Chương 6
Thầy O’Neill là thầy giáo dạy lớp bốn. Chúng tôi gọi ông ấy là Chấm Nhỏ bởi vì người ông ấy bé tí. Ông ấy dạy chúng tôi trong một phòng học có bục giảng để ông ấy có thể đứng trước chúng tôi mà giơ cái roi tần bì lên dọa và để tất cả chúng tôi cùng nhìn thấy ông ấy gọt táo. Ngày đầu tiên của năm học mới ông viết lên bảng ba từ, Euclide, hình học, đồ đận độn và tuyên bố rằng ba từ đó phải được giữ nguyên trên bảng trong suốt năm học. Ông ấy báo trước rằng nếu ông ấy nhìn thấy trò nào xâm phạm đến ba chữ ấy thì trò đó sẽ phải sống nốt phần đời còn lại của mình với một bàn tay chứ không phải hai. Ông ấy nói rằng ai không hiểu những định lý Euclide thì người đó là đồ đần độn. Ông ấy ra lệnh: “Nào, nhắc lại theo ta nào, ai không hiểu những định lý Euclide thì người đó là đồ đần độn”. Dĩ nhiên tất cả chúng tôi đều biết đồ đần độn nghĩa là gì bởi vì đó là từ mà ngày nào thầy giáo cũng dùng để gọi chúng tôi.
Brendan Quigley giơ tay:
- Thưa thầy, một định lý Euclide là gì ạ? Và một Euclide là gì ạ?
Chúng tôi tưởng ông ấy sẽ cho Hay Hỏi ăn roi giống như các thầy giáo khác thường phản ứng mỗi khi chúng tôi hỏi họ một câu hỏi nhưng ông ấy chỉ nhìn Brenden mỉm cười:
Ô, trò không chỉ hỏi một câu hỏi mà hỏi hai câu liền. Tên trò là gì nhỉ? Brendan Quigley, thưa thầy. Trò này sẽ tiến xa đây. Trò này sẽ đi tới đâu, các trò? Xa, thưa thầy. Đúng. Trò nào muốn biết về sự duyên dáng, tao nhã, và đẹp đẽ của Euclide thì trò đó chỉ có đi lên mà thôi. Trò này sẽ chỉ đi theo hướng nào nào, các trò? Đi lên, thưa thầy. Các trò, không có Euclide thì toán học chỉ còn là một thứ không đứng vững tội nghiệp. Không có Euclide thì chúng ta không thể đi từ chỗ này đến chỗ kia được. Không có Euclide xe đạp sẽ không có bánh. Không có Euclide thì có lẽ thánh Joseph của chúng ta đã không phải là một thợ mộc bởi vì nghề mộc là hình học và hình học là nghề mộc. Không có Euclide thì không có cái trường này.Paddy Clohessy ngồi sau tôi lẩm bẩm: “Euclide Chết Tiệt”.
Thầy Chấm Nhỏ quát cậu ta:
Trò kia, tên trò là gì? Clohessy, thưa thầy. Ô, thằng bé bay bằng một cánh. Tên thánh của trò là gì? Paddy. Paddy gì? Paddy, thưa thầy. Paddy, trò vừa nói gì với trò McCourt? Em nói rằng chúng ta nên quì xuống tạ ơn Euclide. Ta chắc là trò đã nói khác, Clohessy. Ta thấy sự dối trá bốc mùi từ răng của trò. Ta thấy gì, các trò? Sự dối trá, thưa thầy. Sự dối trá làm sao? Bốc mùi, thưa thầy. Từ đâu? Từ răng của trò ấy, thưa thầy. Các trò, Euclide là một người Hy Lạp. Clohessy, một người Hy Lạp là gì? Là một người nước ngoài, thưa thầy. Clohessy, trò là một thằng tinh ranh nửa mùa. Nào, Brendan, trò biết một người Hy Lạp là gì, đúng không? Vâng, thưa thầy, Euclide là một người Hy Lạp.Thầy Chấm Nhỏ thưởng cho cậu ta một nụ cười. Ông ấy bảo Clohessy nên học tập Quigley vì cậu ta biết một người Hy Lạp là gì. Ông ấy vẽ lên bảng hai đường thẳng và nói rằng đó là hai đường thẳng song song và một điểu kỳ diệu và bí ẩn là hai đường thẳng đó không bao giờ gặp nhau, không gặp nhau cho dù chúng được kéo dài đến vô tận, không gặp nhau cho dù chúng được kéo đến tận vai Chúa.
Chúng tôi nghe thầy Chấm Nhỏ nói mà băn khoăn không biết tất cả những cái đó giúp ích được gì cho tình hình thế giới khi mà người Đức đem quân đi khắp nơi và dội bom xuống tất cả những mục tiêu đứng. Chúng tôi không thể tự mình hỏi ông ấy được nhưng chúng tôi có thể khiến Quigley làm việc đó. Ai cũng có thể thấy rằng Quigley là con cưng của thầy giáo và điều đó có nghĩa là cậu ta có thể hỏi bất cứ câu hỏi nào cậu ta thích. Tan học chúng tôi bảo cậu ta buổi học tới hãy hỏi thầy giáo câu hỏi: Euclide và những đường thẳng mãi mãi không gặp nhau kia có ích gì khi người Đức ném bom mọi thứ? Brendan nói cậu ta không muốn làm con cưng của thầy giáo, cậu ta không muốn hỏi câu hỏi đó. Cậu ta sợ nếu cậu ta hỏi câu hỏi đó thầy giáo sẽ đánh chết cậu ta mất. Chúng tôi bảo với cậu ta rằng nếu cậu ta không hỏi thầy giáo cầu hỏi đó thì chúng tôi sẽ đánh chết cậu ta.
Hôm sau Brendan giơ tay. Thầy Chấm Nhỏ cười với cậu ta. Cậu ta hỏi:
Thưa thầy, Euclide và những đường thẳng song song có ích gì khi người Đức ném bom mọi thứ?Nụ cười trên môi thầy giáo tắt ngấm. Ông ấy lẩm bẩm:
Ôi, Brendan. Ôi, Quigley. Ôi, các trò, các trò.Ông ấy đặt cây roi lên bàn và đứng trên bục giảng nhắm mắt lại. Ông ấy nói:
Euclide có ích gì ư? Có ích gì ư? Không có Euclide thì máy bay Messerschmit không bao giờ được đưa lên bầu trời. Không có Euclide thì máy bay Spitfire không thể phóng từ đám mây này sang đám mây khác được, Euclide mang đến cho chúng ta sự duyên dáng, vẻ đẹp, sự tao nhã. Euclide mang đến cho chúng gì nào, các trò? Sự duyên dáng, thưa thầy. Và? Vẻ đẹp, thưa thầy. Và? Sự tao nhã, thưa thầy. Euclide là hoàn hảo và siêu phàm trong ứng dụng. Các trò có hiểu điều đó không? Hiểu, thưa thầy. Ta nghi ngờ, các trò, ta nghi ngờ. Yêu Euclide là đơn độc trên thế giới này.Ông ấy mở mắt và thở dài và bạn có thể thấy mắt ông ấy rớm lệ.
Hôm ấy Paddy Clohessy đang trên đường từ trường về nhà thì bị thầy O’Dea, thầy giáo dạy lớp năm chặn lại. Thầy O’Dea hỏi:
Tên trò là gì? Clohessy, thưa thầy. Trò học lớp mấy? Lớp bốn, thưa thầy. Hãy nói cho ta biết, thầy giáo của các trò có nói về Euclide không? Có, thưa thầy. Ông ấy đã nói gì? Thầy ấy nói rằng Euclide là người Hy Lạp. Cái đó thì hẳn rồi, trò đúng là một omadhaun 3. Ông ấy còn nói gì khác không? Thầy ấy nói không có Euclide thì không có trường học. Ô. Thầy ấy có vẽ gì đó lên bảng chứ? Thầy ấy vẽ những đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau cho dù chúng chạm tới vai Chúa. Đức Mẹ. Không, thưa thầy. Vai Chúa cơ ạ. Ta biết rồi, đồ đần. Thôi về đi.Ngày hôm sau thầy O’Dea đến cửa lớp tôi gào to:
Ra đây mau, ông O’Neill, kẻ cơ hội, đồ nhát gan, ra đây mau.Chúng tôi có thể nghe rõ tất cả bởi vì kính trên cửa lớp đã bị vỡ.
Thầy hiệu trưởng mới, thầy O’Halloran, nói:
Thôi nào, thầy O’Dea. Hãy kiềm chế. Đừng có to tiếng trước mặt học trò như thế. Được, vậy thì ông O’Halloran, ông hãy bảo ông ta đừng có dạy môn hình học nữa. Môn hình học dành cho lớp năm chứ không phải cho lớp bốn. Môn hình học là của tôi. Bảo ông ta dạy phép chia đi và để Euclide cho tôi. Phép chia sẽ mở rộng hiểu biết cho ông ta, xin Chúa giúp chúng con. Tôi không muốn đầu óc của những thằng bé này bị kẻ cơ hội đứng trên bục giảng kia đầu độc, ông ta cho chúng ăn vỏ táo làm lây bệnh tiêu chảy lung tung. Bảo ông ta Euclide là của tôi, ông Halloran ạ, nếu không tôi sẽ không để yên đâu.Thầy O’Halloran bảo thầy O’Dea về lớp của thầy ấy và gọi thầy O’Neill ra hành lang. Thầy O’Halloran nói:
Thầy O’Neill, tôi đã bảo thầy đừng có động đến Euclide rồi mà. Ông đã bảo rồi, đúng, ông O’Halloran, nhưng ông bảo thế chẳng khác nào ông bắt tôi phải bỏ ăn táo hàng ngày. Tôi nhắc lại một lần nữa, thầy O’Neill. Đừng giảng về Euclide nữa.Thầy O’Neill quay vào lớp và mắt thầy lại rớm lệ. Thầy ấy nói rằng từ thời của người Hy Lạp đến giờ chẳng có nhiều thay đổi bởi vẫn có đầy rẫy kẻ vô học lỗ mãng. Thầy ấy hỏi chúng tôi: “Từ thời Hy Lạp đến nay có thay đổi gì, các trò?”.
Quả là một cực hình đối với chúng tôi khi mà ngày nào chúng tôi cũng phải nhìn thầy O’Neill gọt táo, phải nhìn những đoạn vỏ dài, xanh hoặc đỏ, và nếu bạn ngồi gần bục giảng thì bạn còn ngửi thấy cả mùi táo thơm phức nữa. Nếu hôm nào bạn ngoan và trả lời đúng câu hỏi thầy giáo đưa ra thì ông ấy sẽ cho bạn vỏ táo và để bạn ăn nó ngay tại bàn của bạn và như thế bạn có thể yên trí ăn mà không sợ bị những đứa con trai khác cản trở như khi bạn ăn ở ngoài sân trường. Nếu bạn ăn vỏ táo ở ngoài sần thì bọn chúng sẽ nhao nhao đòi bạn chia cho chúng và bạn phải rất may mắn mới giữ lại cho mình được một mẩu vỏ bé tẹo.
Có những hôm các câu hỏi thầy giáo đưa ra khó quá và ông ấy hành hạ chúng tôi bằng cách ném vỏ táo vào thùng rác. Sau đó ông ấy gọi một học trò ở lớp khác đến mang thùng rác đổ vào lò đốt hoặc cho bà lao công Nellie Aheam để bà ấy tống vào bao tải mang về. Chúng tôi muốn bảo bà Nellie giữ vỏ táo lại cho chúng tôi trước khi chuột tha mất nhưng bà ấy quét dọn cả trường đã mệt lắm rồi nên bà ấy quát vào mặt chúng tôi: “Tôi còn khối việc để làm không rảnh đâu mà đứng chờ cả lũ sứt sẹo các cậu tìm vỏ táo. Cút đi”.
Thầy O’Neill gọt táo một cách nhẩn nha. Ông ấy nhìn quanh phòng học với nụ cười nửa miệng. Ông ấy trêu chúng tôi:
Các trò, các trò có nghĩ ta nên cho lũ chim bồ câu ngoài kia cái vỏ táo này không?Chúng tôi nhao nhao:
Không, thưa thầy, chim bồ câu không ăn vỏ táo đâu.Paddy Clohessy nói to:
Nó sẽ làm chúng bị đi ỉa đấy, thưa thầy, thầy cứ để cho chúng em. Clohessy, trò là một omadhaun. Trò có biết một omadhaun có nghĩa là gì không? Em không biết, thưa thầy. Đó là tiếng Ailen, Clohessy, tiếng mẹ đẻ của trò đấy. Một omadhaun có nghĩa là một thằng đần, Clohessy ạ. Trò là một thằng đần. Trò ấy là gì nhỉ, các trò? Một thằng đần, thưa thầy.Clohessy nói:
Thầy O’Dea cũng gọi em như vậy, thưa thầy, thầy ấy gọi em là một omadhaun.Thầy giáo ngừng gọt táo để ra câu hỏi về mọi thứ trên thế giới và đứa con trai nào đưa ra được câu trả lời xuất sắc nhất sẽ dành được vỏ táo. Ông ấy nói:
Giơ tay lên nào, tổng thống Mỹ là ai?Tất cả lớp giơ tay và tất cả chúng tôi đều thất vọng vì thầy giáo đã ra một câu hỏi mà bất cứ một omadhaun cũng có thể trả lời. Tất cả chúng tôi cùng gào “Roosevelt”.
Thầy giáo hỏi tiếp:
Trò Mulcahy, những ai đứng dưới chân cây thập tự khi Chúa của chúng ta bị đóng đinh câu rút?Mulcahy chậm chạp đáp:
Mười hai tông đổ, thưa thầy. Mulcahy, trong tiếng Ailen thằng đần là gì? Là omadhaun, thưa thầy.Fintan Slattery giơ tay:
Thưa thầy, em biết những ai đã đứng dưới cây thập tự khi Chúa bị đóng đinh cầu rút.Tất nhiên là Fintan biết ai đứng dưới cây thập tự. Sao cậu ta lại không biết chứ? Cậu ta luôn theo người mẹ nổi tiếng sùng đạo của cậu ta đi lễ Mixa kia mà. Mẹ cậu ta sùng đạo đến nỗi bố cậu ta không chịu nổi phải bỏ đi Canada làm nghề đốn gỗ và không bao giờ quay về nữa. Đêm nào Fintan và người mẹ sùng đạo cũng quì trong bếp cầu kinh và đọc tất cả các tạp chí tôn giáo, cùng tất cả những cuốn sách nhỏ do giáo hội Thiên Chúa giáo phát hành. Họ đi lễ Mixa và lễ Ban thánh thể đều đặn bất kể mưa hay nắng. Và thứ Bảy nào họ cũng đến xưng tội với những linh mục dòng Tên những người chỉ quan tâm đến những tội lỗi thông minh chứ không quan tâm đến những tội lỗi thông thường mà bạn thường nghe thấy từ những người sống trong ngõ, những người thường say khướt và thỉnh thoảng ăn thịt vào thứ Sáu vì sợ thịt thiu. Fintan và mẹ cậu ta sống ở đường Catherin và những hàng xóm của bà Slattery gọi họ là Bà Cầu Nguyện bởi vì cho dù có chuyện gì xảy ra, bị gãy chân, đánh vỡ cốc, hay bị chồng bỏ, bà ấy vẫn nói: “O, giờ tôi sẽ cầu Chúa và tôi sẽ được ban ân để sau này lên thiên đường”. Fintan cũng sùng đạo không kém. Nếu bạn đẩy cậu ta trên sân trường hoặc đặt tên để trêu cậu ta thì cậu ta mỉm cười và nói với bạn rằng cậu ta sẽ cầu nguyện cho bạn và cậu ta sẽ cầu nguyện cho linh hồn của cậu ta và của bạn. Những đứa con trai ở trường Leamy không muốn cậu ta cầu nguyện cho chúng và chúng dọa nếu chúng bắt gặp cậu ta cầu nguyện cho chúng thì chúng sẽ đánh vỡ mông cậu ta. Cậu ta nói rằng lớn lên cậu ta muốn trở thành một vị thánh, và điều đó thật lố bịch bởi vì chỉ khi chết rồi bạn mới có thể được phong thánh mà thôi. Cậu ta nói rằng con cháu của chúng tôi sẽ phải cầu nguyện trước ảnh của cậu ta. Một đứa con trai to cao nói: “Con cháu tao sẽ tè vào ảnh mày thì có” và cậu ta chỉ mỉm cười. Chị của cậu ta đã bỏ sang Anh khi cô ta mười bảy tuổi và mọi người đều biết rằng ở nhà cậu ta mặc áo ngắn tay của chị mình và thứ Bảy nào cũng dùng dụng cụ uốn tóc của chị uốn tóc vì muốn mình trông thật lộng lẫy tại lễ Mixa. Nếu cậu ta gặp bạn ở lễ Mixa thì thế nào cậu ta cũng hỏi: “Tóc mình trông thật lộng lẫy phải không?”. Cậu ta thích cái từ “lộng lẫy”, và ngoài cậu ta ra không đứa con trai nào dùng từ đó hết.
Tất nhiên cậu ta biết những ai đứng dưới cây thập tự. Có khi cậu ta còn biết họ mặc gì và họ ăn gì vào bữa sáng nữa ấy chứ và bây giờ cậu ta đang trả lời thầy O’Neill rằng đó là bà Maria.
Thầy Chấm Nhỏ nói:
Lên nhận phần thưởng đi, Fintan.Cậu ta chạy ngay lên nhận vỏ táo và chúng tôi không thê tin vào mắt mình khi mà cậu ta lôi từ trong túi áo ra một con dao gấp và cắt vỏ táo ra thành những miếng nhỏ để cậu ta có thể ăn dần chứ không tống tất cái vỏ táo dài vào miệng và ăn luôn một lần như chúng tôi. Cậu ta giơ tay:
Thưa thầy, em muốn chia một chút táo của em cho người khác ạ. Táo ư, Fintan? Không, làm gì có táo. Trò không có táo, Fintan ạ. Trò chỉ có vỏ táo thôi, vỏ táo. Trò không có táo và cũng không bao giờ đạt được thành tích cao đến nỗi trò có thể thưởng thức táo của ta đâu. Còn khuya, Fintan ạ. Nào, có phải ta đã nghe thấy trò nói rằng trò muốn chia phần thưởng của trò cho người khác không nhỉ? Vâng, thưa thầy. Em muốn chia ba mẩu vỏ táo cho Quigley, Clohessy, và McCourt ạ. Tại sao? Họ là bạn của em, thưa thầy.Những đứa con trai trong lớp cười mỉa và huých khuỷu tay nhau và tôi cảm thấy xấu hổ bởi vì chúng sẽ bảo tôi uốn tóc và lúc ra chơi chúng sẽ trêu chọc tôi và tại sao Fintan lại nghĩ tôi là bạn cậu ta cơ chứ? Nếu chúng bảo rằng tôi mặc áo của chị thì dù tôi có nói rằng tôi không có chị bọn chúng cũng sẽ nói: “Nếu mày có chị thì mày cũng sẽ mặc áo của chị mày”, ởngoài sân trường kia dù bạn có nói gì đi nữa thì cũng chẳng ích gì bởi vì luôn có đứa nào đó có câu đối lại và bạn chẳng thể làm gì khác hơn là lao vào cấu mũi bọn chúng và nếu bạn phải cấu tất cả những đứa có câu đối lại thì bạn có mà đi cấu suốt từ sáng đến trưa từ trưa đến tối.
Quiley cầm mẩu vỏ táo Fintan đưa cho và nói: “Cám ơn, Fintan”.
Cả lớp quay ra nhìn Clohessy bởi vì cậu ta lớn nhất lớp và gấu nhất lớp và nếu cậu ta nói cám ơn thì tôi cũng sẽ nói cám ơn. Cậu ta nói: “Cám ơn nhiều, Fintan”, rồi đỏ mặt và tôi cũng nói: “Cám ơn nhiều, Fintan”, và tôi cố không đỏ mặt nhưng tôi không thể bởi vì đám con trai trong lớp lại cười mỉa và tôi chỉ muốn đập cho chúng một trận.
Tan học bọn con trai gọi Fintan:
Này, Fintan, Fintan, mày có về nhà uốn mái tóc lộng lẫy của mày không hả?Fintan mỉm cười và bước lên bậc sân trường.
Một thằng học lớp bảy cao kều nói với Paddy Clohessy:
Tao nghĩ nếu đầu mày không trọc tếu thì mày cũng sẽ uốn tóc.Paddy nói:
Mày câm ngay.Thằng cao kều kia nói:
Tao đố thằng nào làm gì được tao đấy.Paddy lao vào cấu nó nhưng thằng đó tung một quả đấm vào mũi Paddy làm cậu ta ngã lăn ra và mũi cậu ta bắt đầu chảy máu. Tôi cố đánh thằng đó nhưng nó túm cổ tôi và đập đầu tôi vào tường khiến tôi nảy đom đóm mắt. Paddy đứng dậy bước đi, vừa đi vừa bưng mũi vừa khóc và thằng cao kều đẩy tôi về phía cậu ta. Fintan đã ra đến đường và trông thấy chúng tôi cậu ta kêu lên:
Ôi, Francis, Francis, ôi, Patrick, Patric, các cậu làm sao thế?Paddy nói:
Tớ đói. Tớ không thể đánh lại ai được bởi vì tớ đói muốn chết và tớ xấu hổ lắm.Fintan nói:
Đi với tớ, Patrick. Mẹ tớ sẽ cho chúng mình thức ăn.Paddy lắc đầu:
Không, mũi mình đang bị chảy máu. Đừng lo. Mẹ tớ sẽ rịt mũi cho cậu hoặc sẽ để một cái chìa khóa lên gáy cậu thế là cậu hết chảy máu ngay ấy mà. Francis, cậu cũng phải đi với mình thôi. Trông cậu lúc nào cũng có vẻ đói. Ô, không, Fintan. Thôi mà, Francis. Thôi được, Fintan.Càn hộ của Fintan trông như một nhà nguyện. Trên một bức tường có hai bức tranh, bức Trái tim thiêng của Jésus và bức Trái tim Maria Trong Trắng. Jésus đứng đó với trái tim nhỏ máu cùng vòng gai và lưỡi lửa vây quanh. Đầu Chúa nghiêng về bên trái đầy vẻ đau đớn. Đức Mẹ Maria đứng đó với trái tim của mình và đó chắc hẳn phải là một trái tim dễ thương nếu nó không bị nhiều gai đâm đến thế. Đầu Đức Mẹ Maria nghiêng về bên phải đầy vẻ đau đớn bởi vì Đức Mẹ biết con trai mình sẽ chịu một kết cục buồn thảm.
Trên một bức tường khác có một bức ảnh chụp một người đàn ông mặc áo choàng màu nâu với những con chim đậu trên vai và trên tay. Fintan nói:
Francis, cậu có biết đấy là ai không? Không ư? Thánh bảo trợ của cậu đấy, thánh Francis đấy, và cậu có biết hôm nay là ngày bao nhiêu không? Ngày mùng bốn tháng Mười. Đúng và hôm nay là ngày lễ thánh Francis và là ngày đặc biệt đối với cậu bởi vì cậu có thể xin thánh bất cứ điều gì và chắc chắn thánh sẽ ban điều đó cho cậu. Chính vì thế mà tớ muốn cậu đến đây hôm nay. Ngồi xuống đi, Patrick, cả cậu nữa, Francis.Bà Slattery xuất hiện với chuỗi hạt rôze trên tay. Bà ấy tỏ ra rất vui khi được gặp những người bạn mới của Fintan và bà ấy hỏi chúng tôi có muốn ăn bánh sandwich pho mát không. Bà ấy hoảng hốt khi nhìn thấy mũi Patrick chảy máu. Bà ấy đặt cây thập tự trong chuỗi hạt rôze lên mũi cậu ta và lầm rầm cầu nguyện. Bà ấy bảo chúng tôi rằng chuỗi hạt rôze bà ấy đang cầm là chuỗi hạt do Giáo hoàng ban cho bà ấy và nó có thể làm cả một dòng sông ngừng chảy chứ nói gì đến cái mũi bé tẹo của Patrick.
Fintan bảo rằng cậu ta không ăn sandwich bởi vì cậu ta béo rồi vả lại cậu ta đang cầu nguyện cho cái thằng cao kều đã đánh Paddy và tôi. Bà Slattery hôn lên trán cậu ta và bảo rằng cậu ta là một vị thánh từ thiên đường xuống và hỏi chúng tôi có muốn cho mù tạc vào bánh sandwich hay không và tôi trả lời rằng tôi chưa từng nghe thấy ai nói ăn mù tạc cùng pho mát bao giờ nhưng tôi rất muốn nếm thử. Paddy nói: “Cháu chưa bao giờ được ăn một cái sandwich”, và tất cả chúng tôi cùng cười phá lên và tôi bàn khoăn không biết liệu có ai như Paddy có thể sống mười năm trên đời mà lại chưa bao giờ ăn một cái sandwich. Paddy cũng cười, và bạn có thể thấy răng cậu ta trắng, đen và xanh.
Chúng tôi ăn sandwich, uống trà và Paddy muốn vào nhà vệ sinh. Fintan đưa cậu ta đi qua phòng ngủ đến sân sau và khi họ quay lại Paddy nói: “Tớ phải về nhà thôi. Mẹ tớ sẽ giết tớ mất. Tớ đợi cậu ở bên ngoài đấy, Francis”.
Giờ tôi phải đi vệ sinh và Fintan dẫn tôi ra sân sau. Cậu ta bảo rằng cậu ta cũng buồn đi vệ sinh và khi tôi cởi cúc quần rồi tôi không thể đi tiểu nổi bởi vì cậu ta cứ nhìn tôi rồi cậu ta nói: “Cậu ngốc thế. Cậu không việc gì phải sợ. Tớ thích nhìn cậu, Francis ạ. Tớ chỉ muốn nhìn thôi. Tớ sẽ không phạm một tội nào đâu vì sang năm tớ sẽ chịu lễ Kiên tín”.
Paddy và tôi về cùng nhau. Tôi không nhịn được nên phải chạy vào sau một gara để đi tiểu. Paddy đợi tôi và khi chúng tôi đang đi trên phố Hartstonge Paddy nói:
Bánh sandwich nhà nó ngon thật, Frankie ạ, còn nó và mẹ nó thì rất chi là sùng đạo nhưng tớ không muốn đến nhà nó nữa vì nó kỳ quặc lắm, đúng không, Frankie? Đúng, Paddy ạ. Nó cứ nhìn vào “cái ấy” của cậu, kỳ quặc lắm, đúng không, Frankie? Ừ.Mấy hôm sau Paddy thì thầm với tôi: “Fintan bảo chúng ta có thể đến nhà nó ăn trưa. Mẹ nó không ở nhà và đã chuẩn bị bữa trưa để ở nhà cho nó. Nó sẽ cho chúng ta ăn cùng và nó còn có sữa ngon nữa. Chúng ta đi chứ?”.
Fintan ngồi cách chúng tôi hai bàn. Cậu ta biết Paddy nói gì với tôi và cậu ta nháy mắt như muốn nói: “Các cậu đến chứ?” tôi nói “ừ” vào tai Paddy và Paddy gật đầu với Fintan và thầy giáo quát chúng tôi không được nháy mắt và mấp máy môi với nhau nếu không thầy sẽ cho ăn roi.
Những đứa con trai ở sân trường nhìn thấy ba chúng tôi đi với nhau bắt đầu phun ra những lời chầm chọc. Chúng nói: “Ôi, Chúa ơi, nhìn thằng Fintan và những ingle của nó kìa”. Paddy hỏi Fintan: “Ingle nghĩa là gì?” và Fintan trả lời rằng theo nghĩa cổ thì có nghĩa là một thằng con trai ngồi ở một xó. Cậu ta bảo chúng tôi ngồi vào chiếc bàn ở trong bếp và bảo rằng chúng tôi muốn đọc cuốn truyện cười nào thì đọc, cuốn Bộ phim hài, Buổi liên hoan, Chàng công tử bột hoặc bất cứ cuốn tạp chí lãng mạn nào mẹ cậu ta để ở nhà, tạp chí Điều kỳ diệu và tạp chí Nhà tiên tri, những cuốn tạp chí luôn có những câu chuyện na ná như câu chuyện kể về một cô công nhân nghèo xinh đẹp yêu con trai của một bá tước bị phụ tình và đã trầm mình xuống sông Thames để kết thúc đời mình nhưng lại được một người thợ mộc đi ngang qua cứu sống và người thợ mộc đó tuy nghèo nhưng thật lòng và yêu cô gái kia vì chất mộc mạc của cô mặc dù hóa ra người thợ mộc lại đích thị là con trai của một công tước, người có đẳng cấp cao hơn một bá tước nhiều, vậy là cô công nhân trở thành bà công tước và có thể từ vị trí của mình nhìn xuống tên con trai bá tước đã bỏ rơi cô trước đây bởi vì cô đang sống hạnh phúc với những bông hoa hồng trong khu đất rộng mười hai nghìn mẫu của gia đình cô ở Shropshire và cô đối xử rất tốt với người mẹ nghèo của mình, người đã không rời bỏ căn nhà thôn quê đơn sơ của bà cho dù người ta có cho bà tất cả tiền trên thế giới này.
Paddy nói rằng cậu ấy chẳng muốn đọc thứ gì hết, tất cả những câu chuyện đều là chuyện bịa. Fintan kéo tấm khăn đậy chiếc bánh sandwich và cốc sữa của cậu ta ra. Sữa trong cốc trông béo ngậy, và tươi ngon còn bánh sandwich trông cũng rất hấp dẫn. Paddy hỏi đó có phải là một cái sandwich giăm bông không và Fintan gật đầu. Paddy lại hỏi trong cái bánh đó có mù tạc không và Fintan lại gật đầu và Fintan cắt cái bánh ra làm đôi. Mù tạc ứa ra. Fintan liếm ngón tay và uống một ngụm sữa to. Cậu ta cắt cái bánh thành bốn, thành tám, thành mười sáu phần rồi cầm cuốn Người đưa tin của trái tim Chúa lên đọc và vừa đọc cậu ta vừa ung dung ăn bánh và uống sữa còn Paddy và tôi thì ngồi nhìn cậu ta mà nuốt nước bọt và tôi biết Paddy đang tự hỏi không biết chúng tôi đến nhà Fintan để làm cái quái gì bởi vì đó cũng chính là điều tôi đang băn khoăn và tôi hy vọng Fintan sẽ đẩy đĩa bánh cho chúng tôi nhưng cậu ta không làm vậy, cậu ta uống hết cốc sữa, để lại mấy miếng bánh trên đĩa, lấy khăn đậy chúng lại, lau mồm, cúi đầu, làm dấu thánh và nói câu tạ ơn sau bữa ăn và lẩm bẩm: “Chúa ơi, chúng ta sẽ bị muộn học mất”, và lúc đi ra lại làm dấu thánh trước cái bình nước thánh có hình Đức Mẹ Maria treo ở ngoài cửa và giơ hai ngón tay chỉ vào nó ra điều chúng tôi có thể lấy một ít mà uống.
Đã quá muộn nên dù có chạy mãi tôi và Paddy cũng không thể về trường để kịp nhận khẩu phần ăn của mình từ bà Neill và với cơn đói cồn cào tôi không biết làm thế nào có thể sống từ giờ cho tới lúc tan học để chạy về nhà kiếm một miếng bánh mì lót dạ. Đi gần đến cổng trường, Paddy kéo tay tôi lại và nói:
Tớ đói lắm không thể vào học tiếp được đâu. Tớ sẽ gục xuống mà ngủ và thầy Chấm Nhỏ sẽ giết tớ mất.Fantan có vẻ đang lo và cậu ta giục:
Đi nào, mau lên, chúng ta muộn mất. Đi nào, Francis, nhanh lên. Tớ không vào trường đâu, Fintan. Cậu đã ăn trưa rồi. Chúng tớ chẳng có gì trong bụng cả.Paddy nổi khùng:
Mày là thằng đểu, Fintan. Mày là thằng đểu. Hôn mông tao đây này, Fintan. Ôi Patrick. Ôi, ôi cái mông tao đây này. Đi thôi, Francis.Fintan chạy vào trường còn tôi và Paddy thì tìm đến một vườn quả ở Ballinacurra. Chúng tôi trèo tường vào vườn và một con chó xổ ra gầm gừ nhưng Paddy đã trổ tài nói chuyện với chó của cậu ta ra và bảo với con chó rằng nó là một con chó ngoan, rằng chúng tôi đang đói muốn chết và rằng con chó hãy đi về nhà với mẹ nó. Con chó liếm mặt Paddy và vừa chạy đi vừa vẫy vẫy đuôi. Chúng tôi hái táo tống đầy vào trong áo đến nỗi phải khá vất vả chúng tôi mới trèo được ra ngoài tường để chạy đến một cánh đồng và ngồi dưới chân một hàng rào ăn táo cho tới khi chúng tôi không thể nuốt thêm một miếng táo nào nữa rồi chúng tôi áp mặt xuống suối uống nước suối mát lạnh. Sau đó mỗi đứa chúng tôi chạy xuống một đầu mương và “giải quyết nỗi buồn”. Paddy vừa ngồi xổm vừa nói to với tôi: “Chẳng có gì trên đời này tuyệt hơn là được ăn một bữa táo no, uống nước suối mát lạnh và bậy ở một chỗ thoải mái, bánh sandwich kẹp pho mát cũng chẳng bằng còn lão Chấm Nhỏ thì cứ việc nhét chỗ vỏ táo vào đít lão”.
Trên một thửa ruộng có ba con bò sữa đang nghếch đầu qua một bức tường đá kêu moo moo. Paddy nhảy qua tường, nằm xuống phía dưới một con bò có. những cái vú căng sữa. Cậu ta túm lấy một cái vú và vắt sữa vào miệng mình. Đang thưởng thức món sữa tươi cậu ta ngoảnh ra gọi tôi: “Lại đây, Frankie, sữa ngon lắm. Ngon cực. Túm lấy con bò kia, nó đầy sữa đấy”.
Tôi luồn xuống dưới bụng một con bò và túm lấy một cái vú của nó nhưng nó đá tôi và đi ra chỗ khác và tôi biết nếu tôi cố bám nó thì nó sẽ giết chết tôi. Paddy đi tới chỉ cho tôi cách vắt sữa, cậu ta bảo tôi phải vắt mạnh và vắt thẳng và như vậy sữa sẽ chảy ra. Hai chúng tôi nằm dưới một con bò và uống được khá nhiều sữa và khi chúng tôi vẫn còn đang mải vắt sữa uống thì bỗng đâu có tiếng hét và một người đàn ông cầm một cây roi đang chạy tắt qua thửa ruộng về phía chúng tôi. Trong một phút chúng tôi đã trèo qua tường ra ngoài và người đàn ông thì không thể đuổi kịp chúng tôi được bởi vì ông ta đi ủng cao su. Ông ta đứng ở trong tường và vừa vung cây roi trong không khí vừa gào lên rằng nếu ông ta mà bắt được chúng tôi thì ông ta sẽ làm cho mông chúng tôi mang những vết lằn cỡ bằng cái giày và chúng tôi cười nhạo ông ta bởi vì chúng tôi đã thoát hiểm và tôi nghĩ tội gì người ta phải để mình bị đói trong một thế giới đầy táo và sữa cơ chứ.
Paddy nói để thầy Chấm Nhỏ nhét chỗ vỏ táo của ông ấy vào đít, tôi không phản đối nhưng tôi không muốn đi trộm táo và sữa mãi và tôi sẽ luôn cố gắng dành được vỏ táo của ông ấy để tôi có thể về nhà khoe với bố tôi rằng tôi đã trả lời được những câu hỏi khó của thầy giáo.
Chúng tôi quay trở về. Trời đang có mưa nhỏ và có sấm sét và chúng tôi co chân chạy nhưng thật khó cho tôi phải chạy với đôi giày mòn đê cứ chực trượt hoài. Paddy có thể chạy thoải mái bởi cậu ta đi đất và bạn có thể nghe rõ từng bước chạy của cậu ta trên vỉa hè. Giày và tất của tôi ướt sũng và chúng phát ra những ầm thanh của riêng chúng, lóc bóc, lóc bóc. Paddy nghe tiếng bước chân của tôi và chúng tôi tạo ra một bài hát từ những tiếng chân chạy, lạch tạch lạch tạch, lóc bóc, lóc bóc, lạch tạch lóc bóc, lóc bóc lạch tạch. Chúng tôi cười rũ rượi trước bài hát chúng tôi tạo ra cho tới khi chúng tôi phải bám vào nhau. Mưa mỗi lúc một nặng hạt và chúng tôi biết chúng tôi không thể đứng tránh mưa dưới một cái cây được vì nếu chúng tôi làm thế thì rất có thể chúng tôi sẽ bị thiên lôi thui vì thế chúng tôi tìm đến một cái cửa nhưng chúng tôi đứng đó chưa được một phút thì cánh cửa đã mở và một cô giúp việc béo tốt đội mũ trắng đeo tạp dề trắng thò đầu ra đuổi chúng tôi đi. Chúng tôi chạy khỏi cái cửa đó và Paddy ngoái cổ lại gào to “đồ bê cái Mullingar, đổ bê cái” rồi cậu ta cười đến nghẹt thở và phải đứng dựa người vào một bức tường mà nghỉ. Đứng mãi trong mưa như thế chẳng khôn ngoan chút nào, người chúng tôi đã ướt sũng, vì vậy chúng tôi chạy xuống đại lộ O’Connell. Paddy nói rằng cậu ta đã học được từ “Bê cái Mullingar” từ chú Peter của cậu ta, người đã từng phục vụ trong quân đội Anh ở An Độ và chú của cậu ta vẫn còn giữ một bức ảnh chụp ông ấy đứng với một đám lính đội mũ đeo súng với những băng đạn quanh ngực và trong bức ảnh đó còn có những người đàn ông An Độ trung thành với vua Anh. Chú Peter đã có một thời gian đáng nhớ ở Kashmir, một nơi thú vị hơn cả Killamey. Paddy lại thao thao nói về chuyện trốn sang An Độ và sống trong một mái lều cùng với một cô gái có cái chấm đỏ ở giữa trán và ngày nào cũng ăn cari và sung và mặc dầu vừa mới ăn no táo và uống no sữa xong, nghe cậu ta nói thế tôi lại cảm thấy đói.
Mưa đã tạnh và có những con chim chao lượn trên đẩu chúng tôi. Paddy nói đó là những con vịt trời hay ngỗng trời hoặc loài chim trời nào đó đang trên đường bay tới châu Phi ấm áp. Những con chim đó khôn ngoan hơn người Ailen. Chúng đến sông Shannon để nghỉ ngơi rồi lại bay trở về những nơi ấm áp, An Độ chẳng hạn. Cậu ta nói rằng khi nào cậu ta đến An Độ cậu ta sẽ viết thư về cho tôi và tôi có thể đến đó kiếm một cô gái có cái chấm đỏ ở trán cho riêng mình.
Cái chấm đỏ đó để làm gì nhỉ, Paddy? Nó cho thấy rằng người ta thuộc tầng lớp cao quí. Nhưng, Paddy này, tầng lớp cao quí ở Ân Độ có thèm nói chuyên với cậu không nếu họ biết cậu đến từ một ngõ nghèo ở Limerick và không có giày đi? Tất nhiên là có, nhưng những người Anh thì không đâu. Tầng lớp cao quí ở Anh sẽ không chịu thí cho cậu đám hơi ở bãi nước tiểu của họ đâu. Hơi ở bãi nước tiểu của họ? Lạy Chúa, Paddy, cậu tự nghĩ ra những từ đó đấy à? Không, không, đó là những từ bố tớ đã nói khi ông ấy nằm trên giường ho sù sụ và luôn mồm oán trách người Anh.Và tôi nghĩ: “Hơi ở bãi nước tiểu của họ”. Tôi phải ghi nhớ những từ này mới được. Tôi sẽ đi quanh Limerick mà nói: “Hơi ở bãi nước tiểu của họ, hơi ở bãi nước tiểu của họ”, và khi nào tôi sang Mỹ tôi sẽ trở thành người duy nhất trên đất Mỹ biết những từ đó.
Quigley Hay Hỏi trên một chiếc xe đạp nữ đang tiến về phía chúng tôi và cậu ta gọi to: “Này, Frankie McCourt, cậu chết đến nơi rồi. Thầy Chấm Nhỏ đã gửi giấy đến nhà cậu báo cho bố mẹ cậu biết chiều nay cậu trốn học đi lang thang với Paddy Clohessy. Mẹ cậu sẽ giết cậu. Bố cậu đang đi tìm cậu và ông ấy cũng sẽ giết cậu”.
Ôi, Chúa ơi, tôi cảm thấy lạnh, trống rỗng và tôi ước gì tôi có thể đến Ân Độ nơi thời tiết ấm áp và nơi tôi không phải đến trường và bố tôi không bao giờ có thể tìm thấy tôi để mà giết. Paddy bảo với Hay Hỏi: “Cậu ấy không đi lang thang và tao cũng vậy. Fintan Stattery làm chúng tao chết đói và chúng tao không kịp về ăn bữa trưa ở trường”. Rồi Paddy nói với tôi: “Mặc kệ họ, Frankie, tất cả chỉ là bịa thôi mà. Trường gửi khối giấy đến nhà tớ và chúng tớ càng có cái để chùi đít”.
Bố mẹ tôi không bao giờ chùi đít bằng giấy nhà trường gửi đến và tôi sợ phải về nhà. Quigley Hay Hỏi vừa đạp xe đi vừa cười đắc ý và tôi không biết tại sao nó lại cười như vậy bởi vì nó đã có lần bỏ nhà ra mương ngủ với bốn con dê và chắc chắn việc đó còn tệ hơn việc trốn học có nửa ngày.
Giờ tôi có thể rẽ lên đường Barrack để về nhà và nhận lỗi với bố mẹ tôi và giải thích với họ rằng tôi không đi học vì tôi đói quá nhưng Paddy nói: “Đi nào, chúng mình sẽ đến đường Dock và chơi lia đá trên sông Shannon.
Chúng tôi chơi lia đá trên sông và ngồi đánh đu trên cái xích đu ở bờ sông. Trời đang tối và tôi không biết tôi sẽ ngủ ở đâu. Tôi có thể phải ngủ ngay ở bờ sông hoặc phải tìm một bậc cửa nào đó hoặc phải đi ra ngoại ô tìm một cái mương cạn và ngủ với những con dê giống như Brendan Quigley. Paddy bảo rằng tôi có thể về nhà cậu ta, tôi có thể ngủ trên sàn nhà và tôi sẽ không bị ướt.
Paddy sống trong một trong những nhà cao tầng nhìn ra sông ở bến Arthur. Mọi người ở Limerick đều biết những ngôi nhà đó có từ lâu lắm rồi và chúng có thể sập bất cứ lúc nào. Mẹ tôi thường nói: “Mẹ không muốn các con bén mảng đến bến Arthur và nếu mẹ mà nhìn thấy đứa nào ở đó thì mẹ sẽ đập vỡ mặt. Dân ở khu đó gớm lắm và người đi qua đó có thể bị cướp và bị giết như chơi”.
Trời lại mưa và đâu đó trong các ngôi nhà những đứa trẻ nhỏ đang chơi dọc các hành lang và trên các bậc thang. Paddy bảo tôi phải bước cẩn thận bởi có những chỗ bậc thang đã bị mất và ở những chỗ còn bậc thì rất hay có cứt của trẻ con vì trẻ con không xuống cầu thang kịp để đi vào nhà vệ sinh ở bên dưới.
Lên đến tầng bốn chúng tôi nhìn thấy một phụ nữ trùm khăn đang ngồi hút thuốc. Bà ấy hỏi:
Paddy đấy phải không? Vâng, mẹ ạ. Mẹ ngồi ngoài này hút thuốc. Những cái bậc chết tiệt này sẽ giết mẹ mất. Con uống trà chưa? Con chưa. Mẹ không biết nhà có còn bánh mì không nữa. Lên mà tìm xem.Gia đình Paddy sống trong một căn phòng rộng có trần cao và một cái bếp lò nhỏ. Trong phòng có hai cửa sổ cao và đứng đó bạn có thể nhìn ra sông Shannon. Bố cậu ta đang nằm trên chiếc giường kê ở góc phòng, rên rỉ và nhổ vào một cái bô. Các em trai và em gái của cậu ta đang nằm trên tấm đệm ở dưới sàn nhà, đứa thì ngủ, đứa thì nói chuyện, đứa thì nhìn lên trần nhà. Có một đứa bé trần truồng đang bò đến chỗ cái bô của bố nó và Paddy phải lôi nó ra. Mẹ cậu ta đang đi vào phòng, vừa đi vừa thở hổn hển. Bà ấy lẩm bẩm: “Lạy Chúa, con chết mất”.
Bà ấy tìm thấy một ít bánh mì và bắt đầu đi pha trà cho Paddy. Tôi không biết mình nên làm gì. Họ chẳng nói với tôi lời nào. Họ không hỏi tôi đến nhà họ làm gì hay bảo tôi đi về hay nói gì đó tương tự và phải một lúc sau ông Clohessy mới thều thào hỏi Paddy:
Ai thế? Đây là Frankie McCourt. McCourt à? Họ lạ gớm nhỉ? Bố cháu là người miền bắc, thưa bác Clohessy. Tên mẹ cháu là gì? Angela, thưa bác. Ôi, Chúa ơi, có phải Angela Sheehan không? Đúng ạ.Ông ấy rên rồi ho một cơn dữ dội và thò đầu ra ngoài mép giường nhổ liên tục vào bô. Khi cơn ho qua đi ông ấy lại để đầu xuống gối. Ông ấy thều thào: “Frankie, ôi, bác biết mẹ cháu rất rõ. Bác đã từng nhảy với mẹ cháu, ôi Chúa ơi, bác chết mất, bác đã nhảy với mẹ cháu ở hội trường Wembley và mẹ cháu là người nhảy đẹp nhất”.
Ông ấy lại nhoài người ra để nhổ. Ông ấy thở rất khó khăn. Ông ấy thở khó khăn như vậy nhưng ông ấy vẫn tiếp tục nói:
Cô ấy là người nhảy đẹp nhất, Frankie ạ. Mẹ cháu không gầy nhưng ôm mẹ cháu nhảy bác ngỡ mẹ cháu nhẹ như một cái lông chim và khi mẹ cháu đi khỏi Limerick có khối đàn ông tiếc ngẩn tiếc ngơ. Cháu có biết nhảy không, Frankie? Dạ, không, thưa bác Clohessy.Paddy nói:
Cậu ấy biết nhảy đấy, bố ạ. Cậu đã học nhảy ở chỗ bà O’Connor mà. Ôi, nhảy đi, Frankie. Cháu nhảy cho bác xem đi, Frankie. Nhấc chân lên nào, cháu. Cháu không nhảy đâu, bác Clohessy. Cháu nhảy dở lắm. Dở ư? Con trai Angela Sheehan mà lại nhảy dở ư? Nhảy đi nào, Frankie, cháu không nhảy thì bác sẽ bò dậy dắt cháu nhảy quanh cái nhà này. Giày của cháu bị hỏng rồi. Frankie, Frankie, cháu làm bác ho nữa đây này. Vì Chúa cháu hãy nhảy một chút để bác nhớ lại cái thời trai trẻ bác đã nhảy cùng với mẹ cháu ở hội trường Wembley. Bỏ đôi giày chết tiệt của cháu ra, Frankie, nhảy đi cháu.Tôi phải bịa ra các điệu nhảy và giai điệu kèm theo giống như trước đây tôi đã từng làm. Tôi nhảy quanh phòng với một chiếc giày tôi quên chưa cởi ra. Tôi cố bịa ra lời cho điệu nhảy: “Ôi, những bức tường Limerick đang đổ xuống, đổ xuống, những bức tường Limerick đang đổ xuống và sông Shannon sẽ giết chết chúng ta”.
Ông Clohessy nằm trên giường cười thành tiếng và nói: “Ôi, Chúa ơi, tôi chưa bao giờ nghe thấy bài hát nào như thế. Cháu có đôi chân tuyệt vời để làm vũ công đấy, Frankie ạ. Ôi, Chúa ơi”. Ông ấy lại ho và nhổ ra bao nhiêu là đờm rãi. Tôi thấy buồn nôn và tôi không biết mình có nên đi khỏi căn phòng với cái bô làm tôi buồn nôn kia để về nhà cho bố mẹ tôi muốn giết thì giết hay không.
Paddy nằm xuống một tấm đệm ở gần cửa sổ và tôi nằm xuống cạnh cậu ta. Tôi để nguyên quần áo như những người khác và tôi thậm chí còn quên cởi chiếc giày ướt đã bốc mùi ở chân ra. Paddy đặt lưng xuống là ngủ ngay còn tôi thì nằm đó nhìn mẹ cậu ta ngồi hút thuốc bên bếp lò chỉ còn le lói một chút than hồng. Bố Paddy rên rỉ và ho và nhổ vào bô. Ông ấy kêu lên: “Ôi, máu” và vợ ông ấy nói:
Sớm muộn gì thì mình cũng phải vào viện lao thôi. Tôi không vào đó. Vào đó là hết đời. Mình không thể lây bệnh sang bọn trẻ. Tôi có thể nhờ người ép mình phải đi viện để khỏi nguy hiểm cho bọn trẻ. Nếu lây thì đã lây rồi.Lò đã tắt và bà Clohessy trèo qua ông Clohessy lên giường. Trong một phút bà ấy đã ngáy khò khò mặc dù bên cạnh bà ấy ông Clohessy vẫn ho liên tục và thỉnh thoảng lại cười và lẩm bẩm nhắc lại những chuyện thời trai trẻ khi ông ấy nhảy với Angela Sheehan nhẹ như một cái lông chim ở hội trường Wimbley.
Căn phòng rất lạnh và tôi run cầm cập trong bộ quần áo ướt. Paddy cũng run nhưng cậu ta vẫn ngủ và cậu ta không biết mình rét. Tôi không biết tôi nên ở lại hay dậy và đi về nhà nhưng có mà điên mới muốn lang thang trên phố vào giờ đó để đụng phải một lính tuần đêm chuốc rắc rối vào mình. Đây là lần đầu tiên tôi bỏ nhà đi và tôi biết tôi thích ở nhà của tôi hơn cho dù ở nhà tôi phải ngửi mùi thối từ cái nhà vệ sinh và cái chuồng ngựa ở ngay trước cửa. Thật khó chịu mỗi khi căn bếp của chúng tôi bị ngập như một cái hồ khiến chúng tôi phải chuyển lên Ý nhưng ở nhà Clohessy còn khó chịu hơn khi mà bạn phải chạy qua bốn tầng mới xuống được nhà vệ sinh. Tôi thích ngủ ở một con mương với bốn con dê hơn.
Tôi ngủ chập chờn nhưng giấc ngủ chập chờn ấy của tôi cũng chẳng kéo dài được bao lâu bởi vì bà Clohessy dậy rất sớm và khua cả nhà dậy. Họ mặc nguyên quần áo đi ngủ nên sáng ra họ không mất công mặc quần áo và vì thế không có chuyện đánh nhau vì quần áo. Họ làu bàu và đua nhau chạy xuống cầu thang để đi vệ sinh. Tôi cũng phải đi vệ sinh và tôi chạy theo Paddy nhưng em gái cậu ta đã nhanh chân chiếm nhà vệ sinh trước rồi nên chúng tôi phải tìm đến một bức tường để đi tiểu. Em gái cậu ta đe chúng tôi: “Em trông thấy rồi nhé, em sẽ về mách mẹ là anh đái bậy” và Paddy quát: “Câm ngay nếu không tao sẽ dúi đầu mày vào nhà vệ sinh bây giờ”. Em gái cậu ta vội ôm quần chạy lên cầu thang và khi chúng tôi lên nhà bà Clohessy cầm chiếc thắt lưng da vụt Paddy một cái vào đầu vì tội bắt nạt em. Paddy đứng im không nói gì bởi vì mẹ cậu ta vụt cậu ta xong liền đi múc cháo ra bát và đổ mứt ra một cái tô bảo chúng tôi ngồi xuống ăn để còn đi học. Bà ấy ngồi xuống bàn ăn cháo. Tóc bà ấy màu tro xám trông chẳng sạch sẽ chút nào. Những sợi tóc quệt vào bát cháo và lôi lên một ít cháo hoặc một ít sữa, các con bà ấy húp cháo soàn soạt và kêu rằng chúng vẫn đói. Chúng thò lò mũi, đau mắt và sứt sẹo chân tay. Ông Clohessy ho và vật vã trên giường và nhổ ra những cục máu đỏ lòm khiến tôi phải chạy vội ra cầu thang nôn thốc nôn tháo ra chỗ một bậc thang bị mất và những thứ tôi nôn ra chảy xuống sàn nơi người ta đang tấp nập ra vào nhà vệ sinh. Paddy đến sau lưng tôi hỏi tôi có sao không và cậu ấy bảo rằng cầu thang ở đó là để cho người ta nôn và đi ỉa và rồi toàn bộ cái nơi chết tiệt mà cậu ta đang sống sẽ sập hoàn toàn.
Tôi không biết phải làm gì. Nếu tôi đến trường thì tôi sẽ bị giết và tại sao tôi lại phải đến trường hay về nhà để bị giết trong khi tôi có thể sống ở ngoài đường bằng sữa và táo cho đến ngày tôi đi Mỹ. Paddy nói rằng trường học là một sự lừa bịp và tất cả giáo viên ở đó đều là một lũ điên.
Có tiếng ai gõ cửa nhà bà Clohessy và đó là mẹ tôi dắt tay em Michael của tôi và cạnh mẹ là ông bảo vệ Dennehy, người quản lý sĩ số của trường. Mẹ tôi nhìn tôi và nói:
Con làm gì ở đây mà chân chỉ đi một giày thế kia hả?Ông bảo vệ nói:
Ô, cô này, tôi nghĩ phải hỏi một câu quan trọng hơn câu đó chứ.Michael chạy đến với tôi thỏ thẻ:
Mẹ khóc. Mẹ khóc vì anh đấy, Frankie.Mẹ tôi hỏi:
Con đã ở đâu cả đêm hả? Con ở đây. Con làm mẹ lo phát điên lên. Bố con đi tìm con khắp Limerick.Ông Clohessy từ trong nhà hỏi vọng ra:
Ai ở ngoài cửa thế? Mẹ cháu, thưa bác Clohessy.Ông Clohessy cố chống tay ngồi dậy:
Ôi, ơn Chúa, vào nhà đi Angela. Cô còn nhớ tôi không?Mẹ tôi ngây người ra. Căn phòng không được sáng và mẹ tôi không nhận ra ai ở trên giường. Ông Clohessy thều thào nói:
Tôi đây mà, Dennis Clohessy đây mà. Ôi, không. Đúng đấy, Angela ạ. Ôi, không. Tôi biết, Angela. Tròng tôi thay đổi nhiều. Bệnh ho sắp giết chết tôi rồi. Nhưng tôi vẫn nhớ những đêm ở hội trường Wembley. Ôi, Chúa ơi, hồi đó cô là người nhảy đẹp nổi tiếng. Những đêm ở hội trường Wembley, ôi Angela, và món cá tẩm bột chiên. Ôi, những chàng trai, ôi, những chàng trai, ôi, Angela.Mẹ tôi khóc. Mẹ tôi nói:
Dạo đó anh cũng là một người nhảy giỏi, anh Dennis Clohessy ạ. Chúng ta lẽ ra có thể chiến thắng mọi cuộc thi, Angela ạ. Fred và Ginger đáng lẽ phải ghen tị với chúng ta nhưng cô đã bỏ sang Mỹ. Ôi, Chúa ơi.Ông ấy lại ho và chúng tôi phải đứng nhìn ông ấy nhổ đờm vào bô. Ông bảo vệ Dennehy nói:
Chúng ta đã tìm được thằng bé rồi, giờ tôi phải đi thôi.Và ông ấy nói với tôi:
Nếu mày còn bỏ học đi lang thang nữa thì mày sẽ bị giam đấy, nhãi con ạ. Mày đã nghe rõ chưa hả? Rõ rồi, thưa ông bảo vệ. Đừng có làm khổ mẹ mày nữa, nhãi con. Tao không chịu nổi cảnh những bà mẹ bị hành hạ khổ sở đâu. Cháu sẽ không làm khổ mẹ cháu nữa đâu. Cháu sẽ không làm thế nữa đâu.Ông bảo vệ đi ra còn mẹ tôi thì đi đến bên giường ông Clohessy và cầm tay ông ấy. Khuôn mặt ông ấy rúm ró còn tóc ông ấy thì ướt đẫm mồ hôi. Đám con của ông ấy đứng vây quanh giường nhìn ông ấy còn ông ấy thì nhìn mẹ tôi. Bà Clohessy ngồi bên bếp lò chọc chọc cái que cời và ngăn không cho đứa con bé xán đến sát bếp. Bà ấy nói:
Ông ấy cứ không chịu đi bệnh viện nên mới ra nông nỗi ấy.Ông Clohessy nói một cách khó nhọc:
Nếu tôi được sống ở một chỗ khô ráo thì tôi đã không bị thế này. Angela này, ở Mỹ không ẩm thấp chứ? Vâng. Bác sĩ khuyên tôi nên đến Arizona. Cái ông bác sĩ ấy đến là vui tính. Arizona. Đến tiền để ra góc đường kia mua một vại bia tôi cũng chả có nói gì đến chuyện đi Arizona.Mẹ tôi nói:
Rồi anh sẽ khỏe thôi, anh Dennis ạ. Tôi sẽ thắp nến cầu nguyện cho anh. Đừng phí tiền, Angela. Những ngày đi nhảy của tôi đã kết thúc rồi. Giờ tôi phải đi, anh Dennis ạ. Con trai tôi phải đi học. Angela, trước khi cô đi cô làm ơn giúp tôi một việc được không? Được, anh Dennis, nếu tôi có thể thì tôi xin sẵn sàng. Cô có thể hát cho chúng tôi nghe một đoạn trong bài hát cô đã hát vào cái đêm trước ngày cô sang Mỹ được không? Đó là một bài hát khó hát, anh Dennis ạ. Tôi không biết mình còn đủ hơi để hát hay không. Ô, làm ơn đi, Angela. Tôi không bao giờ được nghe một bài hát nào nữa kể từ ngày đó. Trong nhà này không có ai hát bao giờ. Vợ tôi không thuộc bài hát nào và không nhảy được lấy một bước.Mẹ tôi nói:
Thôi được. Tôi sẽ thử xem.Ôi, những đêm với điệu nhảy Kerry,
Ôi, những vòng quay nhịp nhàng theo điệu sáo.
Ôi, mỗi giờ vui vẻ đó, trôi đi
Chao ôi, trôi qua nhanh, như tuổi trẻ của chúng ta.
Một tối mùa hè những chàng trai kéo về thung lũng,
Và những điệu sáo Kerry làm ngây ngất lòng người.
Mẹ tôi ngừng hát và đưa tay ôm ngực rên rỉ: “Ôi, Chúa ơi, tôi hết hơi rồi. Giúp mẹ với, Frank” và thế là tôi hát:
Ôi, nghĩ đến đêm đó,
Ôi, cứ mơ đến đêm đó,
Trái tim tôi lại nghẹn ngào thổn thức.
Ôi, những đêm với diệu nhảy Kerry,
Ôi, những vòng quay nhịp nhàng theo diệu sáo.
Ôi, mỗi giờ vui vẻ đó, trôi đi, chao ôi,
Trôi qua nhanh, như tuổi trẻ của chúng ta.
Ông Clohessy cố hát theo chúng tôi nhưng hát chưa được một câu ông ấy đã ho sù sụ. Ông ấy lắc đầu và nghẹn ngào nói với mẹ tôi:
Tôi không nghi ngờ cô đâu, Angela. Bài hát đưa tôi trở lại những ngày ấy. Cầu Chúa ban phước cho cô. Cầu Chúa ban phước cho anh, anh Dennis, và cám ơn chị Clohessy, vì đã cho Frankie ở đây để cháu nó không phải ngủ ngoài đường. Không có gì, chị McCourt. Thằng bé có quấy rầy gì chúng tôi đâu.Ông Clohessy nói:
Chẳng quấy rầy gì đâu, nhưng nó không nhảy giỏi như mẹ nó.Mẹ tôi nói:
Đi có một chiếc giày mà nhảy thì cũng khó, anh Dennis ạ. Tôi biết, Angela ạ, nhưng không hiểu tại sao thằng bé lại không cởi ra. Nó hơi lạ phải không? Ồ, đôi khi nó kỳ quặc như bố của nó ấy mà. Ồ, ra thế. Bố thằng bé là người miền Bắc, và nó như thế cũng đúng thôi. Ó miền Bắc người ta đi một chiếc giày mà nhảy có ai cho là lạ đâu.Chúng tôi đi xuống phố Patrick và phố O’Connell, Paddy Clohessy, mẹ tôi cùng Michael và tôi, trên đường đi mẹ tôi cứ khóc sụt sịt. Michael nói với mẹ tôi:
Mẹ, đừng khóc nữa mẹ. Anh Frankie sẽ không bỏ đi nữa mà.Mẹ tôi bế Michael lên tay:
Ôi, không, Michael, mẹ không khóc vì anh Frankie đâu. Mẹ khóc vì bác Dennis và về những đêm mẹ với bác ấy nhảy ở hội trường Wembley.Mẹ tôi đến trường với chúng tôi. Thầy O’Neill liếc xéo chúng tôi một cái và bảo chúng tôi ngồi đợi ông ấy. Ông ấy nói chuyện với mẹ tôi ở ngoài cửa một lúc lâu và khi mẹ tôi ra về ông ấy quay vào lớp đến chỗ Paddy tát vào đầu cậu ta mấy cái liển.
Tôi rất tiếc cho gia đình Clohessy và tiếc cho tất cả những khó khăn của họ nhưng tôi nghĩ chính họ đã cứu tôi thoát khỏi rắc rối với mẹ tôi.