuống dưới thử cắm răng, đồng ý không?”.

Những cái răng giả to đến nỗi chúng tôi không thể đưa chúng vào miệng mình được nhưng Malachy không chịu bỏ cuộc. Nó cố nhét răng giả hàm trên của bố tôi vào miệng và nó không tài nào lôi hàm răng đó ra được. Môi của nó bị kéo vào phía trong và hàm răng giả tạo ra trên khuôn mật nó một nụ cười xếch đến tận mãng tai. Trông nó chẳng khác gì một con quái vật trong một bộ phim và nhìn nó tôi buồn cười không tả nổi còn nó thì vừa ra sức giật hàm răng giả ra vừa rên “úc, úc” và nó bắt đầu khóc. Nó càng úc, úc tôi càng cười cho tới khi bố tôi gọi từ trên gác: “Các con làm gì thế hả?” Malachy chạy lên gác và tôi nghe thấy tiếng bố mẹ tôi cười và họ chỉ thôi cười khi nhận ra Malachy khó thở. Họ luồn ngón tay vào miệng Malachy để lôi hàm răng giả ra nhưng Malachy quá hoảng sợ cứ liên tục phát ra những tiếng úc úc. Mẹ tôi bảo phải đưa nó đi viện và bố tôi bảo bố tôi sẽ đưa nó đi. Bố tôi bắt tôi đi cùng phòng khi bác sĩ bắt kể lại sự việc bởi vì tôi lớn hơn và thế có nghĩa là chính tôi đã đầu têu. Bố tôi vác Malachy chạy qua các phố còn tôi thì cố sức chạy theo. Trông Malachy nằm trên vai bố, nhìn lại tôi với đôi má đẫm nước mắt và cái miệng đầy răng tôi thấy tội cho nó quá. Bác sĩ ở bệnh viện Barrington bảo bố con tôi đừng lo. Ông ấy đổ dầu vào miệng Malachy và chỉ trong một phút đã lấy được hàm răng giả ra. Xong việc ông ấy nhìn tôi và nói với bố tôi:

-Tại sao thằng bé này cứ đứng há mồm ra mãi thế?

Bố tôi nói:

-Nó toàn thế, miệng cứ há suốt.

Bác sĩ bảo tôi đến gần ông ấy. Ông ấy nhìn mũi tôi, nhìn tai tôi, nhìn họng tôi, và sờ cổ tôi.

Ông ấy nói:

-Amidan. Bị nấm vòm họng. Phải cắt những mụn nấm đi. Nếu không làm thế thì sau này thằng bé lớn lên trông sẽ giống như một người đần độn với cái mồm rộng cỡ bằng một cái giày.

Ngày hôm sau Malachy được chén một cái kẹo cứng to tướng còn tôi thì phải vào bệnh viện chịu phẫu thuật để cái miệng tôi không ngoác ra cỡ bằng cái giày.

Một sáng Chủ nhật mẹ tôi uống trà xong và nói:

-Con sẽ đi nhảy.

-Nhảy ư? tại sao?

-Con bảy tuổi rồi, con đã chịu lễ Ban thánh thể đầu tiên rồi, giờ đã đến lúc con phải học nhảy. Mẹ sẽ đưa con xuống phô Catherine để theo học lớp học nhảy của bà O’Conner. Cứ sáng thứ Bảy con phải đến đó học và như thế con không còn lang thang trên phố được nữa. Con sẽ không thể tòng đảng với lũ quậy phá xục xạo khắp Limerick nữa.

Mẹ tôi bắt tôi rửa mật sạch sẽ không được quên kỳ tai và cổ, chải đầu, xì mũi, bỏ cái bộ mặt kia đi, bộ mật nào mới được chứ? Đừng hỏi, cứ bỏ nó đi, đi tất và đi đôi giày của hôm nhận thánh thể đầu tiên vào, cái đôi giày mà như mẹ tôi nói đã bị phá tàn tệ bởi vì tôi có bao giờ đi qua một cái vỏ hộp hay một hòn đá mà không giơ chân đá một cái. Mẹ tôi mệt mỏi vì cứ phải đứng xếp hàng ở hội thánh Vincent de Paul xin giày cho tôi và Malachy để rồi chúng tôi bạ cái gì cũng đá làm giày chẳng mấy đã bục mũi. Bố tôi bảo rằng học những bài hát và những điệu nhảy của tổ tiên thì chẳng bao giờ là quá sớm cả.

-Tổ tiên nào ạ?

-Đừng hỏi, mày sẽ đi học nhảy.

Tôi không biết làm thế nào tôi có thể chết cho Ailen được nếu như tôi còn phải hát và nhảy cho Ailen nữa. Tôi không biết tại sao bố mẹ tôi chẳng bao giờ bảo rằng tôi có thể ăn kẹo, có thể ở nhà không phải đi học và có thể đi bơi cho Ailen.

Mẹ tôi nói: “Đừng giở trò nếu không mẹ sẽ hâm nóng tai mày lên đấy”. Và mẹ tôi hâm nóng tai tôi bằng một loạt thông tin về Cyril Brenson.

Cyril Benson là một vũ công. Từ vai đến đầu gối anh ta lủng lẳng toàn huy chương là huy chương. Anh ta đã dành chiến thắng trong tất cả các cuộc thi khiêu vũ trên khắp Ailen và trông anh ta rất đáng yêu trong chiếc váy truyền thống màu vàng nghệ. Anh ta là niềm tự hào của mẹ anh ta và lúc nào báo chí cũng đưa tin về anh ta và bạn có thể chắc rằng anh ta kiếm được tiền mang về nhà. Bạn không trông thấy anh ta đi lang thang khắp các phố đá cái này cái nọ cho đến khi ngón chân thò ra khỏi mũi giày, ồ, không, anh ta là một chàng trai tốt, đi nhảy vì người mẹ khốn khổ của anh ta.

Mẹ tôi giặt chiếc khăn mặt cũ và kỳ mặt tôi cho đến khi mật tôi đỏ lựng, mẹ tôi quấn một đầu khăn quanh ngón tay ngoáy tai cho tôi và càu nhàu rằng dái tai của tôi đủ để trồng khoai tây, mẹ tôi lấy nước vảy lên tóc tôi để cho tóc tôi đỡ dựng đứng, mẹ tôi quát tôi ngậm miệng lại không được kêu ca, rằng những bài học nhảy của tôi mỗi thứ Bảy nuốt mất của mẹ tôi sáu xu, số tiền mà đáng lẽ tôi đã kiếm được nếu tôi làm tốt việc đưa bữa trưa cho Bill Galvin và có Chúa biết mẹ tôi có thể trả được học phí học nhảy cho tôi hay không. Tôi cố nói với mẹ tôi: “Ôi, mẹ, mẹ không phải gửi con đến lớp học nhảy đâu, mẹ để tiền mà hút thuốc và uống trà còn hơn”, nhưng mẹ tôi nói: “Ô, mày chẳng khôn ngoan chút nào. Mày sẽ đi học nhảy cho dù mẹ phải bỏ thuốc vĩnh viễn”.

Máy hát trong lớp của bà O’Connor đang chơi một điệu jig hay một điệu reel gì đó và những đứa con trai con gái đang đá chân và giữ cánh tay ép sát bên sườn. Bà O’Connor là một phụ nữ béo ị và khi bà ấy dừng máy hát để hướng dẫn các bước nhảy thịt từ cằm đến gót chân bà ấy cứ núng na núng nính. Bà ấy đi đến chỗ mẹ tôi và nói:

-Vậy đây là chú nhỏ Frankie hả? Tôi nghĩ chúng tôi sẽ có một vũ công tương lai đây. Các cô các cậu, chúng ta sẽ có một vũ công tương lai đúng không?

-Đúng ạ, thưa bà O’Connor.

Mẹ tôi nói:

-Tôi có mang sáu xu, thưa bà O’Connor.

-Ô, được, bà McCourt, đợi một chút.

Bà ấy lạch bạch đi đến một cái bàn và mang trở lại một bức tượng khắc đầu một cậu bé da đen có mái tóc xoăn, đôi mắt to, đôi môi đỏ rất dày và một cái miệng há to. Bà ấy bảo tôi đặt sáu xu vào cái miệng há to đó và rút tay ra thật nhanh nếu không sẽ bị cắn. Đám con trai và con gái có mặt ở lớp học chăm chú nhìn tôi đặt tiền và đứa nào đứa nấy đều tủm tỉm cười. Tôi đặt sáu xu vào cái miệng há to và vội vàng rút tay ra ngay trước khi cái miệng đó bập xuống. Tất cả mọi người đều cười và tôi biết tất cả đều muốn nhìn thấy tay tôi bị mắc trong cái miệng đó. Mẹ tôi dặn tôi phải ngoan và phải chịu khó tập nhảy.

Tôi không muốn ở lại lớp học nhảy nơi bà O’Connor đã không tự cầm lấy sáu xu mà lại để tôi xuýt mất một bàn tay trong cái miệng há to ấy. Tôi không muốn ở lại chỗ này, đứng xếp hàng cùng những đứa con trai và con gái lạ hoắc, giữ thẳng lưng, khép cánh tay sát bên sườn, nhìn lên phía trước, không nhìn xuống, di chuyển bàn chân, di chuyển bàn chân, nhìn Cyril, nhìn Cyril, và Cyril di chuyển, bảnh bao trong chiếc váy màu nghệ và những tấm huân chương lúc lắc, những tấm huân chương dành được qua điệu nhảy này và đám con gái thích Cyric còn bà O’Connor thích Cyric vì anh ta mang lại danh tiếng cho bà ấy và chính bà ấy đã dậy anh ta từng bước nhảy, ôi, nhảy, Cyric, nhảy, Cyric, nhảy, ôi, Chúa ơi, anh ta lướt quanh phòng, anh ta là một thiên thần từ trên thiên đường và anh ta dừng lại cau có: “Frankie McCourt, nhảy đi, Frankie, nhảy đi, vì Chúa hãy nhấc chân lên nào, một hai ba bốn năm sáu bảy, một hai ba một hai ba, Maura, em giúp cậu Frankie này đi nếu không cậu ta sẽ tự trói hai chân lên đầu mất, giúp cậu ta đi, Maura”.

Maura là một đứa con gái mười tuổi to béo. Nó nhảy đến trước mặt tôi và cười khoe hàm răng trắng bóng và tôi chói mắt vì bộ váy được trang trí bằng những hoa văn màu vàng đậm và xanh lá cây sặc sỡ của nó và nó bảo tôi đưa tay ra và nó lái tôi quay quanh phòng cho đến khi tôi chóng mặt, đỏ mặt vì ngượng đến nỗi muốn khóc nhưng may sao đúng lúc đó tiếng nhạc đột nhiên lại dừng và máy hát phát ra những tiếng hoosh hoosh.

Bà O’Connor nói: “Ôi, cảm ơn, Maura, và tuần tới, Cyril, cậu hãy hướng dẫn Frankie vài điệu sở trường của cậu. Tuần tới, các cô cậu, tuần tới nhé, và đừng có quên mang sáu xu cho chú bé da đen đấy”.

Bọn con trai con gái ra về cùng nhau. Tôi một mình lủi thủi bước xuống những bậc thang đi ra cửa lòng thầm mong bạn bè tôi sẽ không nhìn thấy tôi sau đám con trai và đám con gái răng trắng mặc váy truyền thống.

Mẹ tôi đang uống trà với cô Bridey Hannon, người bạn bên hàng xóm của mẹ. Mẹ tôi hỏi tôi đã học được những gì ở lớp học nhảy và mẹ tôi bắt tôi nhảy quanh bếp. Mẹ tôi cười với cô Bridey. Mẹ tôi bảo tôi:

- Buổi đầu với con như thế là không tồi đâu. Một tháng nữa là con sẽ trở thành một Cyril Benson.

-Con không muốn thành Cyril Benson. Con muốn thành Fred Astaire.

Mẹ tôi và cô Bridey cười phá lên, cười rũ rượi, cười phì cả trà trong miệng họ ra, cô Bridey nói: “Chúa che chở cho thằng bé. Nó không biết mình là ai. Ôi, Fred Astaire”.

Mẹ tôi bảo rằng Fred Astair thứ Bảy nào cũng đi học nhảy và không đá lung tung làm giày chóng hỏng và nếu tôi muốn giống như cậu ta thì tuần nào tôi cũng phải đến lớp học của bà O’Connor.

Buổi sáng thứ Bảy thứ tư Bill Campell gõ cửa nhà tôi và gọi to:

-Bác McCourt ơi, bác cho Frankie đi chơi với chúng cháu được không ạ?

Mẹ tôi trả lời:

-Không được đâu, Billy. Frankie còn phải đi học nhảy.

Billy đợi tôi ở chân Đồi Barrack. Cậu ta hỏi rằng tại sao tôi lại học nhảy, rằng ai cũng biết nhảy là một việc ẻo lả và rằng tôi rồi sẽ giống như Cyril mặc váy đeo huy chương nhảy với bọn con gái. Cậu ta nói rồi sau nữa tôi sẽ ngồi chết dí ở trong xó bếp đan tất. Cậu ta bảo việc đi nhảy sẽ làm tôi hỏng hẳn và tôi sẽ không còn thích hợp với bất cứ trò chơi bóng nào, bóng đá, bóng bầu dục, bóng Gaelic bởi vì việc nhảy sẽ làm tôi chạy như một đứa ẻo lả và tôi sẽ chỉ làm mọi người buồn cười mà thôi.

Tôi nói với cậu ta rằng tôi không đi nhảy nữa, rằng trong túi áo tôi có sáu xu cho cái miệng há to của thằng bé da đen, rằng thay vì mang tiền đút vào cái miệng đáng ghét đó tôi sẽ đi xem phim ở rạp Lyric. Chúng tôi sẽ mua vé vào đàng hoàng và sẽ còn thừa hai xu để mua kẹo Cleeves, và thế là chúng tôi có một buổi sáng thú vị với bộ phim Riders of the Purple Sage.

Bố tôi đang ngồi bên bếp cùng với mẹ tôi và họ hỏi tôi đã học được điệu nhảy nào mới. Tôi đã học điệu Sự bao vây của Ennis và điệu Những bức tường Limerick. Giờ tôi phải bịa ra những cái tên và những bước nhảy. Mẹ tôi bảo mẹ tôi chưa nghe thấy điệu nhảy nào có tên là Sự bao vây của Dingle nhưng nếu đó là điệu tôi đã học được thì mẹ tôi chẳng thắc mắc mà làm gì và mẹ tôi bảo tôi nhảy và tôi nhảy quanh bếp với hai tay khép bên sườn và tự bắt điệu cho mình, bố tôi và mẹ tôi vỗ tay theo nhịp chân của tôi. Bố tôi nói: “Điệu này hay đấy, con trai của bố sẽ trở thành một vũ công có triển vọng chứ chẳng chơi và sẽ là niềm tự hào của những người đàn ông đã chết cho đất nước. Mẹ tôi cằn nhằn: “Sáu xu mà chỉ được có thế”.

Tuần sau đó là bộ phim của George Raft và tuần sau nữa là một bộ phim cao bồi có George O’Brien thủ vai. Sau đó nữa là phim do James Cagney đóng và tôi không thể bao Billy bởi vì cùng với kẹo Cleeves tôi còn muốn có một thanh sôcôla và tôi đang rung đùi ngồi xem phim và nhai kẹo thì đột nhiên hàm tôi đau cứng và nguyên nhân là do một chiếc răng của tôi đã vĩnh biệt lợi để theo cái kẹo cứng tôi đang nhai và tôi đau muốn chết. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể bỏ phí chiếc kẹo đang ăn dở vì thế tôi lôi chiếc răng ra đút vào trong túi áo và tiếp tục nhai kẹo bằng bên hàm không đau. Cái đau ở một bên hàm còn cái kẹo thơm ngon thì ở hàm bên kia và tôi nhớ bác Pa Keating đã nói rằng có những lúc bạn không biết mình có nên đi “giải quyết nỗi buồn” hay là không.

Tôi phải về nhà và tôi lo bởi vì bạn không thể đi loanh quanh trong cái thế giới này thiếu một cái răng mà mẹ bạn lại không biết. Các bà mẹ biết tất cả và mẹ tôi thì luôn nhìn vào miệng chúng tôi để kiểm tra xem chúng tôi có nhiễm bệnh gì không. Mẹ tôi ngồi bên bếp và bố tôi cũng ở đó và họ hỏi tôi những câu hỏi cũ rích, các điệu nhảy và tên của chúng. Tôi nói với họ là tôi đã học được một điệu có tên là Những bức tường ở Cork và tôi nhảy quanh bếp cố ngậm miệng ngân nga một điệu nhạc do tôi tự bịa ra trong khi tôi đau răng muốn chết. Mẹ tôi bảo không có điệu nhảy nào như thế, còn bố tôi ra lệnh: “Đến đây. Đứng trước mặt bố đây. Nói thật đi, hôm nay con có đến lớp học nhảy không hả?”.

Tôi không thể nói dối được bởi vì lợi tôi đau quá và miệng tôi thì có máu. Hơn nữa, tôi biết họ đã biết tất cả rồi và giờ họ thông báo cho tôi tin buồn đó. Một đứa con trai rỗi hơi nào đó ở lớp học nhảy đã nhìn thấy tôi đi vào rạp Lyric và đã về tâu hớt với bà O’Connor và bà ấy đã gửi giấy đến nhà tôi nói rằng lâu lắm rồi bà ấy không thấy tôi ló mặt đến lớp học nhảy và rằng như thế thật đáng tiếc bởi vì tôi rất có triển vọng và có thể nối gót Cyril Benson xuất chúng.

Bố tôi không quan tâm đến răng lợi của tôi hay bất cứ gì khác. Bố tôi bắt tôi phải đi xưng tội và thế là ông lôi tôi đến nhà thờ dòng Cứu Thế bởi vì vào ngày thứ Bảy người ta có thể xưng tội bất cứ lúc nào. Bố tôi mắng tôi là một đứa hư đốn, rằng bố tôi xấu hổ vì tôi đã dán mắt vào phim ảnh mà không học những điệu nhảy truyền thống của Ailen, điệu jig, điệu reel, những điệu nhảy mà biết bao nhiêu đàn ông và đàn bà Ailen đã đấu tranh và hy sinh mạng sống của mình để giữ gìn trong suốt những thế kỷ buồn thảm. Bố tôi nói rằng rất nhiều thanh niên trẻ đã bị treo cổ giờ đây nằm chồng chất trong các hố chôn người sẽ vui mừng biết bao nếu được sống lại để nhảy một điệu nhảy Ailen.

Linh mục ở nhà thờ Công giáo rất già và tôi phải hét to những tội lỗi của tôi lên ông ấy mới nghe được và ông ấy bảo tôi là đồ du côn không đi học nhảy mà lại đi xem phim mặc dầu chính bản thân ông ấy nghĩ rằng nhảy cũng là một thứ nguy hiểm gần tệ như phim vậy, rằng thứ đó khuấy động những ý nghĩ tội lỗi trong con người, nhưng cho dù nó có là một thứ đáng ghê tởm hay không thì tôi vẫn cứ mang tội lấy trộm sáu xu của mẹ tôi và tội nói dối, ở dưới địa ngục có một chỗ rất nóng dành cho những loại người như tôi, rằng tôi phải đọc kinh rôze đúng mười ngày và phải xin Chúa xá tội cho tôi bởi tôi đang nhảy trước cổng địa ngục.

Tôi lên bảy, lên tám, lên chín sắp sửa lên mười và bố tôi vẫn thất nghiệp. Hàng ngày bố tôi uống trà và đến Trung tâm Lao động ký tên vào danh sách những người thất nghiệp, đọc báo ở thư viện Camegie, đi bộ ra ngoại ô một lúc lâu. Nếu bố tôi xin được việc làm ở còng ty ximăng Limerick hay nhà máy bột của Rank thì chỉ trong ba tuần bố tôi lại để mất việc. Bố tôi để mất việc bởi vì bố tôi luôn đi quán vào ngày thứ Sáu thứ ba tính từ khi bố tôi đi làm, uống hết tất cả tiền lương và lỡ mất buổi làm việc sáng thứ Bảy.

Mẹ tôi than thở: “Tại sao bố chúng mày không thể giống như những người đàn ông trong các ngõ ở Limerick cơ chứ? Họ về nhà trước khi chuông nhà thờ điểm sáu giờ, họ đưa lương cho vợ, thay áo, uống trà, bảo vợ họ đưa cho mấy shilling và đi quán uống một hoặc hai vại là cùng”.

Mẹ tôi bảo với cô Bridey rằng bây giờ bò tôi không thể giống như họ được và sau này cũng sẽ không thể. Mẹ tôi nói rằng bố tôi đúng là một kẻ ngốc cứ đi ra quán và cụng ly với những người đàn ông khác trong khi để con cái ở nhà đói móp cả bụng. Bố tôi khoe khoang với cả thế giới rằng mình đã xả thân cho Ailen khi mà điều đó giờ đây không còn hợp thời và cũng chẳng mang lại lợi ích gì nữa, rằng nếu được kêu gọi bố tôi sẽ sẵn sàng chết cho Ailen, rằng bố tôi tiếc rằng mình chỉ có mỗi một mạng sống để hiến dâng cho đất nước khốn khổ của mình và nếu ai không đồng ý thì xin mời ra ngoài giải quyết bất đồng một lần cho xong.

Mẹ tôi bảo: “Ô, không đâu, không ai lại không đồng ý đâu và không ai ra đâu, có cả lũ đàn ông lang thang và lũ buôn đồng nát lượn lờ ở bên ngoài các quán rượu. Bọn họ bảo anh ta rằng anh ta là một người đàn ông vĩ đại, dù là người miền Bắc đi nữa, và rằng bọn họ nhất định phải cụng ly với một con người yêu nước nồng nàn như anh ta”.

Mẹ tôi nói với cô Bridey:

-Tôi không biết phải làm gì đây. Tiền trợ cấp thất nghiệp được mười chín shilling sáu xu một tuần, thuê nhà đã hết sáu shilling và sáu xu rồi, còn lại mười ba shilling để mua thức ăn và quần áo cho năm người và lại còn phải lo củi lửa cả mùa đông nữa chứ.

Cô Bridey rít thuốc, uống trà và nhận xét:

-Chúa rất tốt.

-Chúa thì tốt rồi nhưng Chúa tốt với ai ở đâu ấy chứ từ lâu rồi tôi đâu có thấy Chúa ở các ngõ nghèo Limerick.

Cô Bridey cười phá lên:

-Ôi, Angela, chị nói thế là có thể bị đầy xuống địa ngục đây.

Mẹ tôi nói lại:

-Chẳng phải tôi đang ở địa ngục rồi đấy sao?

Và họ cùng cười, uống trà và hút thuốc Woodbin và nói với nhau rằng thuốc lá là nguồn an ủi duy nhất của họ.

Quigley Hay Hỏi bảo rằng thứ Sáu tôi phải đến nhà thờ Công giáo và tham gia hội Hữu ái Arch. Bạn buộc phải tham gia. Bạn không thể nói không. Tất cả con trai ở các ngõ và khu dân nghèo có bố thất nghiệp hoặc làm những công việc hạ đẳng đều phải tham gia hội.

Hay Hỏi nói: “Bố cậu là người miền Bắc và ông ấy không quan tâm nhưng cậu vẫn phải tham gia”.

Ai cũng biết Limerick là thành phố sùng đạo nhất Ailen bởi vì nó có hội Hữu ái Arch của gia đình thánh thiện, hội tôn giáo lớn nhất trên thế giới. Thành phố nào cũng có thể có một Hội Hữu ái nhưng chỉ có Limerick là có hội Arch.

Hội Hữu ái tập trung ở nhà thờ Công giáo năm tối một tuần, ba tối dành cho đàn ông, một tối dành cho phụ nữ, một tối dành cho những đứa con trai. Trong những buổi tụ họp đó người ta đọc kinh Tạ ơn và hát thánh ca bằng tiếng Anh, tiếng Ailen và tiếng Latin và nghe bài giảng đạo hùng hồn nhất đã làm cho những linh mục nhà thờ Công giáo trở nên nổi tiếng.

Hay Hỏi nói rằng bạn phải tham gia Hội Hữu ái để mẹ bạn có thể kể với hội thánh Vincent de Paul và họ sẽ biết bạn là một tín đồ Thiên Chúa giáo tốt. Cậu ta bảo rằng bố cậu ta là một thành viên trung thành của hội và vì thế mà ông ấy kiếm được công việc dọn nhà vệ sinh ở ga tàu và khi nào cậu ta lớn cậu ta cũng sẽ kiếm được một công việc tốt trừ khi cậu ta bỏ nhà để tham gia vào lực lượng cảnh sát cưỡi ngựa của Hoàng gia Canada để cậu ta có thể hát Anh sẽ gọi em Ooo Ooo Ooo, giống như Nelson Eddy hát cho Jeanette McDonald hấp hối vì bệnh lao trên trường kỷ nghe. Nếu cậu ta đưa được tôi đến hội Hữu ái thì người phụ trách văn phòng sẽ ghi tên cậu ta vào một cuốn sổ to và rất có thể một ngày nào đó cậu ta sẽ được cử làm chi hội trưởng của một chi hội trong hội, điều mà cậu ta mong muốn đạt được nhất sau ước mơ trở thành một cảnh sát cưỡi ngựa.

Chi hội trưởng là người đứng đầu một chi hội gồm ba mươi đứa con trai cùng ngõ và cùng phố. Mỗi chi hội mang tên một vị thánh và hình vị thánh đó được vẽ trên một tấm khiên gắn trên một cái cột gần ghế ngồi của chi hội trưởng. Chi hội trưởng và người phụ tá của anh ta chịu trách nhiệm về sĩ số của chi hội và theo dõi người của chi hội mình để họ có thể cho hội viên ăn một thụi vào đầu nếu cậu ta cười trong lúc nghe kinh Tạ ơn hay phạm bất cứ tội báng bổ thần thánh nào khác. Nếu bạn bỏ một tối sinh hoạt thì người phụ trách văn phòng sẽ muốn biết tại sao, muốn biết liệu có phải bạn đang muốn chuồn khỏi hội hay không hoặc ông ta có thể nói với người khác: “Tôi nghĩ anh bạn nhỏ của chúng ta đã húp cháo rồi”. Đó là điều tồi tệ nhất bạn có thể nói với bất kỳ người Thiên Chúa giáo nào ở Limerick hay ở Ailen vì những chuyện đã xảy ra hồi nạn đói. Nếu bạn vắng mặt hai buổi người phụ trách ở văn phòng sẽ gửi cho bạn một giấy triệu tập màu vàng và bạn phải đến mà giải thích và nếu bạn vắng mặt ba buổi thì ông ta sẽ cử đội Posse, một đội vũ trang gồm năm hay sáu thằng con trai to cao trong đội của bạn, đi lùng sục khấp các phố để đảm bảo rằng không phải bạn đang nhởn nhơ ở đâu đó. Đội Posse sẽ tìm đến nhà bạn và nói với mẹ bạn rằng linh hồn bất tử của bạn đang bị lâm nạn. Một số bà mẹ tỏ ra lo lắng nhưng một số khác lại nói: “Cút ngay khỏi cửa nhà tao nếu không tao sẽ phết cho sưng mông lên bây giờ”. Những người đó không phải là những bà mẹ tốt của hội Hữu ái và hội trưởng sẽ bảo chúng tôi cầu nguyện cho họ để họ nhận ra lỗi của mình.

Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là một chuyến viếng thăm của chính hội trưởng hội Hữu ái, Đức Cha Gorey. Ông ấy đứng ở đầu ngõ và cất cao cái giọng cải đạo cho hàng triệu người Trung Quốc của ông ấy: “Nhà Frank McCourt ở chỗ nào?”. Ông ấy cứ gào lên như vậy cho dù ông ấy có địa chỉ của bạn trong túi áo và biết rõ bạn sống ở đâu. Ông ấy gào lên bởi vì ông ấy muốn cả thế giới biết rằng bạn bỏ hội và linh hồn của bạn đang lâm nạn. Những bà mẹ thì sợ rúm người còn các ông bố thì thầm thì: “Tôi không có nhà đâu đấy, bảo là tôi không có nhà”, và từ đó trở đi dù gì thì gì họ cũng sẽ bắt bạn phải đến hội để họ khỏi nhục nhã và xấu hổ với những người hàng xóm hay đàm tiếu.

Hay Hỏi đưa tôi đến chi hội thánh Finbar, và chi hội trưởng bảo tôi ngồi ra một chỗ và ngậm miệng lại. Chi hội trưởng là Declan Collopy, mười bốn tuổi và cậu ta có những cái bướu ở trên trán trông như những cái sừng. Cậu ta có đôi lông mày rậm màu vàng nâu và đôi tay dài gần chạm đầu gối. Cậu ta bảo tôi rằng cậu ta sẽ làm cho chi hội của mình trở thành chi hội xuất sắc nhất trong hội Hữu ái và nếu tôi mà bỏ sinh hoạt thì cậu ta sẽ đánh vỡ mông tôi và gửi từng mảnh mông vỡ cho mẹ tôi. Dù có chuyện gì đi chăng nữa tôi cũng phải có mặt ở hội bởi vì có một đứa con trai ở chi hội khác sắp chết mà người ta vẫn để nó lên cáng đưa nó đến hội. Cậu ta nói:

- Nếu mày mà vắng mặt thì tốt hơn là hãy chết, không chết ở nhà mà lẩn đến chỗ nào đó mà chết. Mày nghe rõ chưa?

-Rõ rồi, thưa anh Declan.

Những đứa con trai trong chi hội của tôi cho tôi hay rằng những chi hội trưởng sẽ được khen thưởng nếu chi hội của họ giữ được đủ sĩ số. Declan muốn mau chóng học xong để cậu ta có thể làm công việc bán vải sơn lót sàn ở cửa hàng Cannock trên đường Patrick. Chú cậu ta, ông Foncey, chỉ bán vải sơn trong ba năm mà đã đủ vốn để mở một cửa hàng riêng ở Dublin và tạo việc làm cho cả ba người con trai của mình. Cha Gorey, hội trưởng, có thể dễ dàng thưởng cho Declan một chỗ làm ở cửa hàng Cannock nếu cậu ta là một chi hội trưởng xuất sắc và giữ được đủ sĩ số của chi hội mình và đó là lý do tại sao Declan sẽ đập vỡ mông chúng tôi nếu chúng tôi vắng mặt. Cậu ta tuyên bố trước chi hội: “Không ai được đứng giữa tao và vải sơn.”

Declan thích Quigley Hay Hỏi và thỉnh thoảng lại để cho Hay Hỏi bỏ một tối sinh hoạt bởi vì Hay Hỏi đã có lần nói: “Anh Declan này, khi nào em lớn và cưới vợ em sẽ trang trí nhà em toàn bằng vải sơn và cần bao nhiêu em đều mua của anh”.

Những thằng con trai khác cũng bắt chước mánh lới đó nhưng Declan nói: “Biến ngay, chúng mày có một cái bô mà tè là may rồi đừng có mơ đến vải lót sàn”.

Bố tôi bảo khi ông sống ở Toome bằng tuổi tôi ông đã đi hầu lễ Mixa và giờ đã đến lúc tôi trở thành một lễ sinh. Mẹ tôi nói:

-Làm thế thì được gì nào? Làm lễ sinh thì phải có quần áo tử tế chứ.

Bố tôi nói:

-Cần gì phải lo chuyện ấy, áo choàng lễ dài đến gót chân rồi ai còn nhìn thấy quần áo nó mặc bên trong nữa.

Mẹ tôi nói:

- Chúng ta làm gì có tiền may áo choàng lễ cho nó và cũng chẳng có tiền mà mua xà phòng đế giặt áo ấy chứ.

Bố tôi bảo rằng Chúa sẽ lo liệu chuyện áo lễ cho tôi và bố bắt tôi quì xuống sàn bếp. Bố tôi đóng vai linh mục vì bố tôi thuộc lòng những gì linh mục đọc trong khi làm lễ Mixa và tôi phải biết những câu đáp. Bố tôi nói Introibo ad altar Dei và tôi phải đáp Ad Deum qui laetificat juventutem meam.2

Tối tối sau khi uống trà xong tôi phải quì học tiếng Latin và nếu tôi chưa thuộc làu thì bố tôi chưa để tôi nhúc nhích. Mẹ tôi bảo ít nhất bố tôi để tôi ngồi mới phải nhưng bố tôi nói rằng tiếng Latin là ngôn ngữ linh thiêng và người ta phải quì mà học và đọc. Bố tôi bảo chẳng ai thấy Giáo hoàng ngồi mà đọc tiếng Latin bao giờ cả.

Tiếng Latin rất khó và đầu gối tôi sứt cả ra và tôi vừa muốn ra ngõ chơi vừa muốn trở thành một lễ sinh, giúp việc cho linh mục trong phòng để đổ thờ, đứng hầu bên bàn thờ trong bộ áo choàng đỏ và trắng giống như Jimmy Clark bạn tôi, đáp lời linh mục bằng tiếng Latin, chuyển -cuốn sách to từ bên này sang bên kia tủ đựng bánh thánh, rót nước và rượu vào chén thánh, rung chuông ở lễ tế, quì, cúi, dâng lư hương, ngồi xuống một bén và để lòng tay trên đầu gối một cách nghiêm trang trong khi linh mục giảng đạo, được mọi người trong nhà thờ nhìn bằng ánh mắt ngưỡng mộ.

Trong nửa tháng tôi thuộc hết những câu tiếng Latin trong lễ Mixa và đã đến lúc tôi đến nhà thờ thánh Joseph để gặp người giữ đồ thánh, ông Stephen Carey, người phụ trách các lễ sinh. Bố tôi đánh giày cho tôi. Mẹ tôi mạng lại tất cho tôi và ném thêm than vào bếp làm nóng chiếc bàn là để là áo cho tôi. Mẹ tôi đun nước nóng tắm gội cho tôi. Mẹ tôi kỳ kỹ đến nỗi da tôi như phát bỏng. Mẹ tôi ước gì đầu gối tôi không chi chít sẹo do tôi bạ cái vỏ hộp nào cũng tung chân đá và ngã như thể tôi là một cầu thủ bóng đá nổi tiếng nhất thế giới. Mẹ tôi ước gì chúng tôi có một giọt dầu gội đầu để chúng tôi khỏi phải dùng nước và nước bọt để làm tóc tôi bớt dựng đứng như những cọng rơm đen trong một tấm nệm. Mẹ tôi dặn tôi đến nhà thờ phải nói năng to tát và không được lúng búng dù là nói tiếng Anh hay tiếng Latin. Mẹ tôi nói: “Thật tiếc là con không mặc vừa cái áo comlê may dạo chịu lễ Ban thánh thể đầu tiên nhưng con không có gì phải xấu hổ hết, con là con cháu của những gia đình tử tế, nhà McCourt, nhà Sheehan, gia đình Guifoyle đằng bà ngoại của con, những người đã từng có hàng mẫu đất ở tỉnh Limerick nhưng người Anh đã tước mất tất cả và đem giao cho những kẻ cướp đường từ London đến.

Bố tôi dắt tay tôi đi qua các phố và người đi đường cứ nhìn chúng tôi bởi vì chúng tôi vừa đi vừa ôn lại những câu Latin dùng trong lễ Mixa. Bố tôi gõ cửa phòng của người phụ trách lễ sinh và nói với ông Stephen Carey:

-Đây là con trai tôi, cháu Frank, cháu biết tiếng Latin và muốn được làm lễ sinh ở đây.

Ông Stephen Carey nhìn bố tôi, rồi nhìn tôi. Ông ta nói:

-Chúng tôi không có chỗ cho nó đâu.

Nói rồi ông ta đóng sập cửa lại.

Lúc ấy bố tôi vẫn đang nắm tay tôi và bố tôi bóp bàn tay tôi mạnh đến nỗi tôi đau muốn khóc. Trên đường về bố tôi không nói một lời nào. về đến nhà bố tôi bỏ mũ, ngồi xuống bên bếp và châm thuốc hút. Mẹ tôi cũng đang hút thuốc. Mẹ tôi hỏi:

-Nó sẽ làm một lễ sinh chứ?

-Không có chỗ cho nó.

Mẹ tôi rít một hơi thuốc rồi nói:

-Ô. Tôi biết vì sao. Đó là vì sự phân biệt tầng lớp. Họ không muốn những đứa trẻ sống trong các ngõ có mặt quanh bàn thờ. Họ không muốn những đứa tóc dựng đứng và bị sẹo ở đầu gối. o, không, họ muốn những đứa con trai mặt mũi sáng sủa, tóc bóng dầu, đi giày mới, được những ông bố mặc comlê đeo cà vạt và có công việc tử tế đưa tới. Thế đấy, thật khó mà giữ được Đức tin và cái chất trưởng giả của nó.

-Ôi chao, ôi chao.

-Ôi chao, ôi chao cái mông tôi đây này. Anh vẫn thưòng nói thế đấy thôi. Anh có thể đi đến gặp linh mục và bảo với ông ấy rằng anh có một đứa con trai nhét đầy đầu tiếng Latin và tại sao nó lại không thể trở thành một lễ sinh, nó sẽ làm gì với mớ tiếng Latin đó hả?

-Ôi chao, lớn lên nó có thể trở thành một linh mục.

Tôi xin bố mẹ tôi ra ngoài chơi. Bố tôi bảo: “Ừ, đi chơi đi”.

Mẹ tôi cũng nói: “Ừ, đi chơi đi”.